Tải bản đầy đủ (.pdf) (236 trang)

nâng cao thể chất cho hóc inh trung học cơ sở các tỉnh trung du bắc bố bằng ngoại khó môn võ cổ truyền việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 236 trang )

1
MỞ ĐẦU
Trong các văn kiện Đại hội và Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII của
Đảng về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ đã khẳng định: “Giáo dục
đào tạo với khoa học và công nghệ phải trở thành quốc sách hàng đầu, chuẩn
bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI” [1]. Nghị quyết Trung
ương 8 khóa XI một lần nữa khẳng định: "Giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân" [5].
Giáo dục và phát triển giáo dục trong Nhà trường có ý nghĩa to lớn
trong việc phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người. Đồng thời góp phần
nâng cao thể lực giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong
phú đời sống văn hóa và phát huy tinh thần dân tộc của con người Việt Nam,
tăng cường và giữ vững an ninh quốc phòng cho đất nước. Trong những năm
qua, chất lượng giáo dục trong trường học các cấp nói chung đã có những
chuyển biến rõ rệt. Toàn ngành đã tập trung vào thực hiện đổi mới chương
trình sách giáo khoa mà cơ bản là đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn. Chất
lượng đội ngũ giáo viên được đặc biệt quan tâm. Kiến thức kỹ năng sư phạm
và trách nhiệm giảng dạy được nâng cao đáng kể.
Trong hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng của giáo dục thể chất được
gắn liền với giáo dục trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động. Giáo dục
thể chất là một trong những nội dung quan trọng, góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục toàn diện học sinh trong nhà trường.
Giáo dục thể chất trong nhà trường là môn học bắt buộc, thuộc chương
trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo, nhằm trang bị cho trẻ em,
học sinh, sinh viên các kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói
quen luyện tập thể dục, thể thao để rèn luyện sức khỏe, phát triển toàn diện
các tố chất thể lực, tầm vóc, tiến tới hồn thiện đến mức cần thiết các kỹ năng,
kỹ xảo quan trọng cho cuộc sống, đồng thời giáo dục văn hóa thể chất, nâng



2
cao sức khỏe tinh thần, biết cách thích ứng và hài hịa với các điều kiện sống,
điều kiện mơi trường học tập, lao động của bản thân và hoàn cảnh xã hội.
Công tác Giáo dục thể chất (GDTC) đã được quan tâm hơn về cơ sở vật
chất, trang thiết bị cho q trình đào tạo và đã có những kết quả nhất định
như: 100% các trường Trung học cơ sở (THCS) đều có giờ học thể dục nằm
trong chương trình quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (BGD&ĐT). Các
trường đều tham gia các hoạt động TDTT do địa phương, Phịng giáo dục,
Phịng Văn hố - Thể thao tổ chức. Phong trào Thể dục thể thao (TDTT) nói
chung và rèn luyện thể chất nói riêng của học sinh các cấp ngày càng phát
triển rộng rãi.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh đạt được của giáo dục trong
trường học các cấp nói chung, giáo dục thể chất trong các trường THCS vẫn
còn những hạn chế, tồn tại và thiếu hụt nhất định. Chất lượng GDTC trong
trường học cũng còn nhiều bất cập, một phần do sự đầu tư cho GDTC chưa
đúng mức, do cơ sở vật chất còn nghèo nàn, trang thiết bị phục vụ công tác
giáo dục thể chất trong trường học các cấp cịn lạc hậu và ít được đầu tư mới,
phần nữa, trong tư tưởng của nhiều trường thì GDTC là mơn phụ nên khơng
có giáo viên chuyên trách, hoạt động ngoại khoá cho học sinh cũng chưa được
chú trọng phát triển… Từ những thực tế trên mà GDTC trong trường học còn
bị xem nhẹ, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra.
Do các điều kiện kinh tế - xã hội, cũng như các đặc điểm vùng miền
của các trường THCS các tỉnh trung du Bắc bộ (TDBB), tính đa dạng của
thành phần học sinh trong các trường cùng các đặc điểm tâm, sinh lý riêng
biệt của học sinh vùng TDBB đòi hỏi phải có những nội dung giáo dục,
cách thức tiến hành các hoạt động GDTC phù hợp nhằm nâng cao chất
lượng GDTC của các trường.
Hiệu quả của công tác GDTC trong các trường hiện nay còn nhiều
hạn chế, yếu kém do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác
nhau. Trong đó: Cơng tác giảng dạy TDTT trong các trường học vẫn còn



3
mang nặng tính hình thức, thực trạng năng lực thể chất của học sinh còn
nhiều hạn chế, một phần do: Điều kiện trang thiết bị, sân bãi dụng cụ tập
luyện cịn thiếu; q trình quản lý, chỉ đạo, tổ chức vận dụng nội dung hình
thức tập luyện trong các nhà trường cịn nhiều nơi chưa hợp lý; chương
trình mơn học thể dục chưa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh,
nên kết quả học tập chưa đạt chất lượng cao.
Hiện nay, chương trình GDTC cho học sinh đã được phổ cập, tuy
nhiên vẫn chưa tạo ra một chế độ vận động thân thể tích cực thường xuyên
và có hệ thống, dẫn tới hiệu quả giáo dục thể chất chưa được như mong
muốn. Do đó, cần thiết phải xây dựng chế độ vận động thân thể tích cực cho
học sinh tiểu học, nhằm tạo ra sự biến đổi về thể chất, góp phần nâng cao thể
lực và tầm vóc con người Việt Nam. Mặc dù vậy, chiều cao thân thể và tố
chất thể lực của người Việt Nam còn thua kém nhiều so với các nước trong
khu vực. Để nhận biết những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và có
những giải pháp điều chỉnh kịp thời, cần có nhiều cơng trình nghiên cứu về
thể chất con người Việt Nam.
Chính vì vậy, hoạt động TDTT trong trường học địi hỏi phải tìm ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác GDTC nói chung và nâng
cao thể chất cho học sinh nói riêng trong các trường học, đó là vấn đề cấp
thiết đặt ra cho tồn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Giáo dục thể chất trong
trường học, trong đó có THCS, là một biện pháp quan trọng góp phần thực
hiện mục tiêu giáo dục con người toàn diện, cung cấp nhân lực đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
VCT Việt Nam, trước hết nó là một mơn thể thao, bởi vì cũng như các
mơn thể thao khác, tồn bộ kỹ thuật và quyền pháp của võ đều xây dựng trên
nền tảng các nguyên lý về tâm sinh lý và vật lý; nó giúp phát triển tồn diện
con người, giúp con người có được “một tinh thần minh mẫn trong một thân

thể tráng kiện” [29], [30], [52]. Tập luyện võ thuật cổ truyền khơng chỉ là hoạt
động của chân tay mà cịn là hoạt động của toàn cơ thể, khiến cho cơ bắp


