Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI NHẰM PHÁT TRIỂN kĩ NĂNG nói và NGHE CHO học SINH lớp 2 TRONG dạy học TIẾNG VIỆT, bộ SÁCH CÁNH DIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.63 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI NHẰM PHÁT
TRIỂN KĨ NĂNG NÓI VÀ NGHE CHO HỌC SINH LỚP
2 TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT, BỘ SÁCH CÁNH
DIỀU

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Hồng Hữu Phước
Sinh viên thực hiện
: Trần Thị Kiều Trinh
MSSV
: 18S9011209

Huế, Khóa học 2018 - 2022
1

1


Trong quá trình thực hiện đề tài, nhờ sự giúp đỡ
q báu của q thầy cơ giáo, tơi đã hồn thành
đúng tiến độ. Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành
và sâu sắc đến giảng viên Hoàng Hữu Phước – người
đã lựa chọn và hướng dẫn, đã tận tâm, tận tình góp
ý, chỉ bảo tơi trong q trình triển khai và thực hiện
khóa luận.
Tơi xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu và các
thầy cô trường Đại học Sư phạm Huế đã tạo điều


kiền thuận lợi và giúp đỡ tơi trong suốt q trình
nghiên cứu đề tài. Xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Ban giám hiệu và Hội đồng sư phạm trường
Tiểu học Phường Đúc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong việc cung cấp các thông tin, số liệu về trường
và giúp tơi hồn thành các tiết dạy thực nghiệm để
tơi hồn thành đề tài này.
Trong q trình thực hiện khóa luận, sẽ khơng
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong
nhận được sự đóng góp từ thầy cơ
Lời cuối, xin kính chúc q thầy cơ giáo, người
thân, bạn bè và các em học sinh thân mến lời chúc
sức khỏe, hạnh phúc và thành công!
Trân trọng!
Huế, tháng 4 năm 2022
Tác giả

2

2


Trần Thị Kiều Trinh

3

3


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong khoá luận là trung thực và chưa từng được
ai cơng bố trong cơng trình nào khác.
Huế, tháng 4 năm 2022
Tác giả

Trần Thị Kiều Trinh

4

4


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6

5

Từ, cụm từ
Giáo viên
Học sinh
Tiếng Việt

Sách giáo khoa
Phương pháp
Học sinh Tiểu học

5

Viết tắt
GV
HS
TV
SGK
PP
HSTH


DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tổng hợp mức độ chú ý của học sinh trong tiết học

6

6


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Điều tra về sự cần thiết của việc sử dụng hình thức đóng vai trong rèn luyện
kĩ năng nói và nghe cho HS lớp 2, bộ sách Cánh Diều:
Bảng 2: Hiểu biết của GV về việc sử dụng hình thức đóng vai trong rèn luyện kĩ
năng nói và nghe cho HS lớp 2, bộ sách Cánh Diều
Bảng 3: Mức độ sử dụng phương pháp dạy học hoạt động nghe và nói cho HS lớp 2,
bộ sách Cánh Diều

Bảng 4: Thực trạng sử dụng hình thức đóng vai trong rèn luyện kĩ năng nói và nghe
cho HS lớp 2, bộ sách Cánh Diều
Bảng 5: Bảng kiểm đánh giá, nhận xét hoạt động “Trao đổi” sử dụng PP đóng vai
Bảng 6: Bảng kiểm đánh giá, nhận xét hoạt động “Kể chuyện” sử dụng PP đóng vai
Bảng 7. Tổng hợp mức độ hứng thú của học sinh
Bảng 8. Tổng hợp mức độ chú ý của học sinh trong tiết học
Bảng 9. Đánh giá kết quả rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh
Bảng 10: Kết quả kĩ năng nói và nghe của HS lớp 2

7

7


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ tầm quan trọng của kĩ năng nói và nghe
Nói và nghe là những kĩ năng Tiếng Việt có tầm quan trọng đối với đời sống
mỗi con người và có tác động tích cực đến các kĩ năng khác. Khi nghe tốt các em
mới có khả năng suy luận, hiểu đúng vấn đề giúp các em biết cách giao tiếp và ứng
xử. Khi rèn luyện nói tốt sẽ tạo cơ sở nền móng cho việc phát triển ngơn ngữ.
Ở Tiểu học, trẻ được rèn kĩ năng nói: gồm các yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự
liên tục, cách diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện
hỗ trợ khi nói,... Kĩ năng nghe: gồm các yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi
đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ
thuật,… Đặc biệt, yêu cầu cần đạt ở lớp 2, môn Tiếng Việt vẫn chú ý rèn kĩ năng nói
và nghe cho học sinh: Nói trong kể chuyện, nói để trình bày kết quả thực hiện các bài
tập, nói trong nhóm, nói trước lớp; Nghe người khác nói, đặt được câu hỏi về những
gì chưa rõ khi nghe, nghe một bài thơ hoặc bài hát, nêu cảm nhận của mình về bài
thơ hoặc bài hát đó, nghe câu chuyện, dựa vào gợi ý, nêu ý kiến về nhân vật chính

