Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và ý nghĩa của nó đối với đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.28 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

ĐỖ THỊ LAN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀ Ý
NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở
NƢỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hạnh

Hà Nội – 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 4
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................ 4
2. Tình hình nghiên cứu .......................................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................... 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 9
5. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................... 9
6. Đóng góp mới của luận văn ............................................................... 10
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .............................................................. 10
8. Kết cấu của đề tài .............................................................................. 10
NỘI DUNG .......................................................................................... 11


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VÊ GIÁO DỤC .................................................................................... 11
1.1 Cơ sở thực tiễn của việc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
giáo dục ................................................................................................ 11
1.1.1 Thực trạng Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XX .............................. 11
1.1.2 Thực trạng giáo dục Việt Nam sau Cách Mạng Tháng Tám ......... 17
1.2 Tiền đề lý luận cho sự hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo
dục ........................................................................................................ 23
1.2.1 Truyền thống giáo dục Việt Nam .................................................. 23
1.2.2 Tư tưởng giáo dục Phương Đông – Phương Tây cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX ........................................................................................ 24
1.3 Nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh: ........................................... 37
1.3.1 Hồ Chí Minh là một người học trị xuất sắc ................................. 37
1.3.2 Hồ Chí Minh là người thầy mẫu mực .................................................... 41
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ GIÁO DỤC ........................................................................ 44

1


2.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trị và mục đích của giáo dục.............. 44
2.1.1 Giáo dục khơng chỉ giáo dục tri thức, học vấn mà cịn góp phần
hình thành nên nhân cách, phẩm chất đạo đức của mỗi con người ....... 44
2.1.2 Giáo dục là đào tạo ra những con người biết làm chủ nước nhà,
phải lấy nhiệm vụ học tập làm chủ yếu.................................................. 48
2.2 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nội dung của giáo dục ...................... 50
2.2.1 Giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, giáo dục chính trị, tư tưởng.... 50
2.2.2 Giáo dục lý tưởng đạo đức XHCN, đạo đức cách mạng, thực hiện
cần, kiệm liêm, chính, chí cơng, vơ tư, thực hành nhân, nghĩa, trí, dũng...
chống quan liêu, tham ơ, lãng phí ......................................................... 53

2.2.3 Giáo dục nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, trình độ
chun mơn ........................................................................................... 56
2.3 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phƣơng châm, phƣơng pháp giáo dục ....... 63
2.3.1 Học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải
kết hợp với lao động. ............................................................................. 64
2.3.2 Phải kết hợp phương pháp học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người,
học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại ............... 66
2.3.3 Kết hợp các hình thức giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội ... 68
CHƢƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀO ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở NƢỚC
TA HIỆN NAY .................................................................................... 73
3.1 Yêu cầu và nội dung chủ yếu của cơng cuộc đổi mới tồn diện
giáo dục Việt Nam hiện nay ................................................................ 73
3.1.1 Những yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục Việt Nam
hiện nay ................................................................................................ 73
3.1.2 Nội dung của cơng cuộc đổi mới tồn diện giáo dục Việt Nam hiện
nay ........................................................................................................ 78

2


3.2 Một số ý nghĩa của việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo
dục vào cơng cuộc đổi mới giáo dục ở nƣớc ta hiện nay ................... 90
3.2.1 Ý nghĩa của việc vận dụng quan điểm “Học đi đôi với hành”, “Lý
luận đi đôi với thực tiễn” trong việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu thực tiễn................................................................................... 90
3.2.2 Ý nghĩa của việc vận dụng quan điểm “Tự học” của Hồ Chí Minh
đối với cơng cuộc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay ..................... 96
KẾT LUẬN ........................................................................................ 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 106