4
ngày càng cứng cáp và dẻo dai hơn, các hệ tim mạch, hơ hấp, hệ bài tiết, hệ
tiêu hóa và hệ thần kinh cũng nhờ đó mà hoạt động tốt hơn. Đối với lứa tuổi
học sinh THCS, tập luyện võ thuật cổ truyền khơng những giúp phát triển
tồn diện về thể chất, tinh thần, mà còn dạy cho các em cách làm người, rèn
luyện cho các em cách sống có khn khổ, tập được nhiều đức tính tốt, giúp
các em hiểu rõ hơn lịch sử của dân tộc Việt Nam, đặc biệt hơn là giúp cho các
em tránh xa vào các tệ nạn xã hội hiện nay.
Đưa Võ cổ truyền vào trường học là việc làm thiết thực, thực hiện Nghị
quyết Trung ương 7, khóa IX về cơng tác dân tộc; Nghị quyết Trung ương 5,
khóa VIII; Kết luận Hội nghị Trung ương 10, khóa IX về xây dựng và phát
triển một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thực hiện
Quyết định số 47/2002/QĐ-BGD&ĐT, ngày 19/11/2002 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về chương trình (thí điểm) trong đó có mơn Thể dục; đồng thời thực
hiện các giải pháp đẩy mạnh xã hội hóa TDTT đến 2010 là: chú trọng phát
triển các môn thể thao dân tộc và các môn thể thao được quần chúng ưa thích;
hình thành các chương trình và kế hoạch thích hợp phát triển TDTT, trị chơi
vận động ngoại khóa trong các trường mẫu giáo và phổ thông [2],[3],[4],[7]...
Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020 đã chỉ
rõ: “... bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc Việt
Nam; lựa chọn một số trò chơi vận động dân gian để đề xuất đưa vào thi đấu
trong hệ thống thi giải thao quốc gia; chú trọng bảo tồn và phát triển các
môn VCT dân tộc”[16]. Để thực hiện mục tiêu đó, Ngành TDTT đã tiến hành
xây dựng Đề án bảo tồn và phát triển VCT Việt Nam đến năm 2020, với lộ
trình được chia làm 2 giai đoạn chính: Giai đoạn 1, từ 2013 - 2016 sẽ tập
trung vào việc bảo tồn VCT Việt Nam, thành lập Liên đoàn thế giới VCT Việt

Nam, thành lập 30 Hội, Liên đoàn VCT cấp tỉnh, thành, ngành cũng như đào
tạo từ 30 đến 50 HLV VCT có trình độ chun mơn giỏi...; Giai đoạn 2, từ
2017 - 2020 tập trung bảo tồn và phát triển VCT Việt Nam, tiếp tục thành lập
thêm 10 đến 15 Hội, Liên đoàn VCT cấp tỉnh, thành, ngành; tiến hành nghiên


5
cứu xây dựng hệ thống các bài tập để đưa việc giảng dạy VCT vào các trường
đào tạo chuyên ngành TDTT và tiến tới đưa VCT vào chương trình học ngoại
khóa trong các trường phổ thơng các cấp trên tồn quốc.
Ngày 11/8/2015, Văn phịng Chính phủ ban hành Cơng văn số
6311/VPCP-KGVX [88]; Thực hiện công văn trên Bộ GD&ĐT ban hành
công văn số 4775/BGD&ĐT-CTHSSV ngày 16/9/2015 về việc triển khai
thống nhất nội dung tập thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ và bài VCT
Việt Nam trong các trường phổ thơng [11]. Trước đó, tại một hội nghị Phó
Thủ tưởng Vũ Đức Đam nhấn mạnh: "Phát triển giáo dục toàn diện đối với
học sinh phổ thông không thể thiếu vai trò của giáo dục thể chất và hoạt
động thể thao trong nhà trường, trong đó việc duy trì đều đặn hoạt động tập
thể dục, tập luyện các bài VCT là hết sức cần thiết, vừa rèn luyện sức khỏe,
vừa góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, có kỷ cương, nền nếp, ý thức
trách nhiệm, phát huy tinh thần thượng võ của dân tộc".
Xuất phát từ những lý do nêu trên, nhằm mục đích góp phần bảo tồn và
phát triển môn võ thuật cổ truyền Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt hướng
tới mục tiêu gần là phát triển mơn võ thuật cổ truyền trong chương trình ngoại
khố tại các trường phổ thơng, trong đó có các trường THCS, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nâng cao thể chất cho học sinh trung học cơ sở các tỉnh
Trung du Bắc bộ bằng ngoại khố mơn Võ Cổ truyền Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác GDTC, thực trạng thể chất của
học sinh THCS các tỉnh TDBB và các yếu tố, điều kiện đảm bảo cho phổ cập

môn VCT, luận án tiến hành ứng dụng thí điểm chương trình tập luyện ngoại
khóa mơn VCT Việt Nam tại một số trường THCS các tỉnh TDBB, đồng thời
xác định mức độ phù hợp, tính khả thi và hiệu quả của chương trình tập luyện
ngoại khóa mơn VCT Việt Nam trong việc nâng cao và đáp ứng các yêu cầu
cơ bản về năng lực thể chất cho học sinh trung học cơ sở vùng TDBB.


6
Mục tiêu nghiên cứu.
Để đạt được mục đích đề ra, đề tài giải quyết các mục tiêu sau:
Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng công tác GDTC, một số yếu tố, điều
kiện đảm bảo và năng lực thể chất của học sinh THCS các tỉnh TDBB.
Mục tiêu 2: Xây dựng chương trình tập luyện ngoại khóa mơn VCT
Việt Nam cho học sinh THCS các tỉnh TDBB.
Mục tiêu 3: Ứng dụng và xác định hiệu quả chương trình tập luyện
ngoại khóa môn VCT Việt Nam cho học sinh THCS các tỉnh TDBB.
Giả thuyết khoa học:
Giả thuyết rằng, nếu áp dụng chương trình tập luyện ngoại khóa mơn
võ Cổ truyền Việt Nam cho học sinh trung học cơ sở các tỉnh Trung du Bắc
bộ phù hợp với các điều kiện đảm bảo (cơ sở vật chất, sân bãi, đội ngũ
giảng dạy) thì thể chất của học sinh sẽ được nâng cao, góp phần nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học ở các trường
trung học cơ sở.