hoặc một sự việc trong câu chuyện. Tuy nhiên, vì Tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ
đẻ nên chúng ta thường nặng về phát triển khả năng đọc – viết văn bản của học sinh,
trong khi năng lực nói – nghe xuất hiện với tần suất khá lớn trong cuộc sống mỗi
người nhưng lại chưa được chú ý, đặc biệt năng lực nói và nghe của học sinh lớp 2
nhìn chung còn nhiều hạn chế, biện pháp để rèn kĩ năng nói và nghe chưa nhiều.
1.2. Xuất phát từ tính tất yếu phải đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học Tiếng Việt trong chương trình mới.
Đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề đã và đang được thực hiện ở hầu
hết các trường tiểu học hiện nay. Mơn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học 2018
thực hiện sự đổi mới về cả mục tiêu – nội dung, phương pháp dạy học, phương tiện
dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và các cách đánh giá kết quả học sinh nhằm
thực hiện các yêu cầu cần đạt để phát triển được các năng lực và phẩm chất của học
sinh. Phương pháp dạy học hiện nay đang chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận
nội dung sang tiếp cận năng lực của học sinh, quan tâm học sinh học được gì sang
học sinh vận dụng được gì qua học tập. Muốn vậy, cần chuyển từ dạy học theo
8

8


phương pháp “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, vận dụng kiến thức, rèn
luyện kĩ năng, phát triển năng lực, phẩm chất và quan trọng để phát triển những năng
lực xã hội, lấy quan điểm: “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” nhằm phát huy tính
tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng chủ đạo của
chiến lược dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. Ở đây, lấy giao tiếp làm cơ sở để hình
thành và phát triển hoạt động ngôn ngữ, đặc biệt kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học
sinh. Nếu như nghe và đọc là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thơng
tin, thì nói và viết là hai kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông
tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Nói là hoạt động sử dụng ngơn

ngữ, phi ngơn ngữ nhằm truyền đạt một thơng tin nào đó tới người nghe. Kỹ năng
nghe bao gồm từ rèn luyện học sinh thói quen tập trung lắng nghe khi người khác nói
và có phản hồi thơng tin chính xác.
Trong những năm qua, trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, dạy
Tiếng Việt không chỉ dạy cho các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà điều quan trọng là
dạy các em sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, đúng đắn trong giao tiếp. Với tầm quan
trọng của giao tiếp, để sau này lớn lên các em có kĩ năng giao tiếp, biết nói năng lễ
phép, lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp và mạnh dạn khi giao tiếp với mọi
người xung quanh, biết thấu hiểu và đồng cảm với người khác thì ngay từ các lớp
đầu cấp của tiểu học chúng ta cần rèn cho học sinh kĩ năng nói và nghe trong giờ dạy
Tiếng Việt. Việc đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học là một việc làm
rất cần thiết và thường xuyên để nâng cao chất lượng kĩ năng nói và nghe cho học
sinh. Đó là điều rất quan trọng mà chúng ta cần phải thực hiện bồi dưỡng cho học
sinh.
1.3. Vai trò của phương pháp đóng vai trong việc rèn kĩ năng nói và nghe cho học
sinh và phù hợp với lứa tuổi tiểu học
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành (làm thử) một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định, học sinh sẽ được hóa thân thành
người khác để các em được trải nghiệm và nói hộ các nhân vật các em đang đóng
vai. Tạo cơ hội cho các em có mơi trường, tình huống, nhu cầu, cảm hứng để luyện
kĩ năng nói và nghe tự nhiên. Ngồi ra học sinh được rèn luyện thực hành những kĩ
9

9


năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong
thực tiễn.Với phương pháp này, ở bộ sách Cánh Diều nay được áp dụng phổ biến vào
các bài học.
Ví dụ: Bài đọc 2 “Làm việc thật là vui” trang 10 SGK tập 1 – Cánh Diều lớp