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đào tạo đóng vai trị quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động
lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết
các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm việc mở mang dân
trí, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của
giáo dục đối với sự hƣng thịnh của đất nƣớc, với nhiệm vụ cực kỳ trọng đại là
mở mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dƣỡng nhân tài, là động lực của sự
phát triển, đƣa nƣớc nhà tiến tới giàu mạnh, dân chủ, văn minh, sánh vai với
các cƣờng quốc năm châu. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã đƣợc thể
hiện qua nhiều bài nói, bài viết, và đặc biệt là những việc làm, tấm gƣơng học
tập suốt đời của Hồ Chí Minh. Tƣ tƣởng về giáo dục của Ngƣời là sự tiếp nối
và nâng cao những giá trị tinh túy của truyền thống Việt Nam và thế giới. Đây
cũng là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tƣ tƣởng giáo dục của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin vào trong điều kiện cụ thể của nƣớc ta. Tƣ tƣởng về giáo
dục của Hồ Chí Minh cịn góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí, bồi
dƣỡng đào tạo cho Cách Mạng Việt Nam những con ngƣời đủ đức, đủ tài để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong thời đại ngày nay, tƣ tƣởng và những
chủ trƣơng chính sách đối với giáo dục của Hồ Chí Minh đã góp phần quyết
định tới thắng lợi sự nghiệp giáo dục của nƣớc ta.
Những năm gần đây, do tác động tiêu cực của kinh tế thị trƣờng và sự
yếu kém, sa sút của các biện pháp giáo dục đã ảnh hƣởng không nhỏ tới nhận
thức của một bộ phận thanh thiếu niên. Vấn đề giáo dục đã trở thành một vấn
đề bức thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Trƣớc thực trạng
đó, Trung ƣơng Đảng đã ban hành Nghị quyết về đ i mới căn bản, toàn diện

nền giáo dục và đào tạo Việt Nam, trong đó xác định:

4


"Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế" và "Phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc
đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân" [9]
Để đảm bảo sự nghiệp đ i mới thành công, Đảng ta tiếp tục khẳng
định nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và ph biến rộng rãi tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh nói chung và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói riêng , vận dụng
những tƣ tƣởng lý luận đó một cách sáng tạo vào thực hiện cơng cuộc đ i mới
tồn diện nền giáo dục đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nƣớc.
Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về giáo
dục là một việc làm cần thiết nhằm đảm bảo sự nghiệp đ i mới thành công,
đồng thời trang bị cho chúng ta những tƣ tƣởng, lý luận đúng đắn, tiến bộ của
một nhà giáo dục, một nhà văn hóa lớn của thế giới, qua đó giúp mọi ngƣời
rút ra những giá trị, liên hệ với tình hình thực tiễn, và vận dụng vào cơng cuộc
đ i mới tồn diện nền giáo dục. Vì vậy tơi đã quyết định chọn đề tài “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và ý nghĩa của nó đối với đổi mới giáo dục ở
nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều luận án, luận văn viết về tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vai trị của nó trong sự nghiệp phát triển
đất nƣớc. Nhìn chung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục đƣợc tiếp cận và tìm
hiểu ở nhiều góc độ khác nhau.
Trong phạm vi của đề tài mà ta có thể thống kê ra đây một số cơng
trình nghiên cứu sau:
* Nhóm những tác phẩm của Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục:

Bàn về công tác giáo dục, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1972; Phát
huy tinh thần cầu học cầu tiến bộ, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1960; Về

5


vấn đề học tập, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1971; Hồ Chí Minh tồn tập
(15 tập), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
Những tác phẩm này đã trình bày chi tiết, cụ thể những lời nói, bài viết
của Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục.
* Nhóm những tác phẩm của các nhà nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục.
“Hồ Chủ Tịch nhà giáo dục vĩ đại” của giáo sƣ Nguyễn Lân với sự
cộng tác của Hà Trung Kính và Phan Thế Sùng (NXB Khoa học Xã Hội, Hà
Nội 1990). Tác phẩm tập trung trình bày về những vấn đề giáo dục Hồ Chí
Minh đã đề cập đến.
Tác giả tập trung phân tích những phê phán nghiêm khắc của Hồ Chí
minh chống chính sách ngu dân của thực dân Pháp. Đó là cuộc đấu tranh kiên
trì, bền bỉ, khơng khoan nhƣợng, kéo dài từ 1919 đến tận ngày Cách Mạng
Tháng Tám thành công. Từ sau khi chính quyền đã thuộc về tay nhân dân cho
đến ngày nay, Hồ Chủ Tịch luôn luôn theo dõi, khuyến khích, uốn nắn những
hoạt động giáo dục và vạch cho ngành ta con đƣờng xây dựng nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, NXB Lao Động, 2010.
Sách dày 580 trang, thu thập nhiều bài viết giá trị của các vị lãnh đạo,
trí thức về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh liên quan đến giáo dục. Đây là tập tài liệu
nghiên cứu và học tập rất cần thiết cho ngành giáo dục nói riêng và những ai
quan tâm học hỏi về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nói chung.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học
hiện nay” của TS Hoàng Anh chủ biên, NXB CTQG, Hà Nội 2013.