7
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Quan điểm của Đảng v Nh nƣớc về giáo dục và thể dục thể
thao trƣờng học

1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục
Xu hướng phát triển giáo dục trên thế giới
Bước sang thế kỷ XXI thế giới có nhiều biến đổi, khoa học và cơng
nghệ có bước tiến nhảy vọt, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của GD&ĐT và
xu hướng tồn cầu hóa, đại chúng hóa giáo dục nên số người lao động có trình
độ cao ngày càng tăng, nền kinh tế tri thức có vai trị đặc biệt quan trọng trong
quá trình phát triển ở nhiều quốc gia [94], [95].
Để đáp ứng nhu cầu về lực lượng lao động cho nền kinh tế luôn biến đổi,
giáo dục cũng ln phải bám sát thực tiễn, thích nghi với những thay đổi về cơ
cấu của nền kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, do vậy hiện
nay hệ thống các nền giáo dục trên thế giới cũng đang đứng trước xu hướng tồn
cầu hóa, đại chúng hóa, quốc tế hóa giáo dục, liên kết mở rộng qui mô với các
cơ sở giáo dục ở nước ngồi... Trong khi q trình tồn cầu hóa đã đem đến q
trình thương mại hóa song song với quốc tế hóa các trường học, việc liên kết về
chương trình và mở rộng các cơ sở đào tạo giữa các trường trên thế giới đã trở
thành một trào lưu thì q trình đại chúng hóa giáo dục cũng cho phép việc mở
rộng phạm vi giáo dục, gia tăng các trung tâm, cơ sở giáo dục, làm cho nhiều
người có cơ hội tiếp cận, lựa chọn một hình thức giáo dục phù hợp hơn. Cùng
với các xu thế giáo dục trên cịn có một xu thế mới gắn liền với sự phát triển của
cơng nghệ thơng tin đó là mơi trường dạy và học trực tuyến. Nhờ có những bước
tiến trong hệ thống mạng Internet và viễn thông, cũng như khả năng tái sử dụng
nguồn tài liệu giáo dục được các nước tiên tiến đang và sẽ không ngừng phát
triển trên các website, viễn cảnh giáo dục từ xa thắp sáng niềm hi vọng về một
q trình tồn cầu hóa, khi gắn với sự phát triển, có thể đem đến cho con người


8
khả năng giải quyết hầu hết các thiếu sót về kiến thức cơ bản chỉ trong vòng một
thế hệ [71], [95].
Gắn liền với các xu thế giáo dục trên thế giới hiện nay là sự ĐMGD,

đổi mới về tầm nhìn, về định hướng giáo dục, đổi mới về chương trình, về
phương pháp… và một trong những định hướng quan trọng trong việc
ĐMGD, đổi mới phương pháp dạy học ở nhiều nước được thể hiện ở tính
phân hóa trong giáo dục. Tăng cường tính phân hóa trong giáo dục nhằm
hướng tới sự phát triển năng lực ở mỗi cá nhân và dành cho người học nhiều
hơn các cơ hội lựa chọn các hình thức và nội dung học tập… [71], [95].
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển giáo dục
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011 xác định một
trong ba mũi đột phá chiến lược để phát triển kinh tế xã hội đất nước đến năm
2020 là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao và tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân,
trong đó phát triển đội ngũ giáo viên được coi là một yếu tố quan trọng, là
khâu then chốt trong đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục [99].
Nghị quyết hội nghị lần 8 BCH TW Đảng khóa XI (Nghị quyết số 29NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc
tế đã đưa ra quan điểm chỉ đạo [99]:
- GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT là đổi mới những vấn đề lớn, cốt
lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện, đổi mới ở tất cả các
bậc học, ngành học ...
- Phát triển GD&ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang


9
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý
luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội.

- Phát triển GD&ĐT phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ Tổ quốc.
- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa
các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá,
hiện đại hoá GD&ĐT.
- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển GD&ĐT.

u tiên

đầu tư phát triển GD&ĐT đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc
thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách...
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển GD&ĐT, đồng thời
GD&ĐT phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Định hướng ĐMGD và các giải pháp phát triển giáo dục giai đoạn
2011 - 2020
GD&ĐT có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực, quyết định
thành công công cuộc CNH - HĐH đất nước do vậy, đổi mới căn bản và
toàn diện nền GD&ĐT được Đảng, Nhà nước coi là một yêu cầu cấp thiết
với định hướng về các nhiệm vụ, giải pháp và mục tiêu [99]:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối
với đổi mới GD&ĐT, quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền GD&ĐT trong hệ
thống chính trị, ngành GD&ĐT và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi
GD&ĐT là quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định
chất lượng GD&ĐT của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của
GD&ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát



10
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của
người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
- Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá
kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Đẩy mạnh phân luồng sau
THCS; định hướng nghề nghiệp ở THPT. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ
thống GDPT phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển
giáo dục của thế giới.
- Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ,
thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục,
đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng.
- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi
mới GD&ĐT. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội
ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo
viên tiểu học, THCS, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Đổi mới mạnh mẽ
mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá
kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng,
trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học,
công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý
- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo
dục, đào tạo



11
Mục tiêu đến năm 2020 nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc
tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện. Đến năm 2020, tỷ lệ
đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 99%, THCS là 95% và 80% thanh niên trong
độ tuổi đạt trình độ học vấn THPT và tương đương. Phấn đấu đến năm 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
1.1.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về thể dục thể thao trường học
TDTT trường học bao gồm hoạt động GDTC bắt buộc và hoạt động
TDTT tự nguyện của HS, SV trong trường học các cấp thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân, là bộ phận cơ bản và quan trọng của nền TDTT nước ta. Vấn
đề này đã được làm rõ trong các văn bản, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về
lĩnh vực GDTC và TDTT trường học. Cụ thể:
Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 tại Điều 41 đã
quy định: "Nhà nước và xã hội phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa
học và nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục,
thể thao; quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học; khuyến khích và
giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức thể dục, thể thao tự nguyện của nhân
dân, tạo các điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể
dục, thể thao quần chúng. [58]; Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
sửa đổi năm 2013 tại Điều 37 đã quy định: "Thanh niên được Nhà nước, gia
đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí
tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong
công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc" .
Chỉ thị số 36/CT/TW ngày 24-03-1994 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khóa VII) đã giao trách nhiệm cho Bộ GD-ĐT và Tổng cục TDTT
thường xuyên phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác GDTC, cải tiến chương
trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo GV TDTT cho trường

học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về CSVC để thực hiện chế độ
GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện TDTT trở