2 sẽ yêu cầu học sinh đóng vai các đồ vật, con vật, loài cây trong bài thơ để tự giới
thiệu mình và cho biết mình làm được việc gì. Khi tổ chức hoạt động đóng vai, học
sinh sẽ nhập vai và hóa thân thành các nhân vật khác nhau, học sinh sẽ tìm tìm tịi và
tư duy về thơng tin của các vai mà mình sẽ hóa thân, từ đó sẽ khơng bị nhàm chán
với phương pháp truyền thống là hỏi – đáp để nhận biết tác dụng của các đồ vật, con
vật, loài cây trong bài thơ.
Ngồi ra phương pháp đóng vai trong sách Tiếng Việt 2 – Cánh Diều còn
được đưa vào hoạt động ở các tập đọc, kể chuyện và tập làm văn. Việc áp dụng
phương pháp đóng vai trong dạy học sẽ gây hứng thú và chú ý cho học sinh hơn. Khi
vào vai nhân vật để thể hiện từng yêu cầu của sách giáo khoa, qua từng câu chuyện
học sinh sẽ được thể hiện suy nghĩ của mình trong từng tình huống cụ thể của mỗi
bài. Từ đó tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh, khích lệ sự thay đổi
thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị - xã hội.
Phương pháp đóng vai trong Tiếng Việt 2- Cánh Diều không chỉ giúp các em
học tập sôi nổi, hứng thú hơn trong các tiết Tiếng Việt mà còn rèn luyện các kĩ năng
nói và nghe một cách tích cực và hiệu quả. Bên cạnh đó có thể thấy ngay tác động
và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của nhân vật mà HS đóng vai.
Nhưng trong thực tiễn, nếu giáo viên chưa áp dụng hoặc áp dụng chưa đúng
mục đích phương pháp đóng vai vào các tiết dạy để rèn kĩ năng nói và nghe cho học
sinh thì sẽ dẫn đến giờ học trở nên trầm, nặng nề và kém hiệu quả. Sử dụng hiệu quả
nguồn học liệu từ bộ sách Cánh Diều, đồng thời bổ sung những học liệu mới để phát
triển năng lực nói và nghe, tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp người học vận
dụng hiệu quả kiến thức vào đời sống, đồng thời, phát triển cho học sinh năng lực tư
duy sáng tạo, phát huy được trí tưởng tượng phong phú và đa dạng của mình, hình
thành cho các em những năng lực và phẩm chất trong dạy học đọc hiểu văn bản văn
học, đó là lí do chúng tơi chọn đề tài “Sử dụng phương pháp đóng vai nhằm phát
triển kĩ năng nói và nghe cho học sinh lớp 2 trong dạy học Tiếng Việt, bộ sách
Cánh Diều”
10


10


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Các nghiên cứu về phát triển kĩ năng nói và nghe
Hiện nay có rất nhiều tài liệu viết về nhiệm vụ phát triển năng lực nói và nghe
cho học sinh tiểu học như đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng
nói cho học sinh tiểu học ở mơn Tiếng Việt”, tác giả Trần Thị Hiền Lương đã xác định
được biện pháp dạy học rèn kĩ năng nói cho học sinh xuất phát từ đặc điểm lứa tuổi
học sinh tiểu học, từ lý luận dạy học hiện đại, theo hướng tăng cừờng thực hành, luyện
tập. Trong đề tài này, tác giả đã đưa ra các biện pháp rèn kĩ năng nói như rèn kĩ năng
phát âm, rèn kĩ năng nói độc thoại, nói hội thoại trong đó có kĩ năng sử dụng ngôn ngữ
cho học sinh tiểu học.
Đề tài: “Rèn kĩ năng nghe nói cho học sinh lớp 1 trong dạy học Tiếng Việt”, tác
giả Ngô Hiền Tuyên đã đưa ra những định hướng về nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức rèn kĩ năng nói và nghe cho học sinh nhằm giúp giáo viên tháo gỡ những
khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động dạy Tiếng Việt theo định hướng giao tiếp.
Từ đó đưa ra được quy trình rèn luyện kĩ năng nghe nói phù hợp nhằm nâng cao hiệu
quả day học nói chung giúp học sinh nâng cao năng lực ngôn ngữ, đặc biệt biết sử dụng
ngơn ngữ nói như một cơng cụ trong hoạt động giao tiếp cũng như hoạt động học tập và
vui chơi khác.
Hay bài viết trên Tạp chí Giáo dục số 10 của tác giả Nguyễn Trí với tiêu đề
“Dạy các kĩ năng nghe nói cho học sinh tiểu học”. Tác giả đã đánh giá cao bản chất,
vai trò của hoạt động nói và nghe để từ đó phát triển kĩ năng nói và nghe cho học
sinh tiểu học của hoạt động nói và nghe để từ đó phát triển kĩ năng nói và nghe cho
học sinh tiểu học.
Tác giả Đặng Thị Lệ Tâm với cuốn “Dạy học nghi thức lời nói cho học sinh
tiểu học mơn Tiếng Việt” đã cung cấp những hiểu biết cơ bản về nghi thức lời nói,
giới thiệu các kiểu bài tập dạy học theo nghi thức lời nói ở tiểu học.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Nhung - Tổ chức dạy học môn Tiếng Việt theo

định hướng phát triển năng lực cho học sinh lớp 2, sách đề cập đến các hoạt động
dạy học tích cực và thiết kế các hoạt động đó vào các tiết học theo định hướng phát
triển năng lực cho học sinh.