Nội dung cuốn sách trình bày nguồn gốc, q trình hình thành và phát
triển tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục theo từng thời kỳ gắn với cuộc đời
hoạt động cách mạng của Ngƣời cũng nhƣ của đất nƣớc. Đồng thời cuốn sách

6


phân tích nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục và nêu bật tầm quan
trọng của việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào việc nâng cao
chất lƣợng đào tạo đại học hiện nay. Từ việc phân tích một số vấn đề trong
cơng tác đào tạo đại học hiện nay nhƣ: chất lƣợng sinh viên, đội ngũ giảng
viên, nội dung, chƣơng trình đào tạo, phƣơng pháp giảng dạy, các tác giả đã
đề xuất các giải pháp vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục và nâng
cao chất lƣợng đào tạo đại học hiện nay.
Liên quan đến nội dung của đề tài cũng đã có những luận văn, luận án
nghiên cứu khá rộng và sâu sắc:
Luận văn thạc sỹ của Hoàng Thị Tuyết Thanh (2010) “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào xây dựng xã hội học tập ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay”. Tác giả đã đƣa ra quan niệm của Hồ Chí Minh về
giáo dục và cho thấy đƣợc tính tất yếu trong việc vận dụng quan điểm đó vào
xã hội học tập ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn thạc sỹ của Ninh Thị Ánh Hồng (2014) “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục con người mới”. Luận văn đã nêu lên đƣợc quan điểm của
Hồ Chí Minh về giáo dục con ngƣời mới cũng nhƣ vận dụng những quan
niệm đó vào việc giáo dục con ngƣời Việt Nam hiện nay.
Ngồi ra cịn rất nhiều những bài báo, bài viết đăng trên tạp chí nhƣ bài
viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với việc phát triển nền giáo dục Việt
Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI” của PGS.TS Nguyễn Thị Nga
trên tạp chí Triết học số 12 năm 2010. Tác giả đã phận tích một cách khái
quát tƣ tƣởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục trên những khía cạnh nhƣ

mục tiêu, nội dung và phƣơng pháp giáo dục. Trên cơ sở đó khẳng định tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục khơng chỉ là ánh sáng soi đƣờng, mà còn là
kim chỉ nam cho chiến lƣợc phát triển con ngƣời Việt Nam trong thập niên
đầu thế kỷ XXI.

7


“Hồ Chí Minh với nhân tố con ngƣời trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa” của PGS Trần Thanh – Lê Quang Hoan trên tạp chí nghiên cứu
lý luận. Các tác giả đã khái quát nội dung có ý nghĩa phƣơng pháp luận của
Hồ Chí Minh về vấn đề con ngƣời nhƣ giáo dục chủ nghĩa yêu nƣớc, lý tƣởng
xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng.
Ngồi ra cịn một số cơng trình nghiên cứu khác nhƣ:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, (Đặng Quốc Bảo, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội, 2008);
- Hồ Chí Minh với ngành giáo dục, (Nguyễn Vũ, Nhà xuất bản Thanh
Niên, 2001);
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam, (Trần Quốc
Hùng, Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 2003.);
- Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp phát triển giáo dục, (Vũ Văn Gầu,
Nguyễn Anh Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005);
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện (TS.Nguyễn Hữu
Cơng, NXB CTQG),
- Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài (PGS.TS Nguyễn Đức
Vƣợng, NXB CTQG)
Nhìn chung những tác phẩm này đã tập trung nghiên cứu lý luận chung
của Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, đi sâu làm rõ những điều kiện, tiền đề
cho sự ra đời tƣ tƣởng về giáo dục của Hồ Chí Minh, cũng nhƣ nội dung của
nó.

Tuy vậy, việc nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục và chỉ ra
đƣợc ý nghĩa của nó đối với đ i mới giáo dục ở nƣớc ta hiện nay vẫn chƣa có
cơng trình nào nghiên cứu, tiếp cận dƣới góc độ của khoa học triết học. Song
những tƣ liệu trên là tài liệu quý giá để tác giả tham khảo trong quá trình viết
luận văn.