12
thành nếp sống hàng ngày của hầu hết HS, SV, qua đó phát hiện và tuyển
chọn được nhiều tài năng thể thao cho quốc gia [2].
Các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng đã
xác định những quan điểm cơ bản và chủ trương lớn trong công tác TDTT
của thời kỳ đổi mới. Chăm sóc sức khỏe, tăng cường thể chất của nhân dân
ln được coi là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc địi hỏi nhân dân ta phải có sức khỏe dồi
dào, thể chất cường tráng, tinh thần phấn khởi. Tập luyện TDTT là một biện
pháp hiệu quả để tăng cường lực lượng sản xuất và lực lượng quốc phòng
của nước nhà. Đó chính là những quan điểm của Đảng ta về phát triển sự
nghiệp TDTT ở Việt Nam. [3], [4].
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, năm 1960 đến Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII, năm 2016, trong các văn kiện và nghi quyết Đại hội,
Đảng ta đều nêu quan điểm chỉ đạo công tác TDTT trong cả nhiệm kỳ. Đồng
thời trong một số nhiệm kỳ, Ban chấp hành Trung ương đảng đã ban hành chỉ
thi, nghi quyết chuyên đề về công tác TDTT.
Hoạt động TDTT lần đầu tiên được luật hóa thơng qua là Pháp lệnh
TDTT được ban hành năm 2000 [55]. Sau một thời gian dài chuẩn bị, năm
2006 Luật TDTT được Quốc hội thông qua, ghi dấu ấn mới cho sự phát triển
TDTT của nước nhà. Luật TDTT đã dành riêng một mục gồm 6 điều để quy
định về công tác GDTC và hoạt động thể thao trong nhà trường, đây là cơ sở
pháp lý để tăng cường trách nhiệm đối với công tác TDTT nói chung, cơng
tác TDTT trong trường học nói riêng [57].
Không chỉ lãnh đạo TDTT và GD&ĐT bằng đường lối, chính sách, mà
Nhà nước cịn đề ra những giải pháp chỉ đạo thực hiện hiệu quả. Một trong

những giải pháp là đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa (XHH) GD và TDTT. Với
quan điểm GD và TDTT là sự nghiệp của tồn dân, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về việc đẩy mạnh XHH các lĩnh vực giáo
dụcy tế, văn hố và TDTT (2005) về chính sách XHH đối với các hoạt động


13
trong lĩnh vực GD, dạy nghề, văn hóa, thể thao nhằm huy động nguồn lực của
toàn xã hội cho sự nghiệp GD và TDTT. Các văn bản này đã tạo cơ sở pháp
lý để các ngành đẩy mạnh công tác XHH, làm cho mọi thành phần trong xã
hội đổi mới quan điểm, nhận thức và giải pháp thực hiện XHH, tạo điều kiện
để toàn xã hội tham gia và đầu tư các nguồn lực để phát triển công tác GDTC
và phong trào thể thao cho mọi người, nâng cao thành tích thể thao đỉnh cao
và hội nhập quốc tế [67].
Theo Luật Thể dục Thể thao được ban hành ngày 29 tháng 11 năm
2006 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Giáo dục thể chât và thể thao trong nhà trường bao gồm 2 nội dung
chính:
“GDTC là mơn học chính khố thuộc chương trình giáo dục nhằm cung
cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thơng qua các bài tập
và trị chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện”. Đây
cịn được gọi là Thể dục nội khóa;
“Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của người
học được tổ chức theo phương thức ngoại khoá phù hợp với sở thích, giới
tính, lứa tuổi và sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền
vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao”, cịn được gọi là thể dục, thể
thao ngoại khóa. [57]
Nghị định số 11/2015/NĐ-CP ngày 31/01/2015 của Thủ tướng Chính
phủ Quy định về GDTC và hoạt động thể thao trong nhà trường nhấn mạnh
“GDTC trong nhà trường là nội dung giáo dục, mơn học bắt buộc, thuộc

chương trình giáo dục của các cấp học và trình độ đào tạo, nhằm trang bị cho
trẻ em, HS, SV các kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen
luyện tập thể dục, thể thao để nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc,
góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện”. [ 71]
Chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đến năm 2020 đã dành riêng
một phần quan trọng cho GDTC và hoạt động thể thao trường học. Đề cập


14
đến những yếu kém, tồn tại của công tác GDTC, Chiến lược đã nêu: “Công
tác GDTC trong nhà trường và các hoạt động thể thao ngoại khóa của HS, SV
chưa được coi trọng, chưa đáp ứng yêu cầu duy trì và nâng cao sức khỏe cho
HS, là một trong số các nguyên nhân khiến cho thể lực và tầm vóc người Việt
Nam thua kém rõ rệt so với một số nước trong khu vực... Chương trình chính
khóa cũng như nội dung hoạt động ngoại khóa cịn nghèo nàn, chưa hợp lý,
không hấp dẫn HS tham gia các hoạt động thể thao ngoại khóa” [68]. Trong
đó đã nêu ra các chỉ tiêu đến năm 2015 có 100% số trường phổ thơng thực
hiện đầy đủ chương trình GDTC nội khóa, 45% số trường phổ thơng có CLB
TDTT, có CSVC đủ phục vụ cho hoạt động TDTT, có đủ GV và hướng dẫn
viên TDTT, thực hiện tốt hoạt động thể thao ngoại khóa, 75% số HS được
đánh giá và phân loại thể lực theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể [68].
Nhằm phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH, Thủ tướng đã phê
duyệt Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn
2011-2030; trong đó có chương trình phát triển thể lực, tầm vóc bằng giải
pháp tăng cường GDTC. Một trong những nội dung chủ yếu của chương trình
này là: “Đảm bảo chất lượng dạy và học TD chính khóa, các hoạt động thể
thao ngoại khóa cho HS, xây dựng chương trình GDTC hợp lý...” và “Tận
dụng các cơng trình TDTT trên địa bàn để phục vụ cho hoạt động GDTC
trong trường học” [69].

Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 01 tháng 12 năm 2011
về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về
TDTT đến năm 2020 đã có nêu: “Mục tiêu của ngành TDTT là "nhằm tiếp tục
hoàn thiện bộ máy tổ chức, đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ thể dục, thể thao; tăng cường CSVC, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công
nghệ làm nền tảng phát triển mạnh mẽ và vững chắc sự nghiệp TDTT” [5];
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08NQ/TW
ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố XI


15
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục,
thể thao đến năm 2020 (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày
14/01/2013 của Chính phủ) đã khẳng định: “Đổi mới chương trình và phương
pháp GDTC, gắn GDTC với giáo dục ý chí, đạo đức, giáo dục quốc phòng,
giáo dục sức khỏe và kỹ năng sống của HS, SV. Mở rộng và nâng cao chất
lượng hoạt động TDTT quần chúng: Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn
dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, vận động và thu hút đông
đảo nhân dân tham gia tập luyện thể dục, thể thao...; Các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt sâu
sắc các quan điểm của Đảng về công tác thể dục, thể thao” [70].
Tóm lại, các văn bản, chỉ thị của Đảng và Nhà nước đã thể hiện tư
tưởng nhất quán: Coi trọng và đề cao vai trò của TDTT trong xã hội, trong đó
có TDTT trong trường học các cấp; đồng thời, đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo là một yêu cầu khách quan và cấp bách tại nước ta trong
giai đoạn hiện nay. GDTC vừa là một mơn học thuộc chương trình giáo dục
quốc dân,vừa là một mặt giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai
của đất nước nhằm đào tạo cho đất nước một thế hệ phát triển cao về trí tuệ,
cường tránh về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, đáp
ứng yêu cầu của q trình CNH, HĐH đất nước. Chính vì vậy, đổi mới công

tác GDTC và TDTT trong trường học các cấp cũng là vấn đề cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục vùng TDBB
Trong nhiều năm qua, Đảng và Chính phủ đã chú trọng đến công tác
giáo dục ở các vùng khác nhau trong cả nước và thu được nhiều kết quả. Hệ
thống giáo dục từ mầm non đến trung học phổ thông được củng cố và phát
triển, đáp ứng cơ bản nhu cầu học tập của học sinh cũng như phụ huynh. Tuy
nhiên, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa XI đánh giá: chất lượng
giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; kết quả phổ cập giáo dục
ở nhiều huyện miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp. Do vậy, để


16
nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh vùng TDBB, công tác GDTC cũng
phải được tăng cường, áp dụng những biện pháp, giải pháp đổi mới GDTC
cho phù hợp với học sinh TDBB và cả nước [5], [6], [7], [11], [58], [75], [76],
[77], [79].
Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác giáo dục, với quan điểm
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”, "đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển" [5]. Từ quan điểm đó, công tác giáo dục ở các tỉnh trung du miền
núi càng được coi trọng một cách đặc biệt. Nhiều chính sách của các ngành
các cấp được ban hành cho công tác giáo dục và GDTC vùng trung du và
miền núi.
Quyết định số 1379/QĐ-TTg ngày 12 tháng 8 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ về phát triển, đào tạo và dạy nghề các tỉnh vùng trung du, miền núi
phía Bắc và các huyện phía Tây tỉnh Thanh Hóa, tỉnh Nghệ An giai đoạn
2013-2020. Trong đó, mục tiêu được xác định là [78]: “Mục tiêu phát triển
giáo dục, đào tạo và dạy nghề các tỉnh vùng trung du, miền núi phía Bắc và
các huyện phía Tây tỉnh Thanh Hóa, tỉnh Nghệ An giai đoạn 2013 - 2020
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, đào tạo nguồn

nhân lực tại chỗ và nguồn nhân lực chất lượng cao; chú trọng giáo dục vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn” [78].
GDTC ln là một bộ phận khơng tách rời trong chính sách giáo dục
của Nhà nước, vì vậy hoàn thiện nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh
TDBB là góp phần giáo dục tồn diện cho học sinh, đáp ứng mục tiêu đề ra.
Nhiệm vụ của giáo dục phổ thơng được xác định là: “Các tỉnh trong vùng
hồn thành quy hoạch mạng lưới trường, lớp học phù hợp với đặc thù của
từng địa phương và yêu cầu phát triển giáo dục của giai đoạn 2013 - 2020,
bảo đảm tạo thuận lợi cho học sinh đến trường và tăng tỷ lệ huy động học
sinh đi học, học sinh học 2 buổi/ngày;


17
Tiếp tục thực hiện Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và nhà
công vụ giáo viên; huy động, lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình, dự án
giáo dục khác để tăng hiệu quả đầu tư, từng bước chuẩn hóa cơ sở vật chất
trường học; đầu tư phát triển hệ thống trường trung học phổ thông chuyên
theo Đề án đã được Thủ tương Chính phủ phê duyệt; đảm bảo các điều kiện
để triển khai thực hiện Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân giai đoạn 2008 - 2020;
Củng cố hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú theo quy hoạch phù
hơp với nhu cầu tạo nguồn đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số của các địa
phương, nhân rộng mơ hình trường phổ thơng dân tộc nội trú có dạy nghề;
thành lập trường phổ thông dân tộc nội trú liên cấp trung học cơ sở - trung
học phổ thông; đảm bảo điều kiện sinh hoạt cho học sinh các trường phổ
thông dân tộc bán trú; xây dựng nhà ở bán trú cho học sinh dân tộc thiểu số
học trung học phổ thông ở những địa bàn đặc biệt khó khăn, giao thơng cách
trở” [78].
1.2. Khái quát về hoạt động TDTT ngoại khóa

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động TDTT ngoại khóa
Khái niệm:
Hoạt động TDTT ngoại khố cịn gọi là Thể thao ngoại khóa là hoạt
động thể thao trong nhà trường, là hoạt động tự nguyện của người học được tổ
chức ngoài giờ học chính khóa phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi, sức
khoẻ và điều kiện của cơ sở đào tạo nhằm tạo điều kiện cho người học thực
hiện quyền vui chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao [36], [41].
Cùng với giờ học GDTC nội khóa, TDTT NK có vai trị quan trọng
trong việc nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục phẩm chất ý chí, nhân cách
cho học sinh, đồng thời là môi trường thuận lợi, đầy tiềm năng để phát hiện
và bồi dưỡng năng khiếu thể thao. Trong thời kỳ khoa học, công nghệ phát
triển, TDTT NK cịn có ý nghĩa tích cực về mặt cộng đồng, hướng thế hệ trẻ
vào các sinh hoạt thể thao lành mạnh, tránh xa tệ nạn xã hội.