11

11


2.2 Các nghiên cứu về phương pháp đóng vai
Tác giả Lê Phương Nga với cuốn: “Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu
học II”, tác giả đã đưa ra được các nhiệm vụ, phương pháp và nguyên tắc dạy học
Tiếng Việt nhằm giúp giáo viên áp dụng các phương pháp để phát triển các năng lực,
phẩm chất một cách tích cực.
Luận án của Đỗ Ngọc Miên “Phát triển một số yếu tố của tư duy sáng tạo cho
học sinh tiểu học” đã đề ra được một số biện pháp nhằm tạo hứng thú, kích thích tư
duy cho học sinh tiểu học, trong đó có phương pháp đóng vai
Đề tài: “Sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học Tiếng Việt để rèn kĩ
năng nói cho học sinh lớp 2”, tác giả Lê Thị Ngọc Hà đã đưa ra được nâng cao năng
lực nói và hồn thiện năng lực giao tiếp cho học sinh tiểu học, từ đó đề xuất được
hình thức tổ chức dạy học có sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học Tiếng
Việt 2.
Trong những tài liệu trên các tác giả đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau
trong việc phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh trong môn Tiếng Việt.
Tuy nhiên, cơ bản chưa đưa ra được điểm mạnh của phương pháp đóng vai trong
việc phát triển năng lực và phẩm chất học sinh và chưa có ai áp dụng phương pháp
đóng vai để phát huy tính tích cực cho học sinh lớp 2, dựa trên nội dung của bộ sách
Cánh Diều. Chính vì vậy, chúng tơi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Sử dụng phương
pháp đóng vai nhằm phát triển kĩ năng nói và nghe cho học sinh lớp 2 trong dạy học
Tiếng Việt, bộ sách Cánh Diều”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các hình thức tổ chức dạy học có sử dụng phương pháp đóng vai
trong dạy học Tiếng Việt, bộ sách Cánh Diều để rèn kĩ năng nói và nghe cho học sinh
lớp 2
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của phương pháp đóng vai và cách thức sử dụng
phương pháp đóng vai trong một số phân môn TV bộ sách Cánh Diều để luyện kĩ
năng nói và nghe hiệu quả cho học sinh.

12

12


- Xây dựng các hình thức tổ chức dạy học có sử dụng phương pháp đóng vai
để rèn kĩ năng nói và nghe cho học sinh lớp 2.
- Tiến hành dạy thực nghiệm để đánh giá tính khả thi và hiệu quả thực tiễn của
đề xuất trong khoá luận
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp đóng vai, kĩ năng nói và nghe và cấu
trúc sách Tiếng Việt lớp 2, bộ sách Cánh Diều.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Cách thức sử dụng phương pháp đóng vai để phát triển kĩ năng nói và nghe
cho học sinh trong dạy học Tiếng Việt lớp 2, bộ sách Cánh Diều.
- Theo quan điểm tích hợp khi biên soạn sách giáo khoa, kĩ năng nói và nghe đã
được thể hiện ở nhiều phần. Tuy nhiên, để thuận lợi cho việc nghiên cứu, đánh giá,
chúng tơi chỉ khảo sát ở phần hoạt động “Nói và nghe” được kí hiệu


trong

mỗi bài học.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên phân tích, tổng hợp
Nghiên cứu, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa các tài liệu liên quan đến
việc dạy học phương pháp đóng vai, kĩ năng nói và nghe và sử dụng phương pháp
đóng vai để rèn kĩ năng nói và nghe cho học sinh lớp 2, sách Cánh Diều.
5.2 Phương pháp điều tra, khảo sát
- Được cụ thể bằng các hình thức dự giờ trực tiếp các tiết giảng dạy lớp 2, khảo sát
hứng thú và khả năng nói của học sinh trên lớp, ngồi lớp, nội khóa, ngoại khóa.
5.3 Phương pháp thực nghiệm
- Sử dụng phương pháp này để đánh giá và rút ra kết luận cụ thể.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngồi phần mở đầu và kết luận. Nội dung chính của đề tài gồm 3 chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở khoa học của đề tài
Chương 2: Sử dụng phương pháp đóng vai nhằm phát triển kĩ năng nói và
nghe cho học sinh lớp 2 trong dạy học Tiếng Việt, bộ sách Cánh Diều
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
13

13


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về kĩ năng nói và nghe
1.1.1.1. Khái niệm
Kỹ năng là một phạm trù cơ bản trong tâm lý học. Cho đến nay đã có rất nhiều