8


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Làm rõ nội dung tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về giáo dục, từ đó chỉ ra ý
nghĩa của việc vận dụng tƣ tƣởng này đối với đ i mới giáo dục ở nƣớc ta hiện
nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Khái lƣợc những cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Làm rõ nội dung tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về giáo dục.
Chỉ ra một số ý nghĩa của việc vận dụng những tƣ tƣởng này đối với
đ i mới giáo dục ở nƣớc ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo
dục.
Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục thơng qua các tác phẩm
của Hồ Chí Minh và công cuộc đ i mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay do
Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xƣớng và chỉ đạo thực hiện.
5. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận khoa

học chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đƣờng lối,
chính sách của Đảng và nhà nƣớc ta về vấn đề giáo dục.
Các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trƣớc về lĩnh vực
giáo dục.
Phương pháp nghiên cứu

9


Luận văn đƣợc xây dựng trên cơ sở phƣơng pháp lịch sử, logic, phân
tích và t ng hợp, đồng thời sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu khác của
khoa học xã hội.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã hệ thống hóa một cách đầy đủ hơn những tƣ tƣởng của Hồ
Chí Minh về giáo dục. Đồng thời đƣa ra ý nghĩa của tƣ tƣởng Giáo dục của
Hồ Chí Minh vận dụng vào cơng cuộc đ i mới giáo dục ở nƣớc ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu, kế thừa và làm sâu sắc hơn nhận
thức về di sản tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về lĩnh vực giáo dục.
Ý nghĩa thực tiễn:
Với những kết quả đạt đƣợc luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho giáo viên, sinh viên, những ngƣời làm cơng tác nghiên cứu và tìm
hiểu về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chƣơng 8 tiết.

10



NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÊ
GIÁO DỤC
1.1 Cơ sở thực tiễn của việc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
giáo dục
1.1.1 Thực trạng Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XX
Trong trào lƣu xâm lƣợc thuộc địa của chủ nghĩa tƣ bản phƣơng Tây, từ
năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau
khi đánh chiếm đƣợc nƣớc ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực
dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cƣớp đoạt tài ngun, bóc lột
nhân cơng rẻ mạt và mở rộng thị trƣờng tiêu thụ hàng hóa.
Về kinh tế - xã hội: Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chƣơng
trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918), tiến hành chƣơng trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông
Dƣơng với số vốn đầu tƣ trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Do sự du nhập của phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa, tình hình
kinh tế Việt Nam có sự biến đ i: quan hệ kinh tế nơng thơn bị phá vỡ, hình
thành nên những đơ thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cƣ dân mới.
Nhƣng thực dân Pháp khơng du nhập một cách hồn chỉnh phƣơng thức sản
xuất tƣ bản chủ nghĩa vào nƣớc ta, mà vẫn duy trì các quan hệ kinh tế của chế
độ phong kiến. Chúng kết hợp hai phƣơng thức bóc lột tƣ bản và phong kiến
để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nƣớc Việt Nam khơng thể phát
triển lên chủ nghĩa tƣ bản một cách bình thƣờng đƣợc, nền kinh tế
Việt Nam bị kìm hãm trong vịng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế
Pháp.
Về chính trị, Pháp tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy
đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị

11



ngƣời Pháp, từ tồn quyền Đơng Dƣơng, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung
Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát,
toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự
do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta
trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc,
chia nƣớc ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó
với nƣớc Lào và nƣớc Campuchia để lập ra liên bang Đơng Dƣơng thuộc
Pháp, xóa tên nƣớc ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa
Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phƣơng, thậm chí là
giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đơng
Dƣơng.
Về văn hóa, Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nơ dịch, gây tâm
lý tự ti,vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại
tục. Mọi hoạt động yêu nƣớc của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm
mọi cách bƣng bít và ngăn chặn ảnh hƣởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế
giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.
Nhƣ vậy, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX chứa đựng nhiều biến động
căn bản trên nhiều phƣơng diện: kinh tế, lịch sử, xã hội, văn hóa. Pháp khai
thác triệt để nguồn tài nguyên của chúng ta và để dễ bề cai trị, chúng cịn thi
hành một chính sách ngu dân về giáo dục hết sức thâm độc và tàn bạo nhằm
thực hiện mục đích của mình.
Đế quốc chiếm thuộc địa bao giờ cũng nêu lên cái chiêu bài lừa bịp là
đi khai hóa những dân tộc lạc hậu. Nhƣng mọi ngƣời đều hiểu rằng mục đích
chính của chúng là vơ vét tài nguyên, bóc lột nhân dân thuộc địa đến tận
xƣơng tủy. Bọn chúng không mở mang giáo dục ở các nƣớc thuộc địa, vì
chúng sợ nhân dân bản xứ mà có học thì họ sẽ thấy rõ sự áp bức của chúng và
sẽ kịch liệt chống lại cái ách thống trị tàn bạo của chúng. Trong một công văn