18
TDTT ngoại khóa là hoạt động TDTT tự nguyện là chính, diễn ra theo
hình thức tổ chức có người hướng dẫn hoặc tự tập, thường được tiến hành
ngoài giờ học nội khóa, có nội dung phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi,
điều kiện CSVC của cơ sở đào tạo và điều kiện sức khỏe của học sinh [31].
Hoạt động TDTT NK có vị trí quan trọng trong giáo dục. Các hoạt
động ngoại khóa kết hợp cùng với các hoạt động dạy học cấu thành một
cấu trúc giáo dục trường học hồn chỉnh, góp phần hồn thành mục tiêu,
nhiệm vụ giáo dục. TDTT NK cùng với GDTC nội khóa là một thể thống
nhất của TDTT trường học và song song tồn tại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau
không thể thiếu mặt nào [41], [63].
Đặc điểm hoạt động TDTT ngoại khóa
Theo Nguyễn Tốn và Phạm Danh Tốn [80], các buổi tập ngoại khóa
(khơng chính khóa) thường có cấu trúc đơn giản và nội dung hẹp hơn so với
buổi tập nội khóa (chính khóa). Hình thức tập luyện này địi hỏi ý thức kỷ

luật, tinh thần độc lập và sáng tạo cao. Nhiệm vụ cụ thể và nội dung buổi tập
ngoại khóa chủ yếu phụ thuộc vào sở thích và hứng thú cá nhân.
TDTT ngoại khóa vừa bổ sung kiến thức thực hành cho giờ nội khóa
nhưng nó cũng có những đặc thù riêng mà GDTC nội khóa khơng có được.
TDTT ngoại khóa cùng với GDTC nội khóa hình thành nên một thể thống
nhất của TDTT trường học;
Tập luyện ngoại khóa là hình thức tập luyện tự nguyện nhằm củng cố
sức khỏe, duy trì và nâng cao khả năng hoạt động thể lực, rèn luyện cơ thể và
chữa bệnh, giáo dục các tố chất thể lực và ý chí, tiếp thu các kỹ năng, kỹ xảo
vận động [80].
Cũng như buổi tập chính khóa, cấu trúc buổi tự tập phải đảm bảo phát
động cơ thể dần dần, tạo điều kiện tốt cho thực hiện hoạt động chính và kết
thúc hợp lý.
Theo Lê Văn Lẫm và Phạm Xuân Thành khi tổ chức hoạt động TDTT
ngoại khóa cần lưu ý đến các mặt [43]:


19
Tính chất hoạt động mềm hóa giữa bắt buộc và tự nguyện;
Nội dung phong phú, linh hoạt không bị hạn chế;
Không gian địa điểm tiến hành rộng lớn (trong trường hoặc ngồi
trường);
Hình thức đa dạng có thể tiến hành theo cá nhân, nhóm, khóa, trường;
Thời gian hoạt động có thể tiến hành bất kỳ lúc nào trong ngày tùy theo
điều kiện thời gian của học sinh, sinh viên;
Cán bộ, giáo viên đóng vai trị hướng dẫn, tư vấn, định hướng; còn học
sinh, sinh viên phát huy vai trò chủ thể, tích cực chủ động phát huy lịng đam
mê, hứng thú TDTT năng khiếu, năng lực sáng tạo của mình;
Quy mơ hoạt động TDTT ngoại khóa thể hiện qua số lượng học sinh,
sinh viên, cán bộ, giáo viên GDTC, cán bộ Đồn, Cơng đồn, phụ huynh, học

sinh, sinh viên cùng tham gia. Số môn thể thao tổ chức được cho học sinh,
sinh viên tập luyện, số giải thi đấu tham gia các cấp trong năm;
Với đa số học sinh, sinh viên TDTT ngoại khóa có tính phổ cập, chủ
yếu biết chơi một mơn thể thao nào đó để rèn luyện sức khỏe là đã tốt rồi.
Nhưng trong số hàng ngàn đến hàng vạn học sinh, sinh viên (tùy theo trường),
sẽ có những em có năng khiếu đặc biệt nổi trội thì đây chính là những nhân tố
tích cực để hình thành nên các đội tuyển, đội tiêu biểu thể thao của trường.
Đối tượng này cần có chế độ tập luyện chuyên biệt để nâng cao trình độ
chun mơn, sẵn sàng tham gia thi đấu các giải ngoài trường. Đây cũng là lực
lượng hướng dẫn viên tích cực mà giáo viên GDTC cần phải chú tâm lựa
chọn, đào tạo để hỗ trợ hướng dẫn cho nhóm sinh viên ở trình độ phổ cập;
TDTT ngoại khóa vừa bổ sung kiến thức thực hành cho giờ nội khóa nhưng
nó cũng có những đặc thù riêng mà GDTC nội khóa khơng có được. TDTT
ngoại khóa cùng với GDTC nội khóa hình thành nên một thể thống nhất của
TDTT trường học.


20
1.2.2. Vai trị của hoạt động TDTT ngoại khóa
Hoạt động TDTT ngoại khóa có vị trí quan trọng trong GDTC và thể
thao trong trường học. Các hoạt động ngoại khóa kết hợp cùng với các hoạt
động dạy học cấu thành một cấu trúc giáo dục trường học hồn chỉnh, góp
phần hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục. TDTT ngoại khóa cùng với
GDTC nội khóa là một thể thống nhất của TDTT trường học và song song tồn
tại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau không thể thiếu mặt nào. Trong q trình tổ chức
tập luyện thể thao cịn có thể giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ: tăng cường
sức khỏe, phát triển tồn diện và hài hịa; giáo dục tố chất thể lực và hình
thành các kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết trong sinh hoạt và lao động;
trang bị những tri thức cần thiết để thực hành TDTT trong lao động và đời
sống hàng ngày; hình thành thế giới quan duy vật, sự giác ngộ về chính trị,

giáo dục chủ nghĩa yêu nước, ý thức tập thể…, đào tạo lực lượng hậu bị cho
đội tuyển [37],[43],[52],[58],[59],[79],[80].
Thực hiện chủ trương đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
chúng ta đang trong quá trình tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, trong sự nghiệp đó, nhân tố con người giữ vai trị quyết định
cho sự thành cơng. Với vai trị quan trọng như vậy nên đòi hỏi đội ngũ nhân
lực trong thời kỳ mới phải khỏe mạnh cả về thể chất và tinh thần. Vì vậy, việc
tăng cường giáo dục thể chất và thể thao trong trường học trong thời kỳ đất
nước đổi mới hiện nay là rất cần thiết.
Hoạt động thể thao ngoại khóa có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
rèn luyện sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần cho học sinh sau những giờ
học tập căng thẳng. Bên cạnh đó, những hoạt động này cịn tạo cho học sinh
có một đời sống tinh thần lành mạnh, tạo hứng thú và niềm đam mê trong học
tập nghiên cứu.
Cùng với giờ học GDTC nội khóa, TDTT ngoại khóa có vai trò quan
trọng trong việc nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục phẩm chất ý chí, nhân
cách cho học sinh. TDTT ngoại khóa cịn là mơi trường thuận lợi, đầy tiềm