cơng trình nghiên cứu về kĩ năng và đưa ra nhiều khái niệm khác nhau nhưng chưa
có một khái niệm nào là cụ thể và đồng nhất. Theo từ điển Tâm lí học của tác giả
A.V. Petrovxki: “Kỹ năng là giai đoạn nắm vững các hành động dựa trên quy tắc nào
đó và hành động phù hợp với quy tắc ấy trong quá trình giải quyết nhiệm vụ đã xác
định”. Theo tác giả Thái Duy Tiên: “Kỹ năng chính là sự ứng dụng kiến thức trong
hoạt động”[9, tr28]. Các nhà Giáo dục học phân tích kĩ năng thành hai loại kĩ năng
bậc một và kĩ năng bậc hai:
+ Kỹ năng bậc một là kĩ năng được hình thành lần đầu qua các hành động đơn
giản là cơ sở để hình thành kĩ xảo (cầm, nắm, kéo, đẩy,…)
+ Kỹ năng bậc hai là kĩ năng bậc cao, được hình thành trên cơ sở tri thức và kĩ
xảo cũ đã có từ trước.
Dựa trên những quan niệm nêu trên, tôi xin đưa ra khái niệm sau: “Kỹ năng
là khả năng của con người thực hiện một cách có hiệu quả một cơng việc nào đó để
đạt được mục đích đã xác định bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức hành
động phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và phương tiện nhất định”.
*Kỹ năng nói: là một trong những kĩ năng quan trọng cần trang bị, rèn luyện
cho mỗi người. Nói là một hoạt động diễn ra thường xuyên của con người, là sự giao
tiếp trực tiếp bằng âm thanh, là sự truyền tải thông tin dưới dạng âm thanh giữa
người này với người kia.
Nói là một hoạt động phát tin nhờ sử dụng bộ máy phát âm. Đầu tiên người
nói phải xác định nội dung lời nói, lựa chọn ngơn ngữ diễn đạt cho nội dung đó. Sau
đó người nói sử dụng bộ máy phát âm để truyền đi những lời nói đã được xác định.
Từ đặc điểm kiểu giao tiếp, người ta nói đến hai dạng nói: đối thoại và độc thoại. Tuy
nhiên, đối với việc áp dụng phương pháp đóng vai vào việc phát triển kĩ năng nói và
14

14


nghe của học sinh, GV đa số sử dụng hình thức đối thoại. Đối thoại có những đặc

điểm sau:
+ Người đối thoại là người tham gia vào quá trình xây dựng nội dung và diễn
biến cuộc hội thoại. Họ luôn ln có sự đổi vai, từ nói sang nghe hoặc ngược lại. Đối
thoại địi hỏi sự thích ứng nhau khi đổi vai để có thể nhập ngay vào nội dung cuộc
hội thoại.
+ Lời đối thoại thường ngắn gọn, các từ đưa đẩy chêm xen được sử dụng
nhiều tạo cho câu văn, lời văn có phong cách khẩu ngữ. Có sự hỗ trợ của các yếu tố
phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, giọng cười…Trong nhiều trường hợp các
yếu tố phi ngơn ngữ giúp người nghe hiểu chính xác, đúng đắn hơn ý của người nói
và có tác dụng làm hấp dẫn, lơi cuốn người nghe.
Nói cịn là sự thể hiện những mối quan hệ giữa con người với cộng đồng xã hội.
Đây là hoạt động chuyển nội dung suy nghĩ, nội dung thơng báo của người nói vốn
thuộc lĩnh vực tinh thần sang dạng vật chất, dạng mã hóa ngơn ngữ. Kỹ năng nói được
hiểu là khả năng biểu đạt bằng lời nói, là một loại năng lực được thể hiện qua khẩu
ngữ để truyền đạt thông tin, biểu đạt tư tưởng, tình cảm một cách chính xác, sinh động,
có sức thuyết phục. Theo đó, kĩ năng nói khơng đơn thuần chỉ là nói mà cịn thể hiện
giọng nói, cử chỉ, điệu bộ, thái độ, nét mặt, khóe mắt,... để diễn đạt được chính xác nội
dung, thể hiện đúng đắn, đầy đủ mọi ý định, bộc lộ được những tình cảm tinh tế nhất.
Vì vậy, có thể khẳng định được rằng việc rèn luyện kĩ năng nói là một hoạt động cần
thiết trong nhà trường.
Dựa vào luận điểm đưa ra, tôi xin đưa ra khái niệm sau: Kỹ năng nói là khả
năng, trình độ biểu đạt ngơn ngữ, là cách thức thực hiện hài hịa, có kết quả việc sử
dụng ngôn ngữ kết hợp với các hành vi, cử chỉ, điệu bộ của chủ thể trong hoạt động
giao tiếp với những hồn cảnh, tình huống thực tế khác nhau
Kỹ năng nghe: Nghe là hoạt động thông qua các thao tác phân tích, tổng hợp
và hệ thống hóa, người nghe có thể hiểu được thơng tin, lí giải, luận giải được lời
nói. Nghe là lĩnh hội, tiếp nhận thơng tin. Việc tiếp nhận thơng tin này có thể diễn ra
khi khơng có sự hiện diện của người nói (ví dụ: nghe nhạc, nghe hát qua băng đĩa và
đài phát thanh). Vì thế, hoạt động nghe có hai hình thức cơ bản: nghe trong hội thoại
và nghe hiểu văn bản.

15

15


Q trình nghe gồm có tiếp nhận thơng tin, xử lí âm thanh đến thính giác.
Q trình giao tiếp sẽ tốt hơn nếu hai bên đối tượng tham gia đều biết lắng nghe.
Kỹ năng nghe tưởng chừng như đơn giản nhưng lại yêu cầu sự tập trung cao cùng
thái độ thư thái. Lúc nghe, đây là quá trình tập trung chú ý để giải mã sóng âm
thanh thành ngữ nghĩa.
Căn cứ vào mục tiêu của hoạt động nghe, chia thành các kiểu nghe sau:
-

Nghe giao tiếp xã hội: không nhằm mục tiêu trao đổi thông tin chuyên biệt, chỉ để
giao tiếp xã hội; độ xác thực và ý nghĩa của thông tin không phải là mục tiêu quan

-

trọng của giao tiếp
Ví dụ: chào hỏi xã giao, trị chuyện trong các buổi gặp mặt,…
Nghe giải trí: để thưởng thức, thư giãn, khơng đánh giá hay phân tích
Ví dụ: nghe nhạc, nghe radio, …

-

Nghe có phân tích, đánh giá
Ví dụ: nghe để phản biện trong các cuộc chia sẽ thông tin, bảo vệ luận án,…

-


Nghe để ra quyết định thương thuyết: nghe để có cách xử lý thích hợp các tình huống

-

trong cuộc sống.
Nghe thấu cảm, lắng nghe hiệu quả: nghe để cảm nhận những biểu cảm của người
nói đằng sau thơng điệp.
Từ đó, kĩ năng nghe được hiểu là khả năng của con người trong việc nắm bắt
và thông hiểu các thông tin giao tiếp để thấu hiểu, cảm thông lẫn nhau và cùng nhau
hành động vì mục tiêu chung do con người đặt ra và mong muốn đạt tới trong hoạt
động giao tiếp.
* Nói nghe tương tác: Biết tham gia thảo luận về một vấn đề. Có thái độ và kĩ
năng trao đổi phù hợp. Trong quá trình giao tiếp, người nói và người nghe ln xác
lập và duy trì mối quan hệ trao đổi qua lại với nhau nhằm đạt được mục đích giao
tiếp nhất định. Người nghe sẽ tác động đến nội dung giao tiếp mà người nói thực
hiện thông qua ngôn ngữ (hệ thống các câu hỏi, nhận xét, thắc mắc...) và các yếu tố
phi ngôn ngữ (ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ...) để bày tỏ suy nghĩ, thái độ... ,
1.1.1.2. Vai trị của hoạt động nói và nghe
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là một nhu cầu tất yếu của xã hội lồi người. Nghe nói - đọc - viết là những hoạt động không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày.
Nếu chúng ta chỉ biết nói mà khơng biết nghe, chỉ biết viết mà khơng biết đọc thì
16

16


việc giao tiếp khó có thể đạt kết quả tốt. Trong đó hoạt động nói và nghe là những
hoạt động quan trọng không thể thiếu của mỗi người.
Nghe là một trong những kĩ năng quan trọng trong quá trình giao tiếp. Thực tế
cho thấy, để thành cơng thì khơng chỉ nói hay, hỏi đúng mà cịn phải biết lắng nghe.
Vậy có thể nói rằng lắng nghe có hiệu quả là một nghệ thuật. Để nghe rõ, nghe đúng,

lắng nghe có hiệu quả phải hết sức khách quan và chủ động, phải cố gắng hiểu được
những ẩn ý hàm chứa trong mỗi câu hỏi, câu nói của người nói.
Ở trường học, HS được rèn luyện các kĩ năng chuyên môn: kĩ năng nói, kĩ
năng đọc, kĩ năng viết nhưng lại khơng được rèn kĩ năng lắng nghe hiệu quả một
cách sâu sắc nên khơng phải học sinh nào cũng có thể chú ý lắng nghe, biết lắng
nghe và lắng nghe hiệu quả. Trong nhà trường, nghe có vai trị như một công cụ giao
tiếp nhằm phát triển tư duy và tạo điều kiện cho việc học tập. Khi HS biết lắng nghe
và hiểu được người kia nói thì giúp cho người nói thỏa mãn được nhu cầu và thể hiện
được sự tơn trọng người khác. Ngồi ra cịn thu thập được nhiều thông tin hơn qua
việc nghe đúng, nghe hiệu quả.
Hoạt động nghe ln có sự gắn bó chặt chẽ với hoạt động nói, từ đây HS có
thể khuyến khích được người kia nói và có thêm được các thơng tin. Hay có thể tạo
ra mối quan hệ tốt đẹp với người khác khi lắng nghe, tìm hiểu được người khác một
cách tốt hơn. Bởi vì khi từ khi cịn ấu thơ, trẻ đã được tiếp xúc với lời ru của bà, của
mẹ. Khi tới trường, môi trường giao tiếp của trẻ được mở rộng, nhu cầu giao lưu, tiếp
nhận thông tin của trẻ ngày càng cao hơn và từ đó trẻ có thể giải quyết được nhiều
vấn đề hơn thơng qua lắng nghe. Vì vậy, trẻ khơng chỉ nghe hiểu mà trẻ phải học
cách nghe để phát triển tư duy, để tạo ra cơ sở cho việc học tập rèn luyện và trưởng
thành. Nếu có khả năng nghe tốt, HS sẽ tiếp thu tốt kiến thức của các môn học, phát
triển tư duy tốt hơn. Từ đó thấy được vai trò của hoạt động nghe, đặc biệt học sinh
lớp 2 là vô cùng quan trọng.
Luôn đồng hành song song với hoạt động nghe là hoạt động nói. Khi giao tiếp,
mặt đối mặt và hai vai nói – nghe liên tục luân chuyển vai cho nhau: người nói xong
chuyển thành vai nghe và ngược lại. Nếu như một trong hai nói không rõ ràng rành
mạch sẽ khiến cuộc giao tiếp diễn ra khó khăn, khó nắm bắt được nội dụng thơng tin.
Và như vậy cuộc giao tiếp sẽ khó thực hiện và khó hiệu quả, đơi khi dẫn đến khơng
17