21
năng để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho quốc gia. Trong bối
cảnh hội nhập toàn cầu như hiện nay, TDTT ngoại khóa càng có ý nghĩa tích
cực về mặt cộng đồng, hướng thế hệ trẻ vào các sinh hoạt thể thao lành
mạnh, tránh xa tệ nạn xã hội. Do đó, nghiên cứu hoạt động TDTT ngoại
khóa trong các trường học ở nước ta làm cơ sở phát triển chung cho phong
trào TDTT cả nước là rất cần thiết.
TDTT ngoại khóa là hoạt động TDTT tự nguyện là chính, diễn ra theo
hình thức tổ chức có người hướng dẫn hoặc tự tập, thường được tiến hành
ngoài giờ học nội khóa, phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe
của học sinh, sinh viên. TDTT ngoại khóa có lịch sử gần 100 năm nay, cụ thể

là vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhằm mục đích tổ chức giao lưu trong
giáo hội, các cộng đồng dân cư, giữa các trường chủ yếu ở các mơn điền kinh,
thể dục và các mơn bóng [80].
Theo V.P.Philin, việc tổ chức GDTC ngoài trường học được thực hiện
trên các cơ sở luận điểm: Phù hợp với các mục tiêu, nhiệm vụ và nguyên tắc
GDTC; Có sự liên hệ phối hợp chặt chẽ của tất cả các ngành, cơ quan, tổ chức
quan tâm trực tiếp đến hoạt động này cũng như của gia đình và xã hội; Kế
thừa kết quả GDTC trong trường học, giúp cho trường học tăng cường, nâng
cao và mở rộng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo TDTT, tổ chức nghỉ ngơi lành
mạnh cho học sinh, sinh viên; Sử dụng các hình thức hoạt động đa dạng, phù
hợp với sự ham thích, đặc điểm lứa tuổi và trình độ thể lực của người tập;
Thường xuyên dựa trên kỷ luật tự giác, sự ham thích và lợi ích của đối tượng
tập luyện; Bảo đảm sự chỉ đạo về phương pháp và việc kiểm tra y học có chất
lượng đối với tất cả các hình thức cơ bản về tập luyện TDTT ngoài trường
học [57].


22
Như vậy, có thể đúc kết lại, khâu tổ chức, hướng dẫn TDTT ngoại khóa
cần nắm rõ đặc điểm phát triển tâm sinh lý đối tượng học sinh (lứa tuổi, giới
tính, sức khỏe, chuyên ngành, nhu cầu, sở thích thể thao…), các điều kiện cần
và đủ để thực hiện công tác này. Cần lưu ý một số nguyên tắc cơ bản sau đây:
Phù hợp với xu hướng phát triển chung và đạt hiệu quả thực tiễn.
Đáp ứng nhu cầu, sở thích của đối tượng.
Tự nguyện, tự giác.
Có chương trình, kế hoạch cụ thể và có thể lồng ghép khoa học giữa tập
luyện và thi đấu phong trào.
Xã hội hóa cơng tác Thể dục thể thao ngoại khóa, đảm bảo tính phổ
thơng đại chúng.
1.2.3. Mục đích của tổ chức TDTT ngoại khóa

Tổ chức các hoạt động TDTT ngoại khóa cho học sinh nhằm đạt được
những mục đích sau: Thỏa mãn nhu cầu vận động của học sinh, sinh viên; Hình
thành chế độ học tập - nghỉ ngơi hợp lý; Tạo môi trường vận động, vui chơi,
giải trí lành mạnh, hướng học sinh, sinh viên vào các hoạt động tích cực, tránh
xa các tệ nạn xã hội; Phát triển toàn diện thể chất và nhân cách học sinh, sinh
viên; Rèn luyện kỹ năng sống qua các hoạt động giao lưu, giao tiếp [37], [43],
[52], [77], [82].
Thỏa mãn nhu cầu vận động của học sinh, sinh viên:
Trong suốt những năm học phổ thông, học sinh chỉ được có khoảng
700 giờ học TDTT nội khóa, trong khi đó thời gian tập luyện TDTT ngoại
khóa nhiều gấp bội [7]. Vận động là nhu cầu cơ bản nhất của học sinh, sinh
viên vì thế, phải có đủ sân bãi, phịng tập TDTT là điều kiện khơng thể thiếu
để thành lập một trường học đủ chuẩn. Thỏa mãn nhu cầu vận động cũng là
tiêu chí tiên quyết khi phụ huynh lựa chọn trường học cho con em họ. Thực tế
cho thấy, việc học GDTC nội khóa mỗi tuần chỉ một buổi (2 - 3 tiết) và thực
hiện nhanh chóng trong 2 - 3 học kỳ là chưa đáp ứng nhu cầu vận động, rèn


23
luyện thể chất của học sinh, sinh viên. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
[94] ước tính:
Tổ chức Y tế Thế giới cũng cảnh báo: “Giảm hoạt động thể chất và
chương trình GDTC trong trường học là một xu hướng đáng báo động trên
tồn thế giới” [94]. Do đó, tổ chức thêm hoạt động TDTT ngoại khóa để thỏa
mãn nhu cầu này là điều rất cần thiết.
Hình thành chế độ học tập - nghỉ ngơi hợp lý:
Khi bước vào môi trường đại học, sinh viên sẽ phải đối mặt với hàng
loạt các hoạt động đa dạng mà đòi hỏi họ phải có sự ưu tiên lựa chọn, sắp xếp
thời gian hợp lý và khoa học để thích nghi và đạt hiệu quả tốt trong suốt quá
trình đào tạo. Theo A.D.Nôvicôp - L.P.Matvêep: Sự phát triển của khoa học