17



giao tiếp được. Nếu như không giao tiếp được đồng nghĩa với việc hạn chế khả năng
tiếp xúc với cộng đồng và điều đó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy và nhận
thức của chúng ta.
Ngay từ khi sinh ra, tiếng khóc đầu tiên cũng chính là q trình giao tiếp đầu
tiên. Theo thời gian, năng lực giao tiếp bằng lời nói ở mỗi người cũng được phát
triển và hồn thiện dần. Từ khóc rồi biết nói, biết nghe, đến trường rồi đến học một
cách bài bản từ thầy cơ giáo. Có thể nghe và hiểu được đầy đủ lời nói của người khác
để từ đó nói được những lời đúng, rõ ràng, biểu lộ được ý nghĩa, thái độ, tình cảm
của mình trong những tình huống giao tiếp khác nhau. Và đây chính là thời gian đặc
biệt quan trọng giúp học sinh hình thành cách nói - nghe, rèn luyện được kĩ năng nói
- nghe để có thể giao tiếp, phát huy được tư duy, tạo cơ sở cho việc học tập và rèn
luyện, tích lũy được kinh nghiệm, tri thức, văn hóa, những thành tựu khoa học và
tiến bộ của loài người.
Ở nhà trường, học sinh Tiểu học được thực hiện hoạt động nói và nghe rất
phong phú: HS nói – nghe với nhau về học tập, vui chơi, sinh hoạt (ví dụ như nói và
nghe bạn kể về quyển sách mình u thích, nói và nghe về trị chơi nhảy dây, ...).
Đây chính là hoạt động giao tiếp thông thường của học sinh. Trong chương trình
Tiếng Việt Tiểu học, nói và nghe là hoạt động được nâng lên thành kĩ năng, được
giáo viên hướng dẫn qua các bài học. Hoạt động này rất quan trọng để tạo cơ sở cho
học sinh thực hiện được các hoạt động giao tiếp thơng thường tốt hơn, góp phần hồn
thiện các kĩ năng khác.
1.1.2. Một số vấn đề lí luận về phương pháp đóng vai
1.1.2.1. Khái niệm
Đóng vai là một phương pháp dạy học trong đó người học thực hiện những
tình huống hành động được mơ phỏng (theo các vai) về một chủ đề gắn với thực tiễn,
thường mang tính chất trị chơi, trong đó các tình huống, các vấn đề hoặc xung đột
được thể hiện. Đóng vai nhằm phát triển năng lực hành động thông qua sự trải
nghiệm của chính bản thân người học và thơng qua thơng tin phản hồi từ người quan
sát. [3, tr 142]


18

18


Tóm lại, phương pháp đóng vai là phương pháp dạy học mà ở đó người học sẽ
hóa thân vào một vai "giả định" trong một tình huống hành động cụ thể để hành
động, trình bày suy nghĩ, cảm nhận từ chỗ đứng, góc nhìn của vai mà họ đảm nhận.
Đóng vai cịn là một phương pháp dạy học thơng qua mơ phỏng và thường có
tính chất trị chơi (cịn gọi là trị chơi đóng vai). Có nhiều hình thức trị chơi dạy học
như trị chơi tự do, trị chơi đóng vai, các trò chơi quy tắc, trò chơi lập kế hoạch, biểu
diễn kịch, biểu diễn tự do. Như vậy phương pháp đóng vai liên quan đến các khái
niệm mơ phỏng và trị chơi. Ở các mơ phỏng, người học đảm nhận các vai - thường
có tính trị chơi - và/hoặc làm việc trong những môi trường được mô phỏng, nhằm
trước tiên là phát triển năng lực hành động, năng lực quyết định trong những tình
huống gắn với cuộc sống nhưng đã được đơn giản hóa. Điều này được thực hiện
thơng qua những cách đặt vấn đề mà khiến cho người học cần phải tham khảo các
nguồn thông tin từ bên ngồi để có thể đưa ra quyết định. Ngày nay trị chơi đóng vai
được sử dụng như một phương pháp dạy học trong nhiều môn học, trước hết là các
môn khoa học xã hội.
Theo Hilbert Meyes (1987): “Đóng vai là một phương pháp dạy học phức hợp
nhằm nhận thức hiện thực xã hội. Với sự giúp đỡ của đóng vai, HS có thể hiểu được
hành động của mình tốt hơn và tác động lên tư duy, tình cảm và hành động của bạn
học, giáo viên và những người quan sát”, [13, tr 358]. Đóng vai nhằm phát triển năng
lực hành động thơng qua sự trải nghiệm của chính bản thân người học và thông qua
thông tin phản hồi từ những người quan sát. Điểm khác biệt của đóng vai với tư cách
là một phương pháp dạy học ở chỗ nó là một hoạt động học tập có kế hoạch được
thiết kế nhằm đạt được những mục tiêu giáo dục cụ thể.
Từ những khái niệm trên, tôi xin rút ra khái niệm sau: “Đóng vai được quan

niệm là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh hóa thân thành người khác để
học sinh luyện nói, nhằm thực hành những cách ứng xử ở một tình huống giả định.
Từ đó, giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào sự kiện
cụ thể mà các em phải trải nghiệm và quan sát được. Sau việc “trình diễn”, học sinh
cần thảo luận để rút ra kiến thức và kĩ năng của bài học.”

19

19


1.1.2.2. Đặc điểm của phương pháp đóng vai
Đóng vai là một phương pháp dạy hội thoại, tuy mang tính chất kịch nhưng
khơng hồn tồn là một vở kịch. Đây chỉ là một cách thức một phương pháp để học
sinh học tập. Nó diễn ra ngay trong lớp học, khơng địi hỏi sự trang trí, một sân khấu
phức tạp. Các đoạn thoại kể tiếp nhau được tạo ra để phát triển bài hội thoại, thúc
đẩy cuộc giao tiếp mà không tuân theo một kịch bản có sẵn như khi diễn một vở
kịch. Từ nhiệm vụ và tình huống, mỗi học sinh tự hình thành và hồn thiện lời nói
ngay trong thực tiễn đóng vai, do cả thầy và trị cùng tham gia sáng tạo. Người tham
gia đóng vai là học sinh trong tổ, nhóm, lớp. Các em đóng vai nhằm tập dượt theo đề
bài hội thoại. Sản phẩm của các lần đóng vai là các màn hội thoại hoặc giao tiếp, các
sản phẩm này sẽ được các bạn trong lớp phân tích, nhận xét, rút kinh nghiệm để các
lần tập dượt hội thoại tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn, tốt hơn.
Mục đích của việc đóng vai là hồn thành một bài tập hội thoại dưới dạng tình
huống, thơng qua đó hình thành kĩ năng hội thoại, tích lũy các kinh nghiệm ứng xử
trong hội thoại để chuẩn bị cho các cuộc hội thoại đích thực các em trải qua trong
cuộc đời. Khi đóng vai, học sinh cần chú ý tới lời nói và các động tác hình thể (ánh
mắt, cử chỉ, điệu bộ) cách biểu cảm trên nét mặt, trong giọng nói… tức là tất cả các
yếu tố khác ngồi ngơn ngữ có tác động đến hiệu quả hội thoại. Khi đóng vai và thực
hiện một tình huống giả định, các nhân vật khi hội thoại có thể dùng nhiều biện pháp

khác nhau để phát triển đề tài, thực hiện cuộc thoại như biện pháp hỏi, đáp, phiếu bài
tập, đưa ra lời giải trên giấy, dùng các đồ dùng dạy học. Khơng ai có thể phủ nhận
đóng vai là một phương pháp mang lại rất nhiều hiệu quả trong việc dạy học. Phương
pháp đóng vai có những ưu điểm nổi bật sau:
- Rèn luyện được cho HS thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Tạo được hứng thú và chú ý cho học sinh. Cuốn hút và gây ấn tượng với học
sinh, PP đóng vai sẽ thực sự tạo ra khơng khí vui nhộn cho lớp học và tạo động lực
học tập cho các em.
- Giúp HS nhập vai, diễn tả thái độ ý kiến của người mà mình nhập vai, rèn luyện
thái độ giao tiếp, khả năng giao tiếp linh hoạt, khả năng giải quyết vấn đề, chủ động
trong mọi tình huống nhằm tìm ra phương thức xử lí mới. Gắn kết giữa lí luận với thực
tiễn dạy học.
20

20



×