kỹ thuật và lượng thông tin mới ngày càng nhiều làm cho lao động học tập
của sinh viên càng trở nên nặng nhọc, căng thẳng. TDTT là phương tiện để
hợp lý chế độ hoạt động, nghỉ ngơi tích cực, giữ gìn và nâng cao năng lực
hoạt động trong tất cả các thời kỳ học tập ở trường, cho nên tầm quan trọng
của TDTT cũng tăng lên tương ứng [53].
Tạo môi trường vận động, vui chơi, giải trí lành mạnh, hướng học sinh,
sinh viên vào các hoạt động tích cực, tránh xa các tệ nạn xã hội:
Bước vào thời kỳ hội nhập toàn cầu, kinh tế xã hội phát triển thì đời
sống học sinh, sinh viên càng cao và các điều kiện để thỏa mãn các loại nhu
cầu này càng đa dạng. Thực chất họ có những nhu cầu rất lành mạnh và chính
đáng như: nhu cầu được vận động, tập luyện TDTT, vui chơi giải trí…nhưng
hiện nay, do các trường cịn nhiều khó khăn về sân bãi, cơ sở vật chất nên
chưa thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu này. Trong khi đó, mơi trường xã hội bên
ngồi thì phức tạp và luôn cám dỗ giới trẻ đi chệch hướng. Theo Chủ nhiệm
Uỷ ban Tư pháp Quốc hội, Lê Thị Thu Ba: “Tình trạng thanh thiếu niên, học
sinh, sinh viên phạm tội có chiều hướng gia tăng. Trong số 24.608 đối tượng
phạm tội có 2.333 là đối tượng học sinh, sinh viên chiếm 9,48%, 2.904 đối
tượng phạm tội dưới 18 tuổi, chiếm 11,8%....” [96]. Số liệu thống kê của Ủy


24
ban Quốc gia Phòng chống AIDS, phòng chống ma túy và tệ nạn xã hội cũng
chỉ ra, từ năm 2001 - 2007, số lượng học sinh, sinh viên nghiện ma túy mỗi
năm vào khoảng trên dưới 1.000 em. Ma túy đã gây ảnh hưởng xấu đến việc
học tập, rèn luyện của những chủ nhân tương lai của đất nước [95]. Qua đó,
dễ nhận thấy việc tạo mơi trường TDTT ngoại khóa lành mạnh, hướng sinh
viên vào các hoạt động tích cực, tránh xa các tệ nạn xã hội là rất quan trọng và
vơ cùng cấp thiết.
Phát triển tồn diện thể chất và nhân cách học sinh, sinh viên:
Phát triển toàn diện về thể chất lẫn nhân cách là phát triển cả đức dục,

trí dục, mỹ dục và thể dục. Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Đức
dục là tư tưởng. Trí dục là sự hiểu biết về văn hóa, khoa học, kỹ thuật. Mỹ
dục là sự hiểu biết về những cái hay, cái đẹp. Cuối cùng là thể dục một mục
tiêu không thể thiếu theo quan điểm giáo dục của chúng ta, là cơ sở để tiếp
thu tốt đức dục, trí dục, mỹ dục” [25]. Do đó, cùng với GDTC thể chất nội
khóa, TDTT ngoại khóa thể hiện rõ mục đích này.
Rèn luyện kỹ năng sống qua các hoạt động giao lưu, giao tiếp:
Quan hệ giao lưu, giao tiếp ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và
phát triển tâm lý, nhân cách của học sinh, sinh viên. Trong xã hội ngày nay,
nếu không được sống, không được hoạt động, giao lưu, giao tiếp với người
khác thì học sinh, sinh viên không thể tiếp thu, lĩnh hội kiến thức, những kinh
nghiệm lịch sử, xã hội để tạo nên “chất người”.
Qua tham gia hoạt động TDTT ngoại khóa, học sinh, sinh viên sẽ có cơ
hội cùng gặp gỡ, tập luyện, giao tiếp với một nhóm người, một tập thể, một
cộng đồng…, qua đó sẽ hình thành ở họ các kỹ năng sống như: giao tiếp, ứng
xử, quyết định, thay đổi hành vi, lập mục tiêu, sự tự tin, giảm căng thẳng, sự
thành cơng cũng như học tập tinh thần đồn kết và sự cơng bằng. Những tác
động tích cực này cũng giúp chống lại những nguy cơ và tác hại do lối sống
tĩnh tại, căng thẳng, cạnh tranh và nhiều áp lực gây ra khá phổ biến trong cuộc
sống giới trẻ ngày nay.


25
Một số nghiên cứu cho thấy rằng trong số các thanh thiếu niên, thường
xuyên tham gia vào các hoạt động thể chất ít có khả năng sử dụng thuốc lá.
Tương tự, các trẻ em có nhiều hoạt động thể chất thì kết quả học tập cao hơn.
Nhóm các mơn thể thao và trò chơi tập thể thúc đẩy hội nhập xã hội tích cực
và tạo thuận lợi cho việc phát triển các kỹ năng xã hội ở trẻ.
1.2.4. Nội dung tổ chức hoạt động TDTT ngoại khóa trong nhà
trường

Ở Việt Nam, trước đây việc tập thể dục giữa giờ được tiến hành gần
như bắt buộc ở các công sở, các đơn vị hành chính sự nghiệp, nhưng về sau
do chỉ mang tính hình thức nên dần mai một và hiện nay khơng có cơ quan
nào tập thể dục giữa giờ nữa. Bộ GD&ĐT đã thể hiện quyết tâm chỉnh đốn và
phục hồi lại giờ tập giữa giờ của học sinh, sinh viên qua việc yêu cầu tất cả
các trường học trên toàn quốc nghiêm túc thực hiện: “Tổ chức cho học sinh,
sinh viên tập luyện các bài thể dục, thể dục nhịp điệu, khiêu vũ thể thao trong
giờ nghỉ giải lao ở giữa các tiết học (đối với học sinh phổ thơng); thời gian ít
nhất là 10 phút, thực hiện 01 lần trong 01 ngày” [7], [17], [18], [77].
Cũng tương tự như giờ học nội khóa, nhưng cấu trúc các buổi tập
Ngoại khóa thường đơn giản, tinh gọn hơn. Nội dung TDTT ngoại khóa thì đi
sâu về chun mơn hẹp nhưng phong phú và đa dạng, vượt ra ngoài những
qui định của chương trình GDTC, khơng bị chương trình hạn chế so với buổi
tập nội khóa. Nội dung hoạt động TDTT ngoại khóa bao gồm: các bài tập phát
triển chung, hoạt động tập luyện và các hoạt động thi đấu các môn thể thao
riêng lẻ hoặc phối hợp đa dạng nhiều mơn…
Bên cạnh đó, có thể tổ chức nhiều mơn thể thao để học sinh, sinh viên
lựa chọn tập luyện theo sở thích như: bóng rổ, bóng chuyền, bóng đá, bóng
bàn, cầu lơng, aerobic, bơi lội, điền kinh, võ thuật…Ngồi ra, nên thành lập
duy trì, tập luyện thường xuyên các đội năng khiếu thể thao theo câu lạc bộ
(CLB) để thu hút học sinh, sinh viên tham gia. Sau nữa là tổ chức thi đấu giao


×