12


mật, đề ngày 1-3-1899, một tên thống sứ Bắc kỳ đã nói với tên tồn quyền
Đơng Dƣơng rằng: “Kinh nghiệm của các dân tộc châu Âu khác đã chỉ rõ
rằng việc truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại
dột” [47;10]
Hồ Chí Minh trong nhiều tác phẩm của mình đã nhiều lần vạch rõ bản
chất tội ác cũng nhƣ lên án chính sách ngu dân của thực dân Pháp:
“Trong vài phút, tôi không thể vạch được hết những sự tàn bạo mà bọn
tư bản ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương. Nhà tù nhiều hơn trường học và lúc
nào cũng chật ních. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội chủ nghĩa
cũng đều bị bắt và có khi bị giết mà khơng cần xét xử…Chúng tơi khơng có
quyền tự do báo chí và tự do ngơn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập
hội cũng khơng có. Chúng tơi khơng có quyền sống hoặc đi du lịch ở nước
ngồi, chúng tơi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tơi khơng có
quyền tự do học tập” [18; 34, 35]
“May mắn thay! tuy chúng tôi thiếu trường học, nhưng nước Pháp đã
ban cho chúng tôi rất nhiều nhà thổ, tiệm hút thuốc phiện và ty rượu
“Để có thể đánh lừa dư luận bên chính quốc và yên ổn bóc lột người
bản xứ, bọn cá mập của văn minh không những làm cho người Việt Nam ngu
độn bằng rượu cồn và thuốc phiện, lại còn thi hành một chính sách ngu dân
triệt để [19; 106]
“Lúc đó có một nghìn năm trăm ty rượu và thuốc phiện cho một nghìn
làng trong khi chỉ có mười trường học cũng cho bấy nhiêu làng. [18; 38]
Ngƣời viết tiếp:
“Ở Đông Dương nhân dân địi trường học vì số trường học thiếu một
cách nhơ nhuốc. Mỗi năm cứ đến ngày khai trường, cha mẹ phải đến gõ mọi
cửa, xin xỏ mọi kẻ có thế lực, có khi chịu trả gấp đơi tiền ăn học, thế mà cũng


13


khơng tìm được chỗ nào cho con vào học. Và hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu
dốt vì khơng có trường” [19; 107]
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ dân tộc Việt Nam ta rất hiếu học, nhƣng
khi ngƣời Pháp đến đã làm thay đ i tất cả, chúng làm cho nhân dân ta khơng
có điều kiện để học hành vì những chính sách thuế khóa nặng nề mà chúng áp
đặt. Mặt khác chúng:
“Cố tâm hủy bỏ Hán học mà chúng thấy là nguy hiểm cho sự thống trị
của chúng, vì chúng biết rằng Hán học có thể đưa vào An Nam những tư
tưởng tiến bộ Phương Tây thông qua Trung Quốc và Nhật Bản” [18; 423] với
thâm ý sẽ đƣa nhân dân ta vào vòng ngu tối.
Và để thay thế vào một nền giáo dục đã phần nào đáp ứng đƣợc cái
“nhiệt tình ham muốn có học thức của dân tộc Việt nam” [17; 73], bọn thực
dân chỉ mở một số trƣờng tối thiểu mà mục đích:
“khơng phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn tốt
đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại
càng làm cho họ đần độn thêm. Ngồi mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái,
thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược, người
ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt
nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người
đi học, chỉ dạy cho họ một lòng trung thực giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng
bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên u Tổ Quốc khơng phải Tổ
Quốc mình, một Tổ Quốc đã từng áp bức dân tộc mình. Hấp thụ nền giáo dục
ấy, thanh thiếu niên trở lại khinh rẻ nguồn gốc, dịng giống mình và trở nên
ngu ngốc thêm” [18; 424]
Trong nền giáo dục của thực dân “điều gì có thể rèn luyện được cho
học sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người ta khơng dạy ở nhà trường,
Vấn đề nào có liên quan đến chính trị xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh


14


ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi. Có học lịch sử nước Pháp đi nữa thì
người ta khơng hề đả động đến chương nói về cách mạng. Người ta cấm học
sinh đọc tác phẩm của Huy-gô, Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ. Nói tóm lại trường
học thật là tương xứng với chế độ đã khai sinh ra nó” [18; 424, 425].
Chính vì thực dân sợ những tƣ tƣởng tiến bộ, nên chúng không muốn
cho thanh niên Việt Nam đi du học ở nƣớc ngoài, kể cả ở nƣớc Pháp:
“Người Việt Nam nào có ý định đi du học nước ngồi thì sẽ bị coi như
một người nổi loạn, một người chống Pháp, có tội lớn, người ta hãm hại
người đó và cả gia đình họ. An-be Xa-rơ, ngun tồn quyền Đơng Dương,
nay là Bộ trưởng bộ thuộc địa, đã nói rõ chính sách bao vây tinh thần ấy
bằng những lời lẽ sau đây: “Để cho lớp thượng lưu trí thức được đào tạo ở
nước ngồi thốt khỏi vịng kiêm tỏa của chúng ta, chịu ảnh hưởng văn hóa
và chính trị của nước khác, thì thật là một điều nguy hiểm vơ cùng. Những
người trí thức đó trở về nước đã đưa hết tài năng của họ để tuyên truyền vận
động chống lại chúng ta là những người bảo hộ đã ngăn cấm không cho họ
học tập” [19; 426].
Để hạn chế việc thanh niên nƣớc ta sang Pháp học tập, bọn thực dân đã
đặt ra nhiều điều lệ khe khắt, nhƣ điều 500b trong nghị đinh ngày 20-6-1921
về học chính ở Đơng Dƣơng mà Hồ Chí Minh đã vạch ra trong “Bản án chế
độ thực dân Pháp”:
“Người bản xứ nào vô luận là dân thuộc địa hay dân bảo hộ, muốn
sang chính quốc tiếp tục học tập đều phải được ơng tồn quyền cho phép”
[19; 108].
Mà đƣợc phép của tồn quyền có phải là một việc dễ dàng đâu.
“Nếu vì trường hợp đặc biệt, một thanh niên nào được phép sang học ở
bên Pháp thì chính phủ Pháp cố đưa du học sinh Việt Nam vào học ở những

trường phản động nhất. Những sách vở báo chí mà anh ta đọc, những hoạt

15


động giao thiệp hằng ngày của anh ta đều bị kiểm soát theo dõi. Người ta
giao anh cho những tên ba que thực dân già đã về hưu trông nom” [18; 426]
Nhƣ vậy ta thấy là bọn thực dân tìm mọi cách để ngăn cản du học sinh
Việt Nam tiếp xúc với những luồng tƣ tƣởng cách mạng ở ngay nƣớc Pháp
Và với một chính sách ngu dân thâm độc nhƣ thế, tất nhiên đế quốc
Pháp không thể coi trọng những ngƣời thầy giáo Việt nam. Sau những cuộc
biểu tình năm 1907,chính quyền thực dân đã cho binh lính về phá phách các
trƣờng và bắt bớ giáo viên:
“Các ông giáo bị bắt, bị ngược đãi, hành hạ, tay trói giật cánh khuỷu
và bị dẫn từng xâu lên tỉnh lỵ, đầu trần, chân khơng, nhịn đói, nhịn khát, họ bị
đánh đạp như trâu, ngựa rồi bị kết án khổ sai. Còn trường học thì bọn sĩ quan
Pháp dùng làm chuồng ngựa” [18; 77].
Rõ ràng thâm ý của bọn thực dân là dìm nhân dân ta trong vịng ngu
tối. Để chứng minh điều đó, Hồ Chí Minh đã dƣa ra một loạt những dẫn
chứng cụ thể:
“ Người Pháp không tổ chức một nền giáo dục mới thay thế cho nền giáo
dục An Nam mà họ đã bỏ đi. Họ chỉ xây dựng một số ít trường học để đào tạo
ra những con vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức
phổ thông” [18; 424]
“ Nhưng ngay cả nền giáo dục sơ đẳng ấy cũng chỉ được phổ cập một
cách qua bủn xỉn và nhỏ giọt. Cao Miên có 2.000.000 dân mà chỉ có 60
trường học. Ở Trung Kỳ chỉ có 118 trường cho 6.000.000 dân. Trường học
được lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên An Nam một nền học vấn
tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái
lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy

phái, thong ngơn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết để phục vụ cho bọn xâm

16


lược – người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm
hơn cả sự dốt nát nữa” [18; 424].
Nhƣ vậy qua những lời lẽ sắc bén và dẫn chứng cụ thể, Hồ Chí Minh đã
bóc trần đƣợc phần nào bản chất tội ác của thực dân Pháp và cho chúng ta
thấy đƣợc ý đồ thâm độc của chúng. Để rồi kết luận đƣợc rút ra là, chính
quyền Pháp muốn:
“Làm cho dân ngu để trị, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các
thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất” [19; 108].
1.1.2 Thực trạng giáo dục Việt Nam sau Cách Mạng Tháng Tám
Cách Mạng Tháng Tám là một bƣớc ngoặt lịch sử vĩ đại trong lịch sử
cách mạng Việt Nam. Từ thân phận bị áp bức, nô lệ, nhân dân Việt nam vụt
đứng lên làm chủ cuộc đời mình và xây dựng một xã hội của mình.
Sau ngày Cách mạng thành cơng, chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
phải đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó có nền giáo dục hết sức lạc hậu với
90% dân số mù chữ, huyện lớn mới có trƣờng tiểu học, vài tỉnh mới có một
trƣờng trung học cơ sở, cả nƣớc có 5 năm trƣờng trung học ph thơng tồn
cấp và cả Đơng Dƣơng mới có một trƣờng đại học với vài trăm sinh viên. Do
vậy, bên cạnh việc tiến hành chiến dịch chống nạn mù chữ, Chính phủ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hịa phải bắt tay ngay vào việc xây dựng nền giáo dục
mới của một nƣớc độc lập và dân chủ.
Ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục mới là: đại chúng, dân tộc và
khoa học, theo tôn chỉ phụng sự lý tƣởng quốc gia và dân chủ. Tính dân tộc,
có ý nghĩa là nội dung giáo dục phải giáo dục lịch sử dân tộc, giáo dục tinh
thần yêu dân tộc, tin tƣởng vào sức mạnh của dân tộc. Đó là cơ sở của toàn bộ
nội dung giáo dục, thực tế dân tộc là cơ bản của nền giáo dục nhằm đào tạo

thế hệ trẻ thành những ngƣời phụng sƣ dân tộc một cách đắc lực. Tính khoa
học, có ý nghĩa là nội dung giảng dạy cho học sinh những tri thức và phƣơng

17


pháp khoa học tiến bộ, chống giáo điều, dạy và học theo nguyên tắc học để
hành, giáo dục gắn liền với cuộc sống của nhân dân. Lấy nền giáo dục làm
cơng cụ để giải phóng về mặt tƣ tƣởng. Tính đại chúng, có nghĩa là nền giáo
dục có nhiệm vụ mang tri thức tới quần chúng, từ chỗ mù chữ đến chỗ biết
chữ, ph cập một trình độ học vấn nhất định từ thấp đến cao, cũng nhƣ đem
các tri thức khoa học đến với quần chúng rộng rãi để họ áp dụng những tri
thức ấy vào cuộc sống, vào sản xuất. Nhƣ vậy, tính đại chúng của nền giáo
dục cũng đồng nghĩa với tính dân chủ, đƣợc thực hiện từng bƣớc. Nền giáo
dục mới gồm ba bậc học: Bậc học cơ bản gồm 4 năm và bắt đầu từ 1950 sẽ là
bậc học cƣỡng bách; Bậc học trung học và chuyên nghiệp; Bậc học đại học.
Sắc lệnh 147/SL đã ấn định thêm những điều khoản pháp chế để thực hiện bậc
học cơ bản, không phải trả tiền, các môn học dạy bằng tiếng Việt ở tất cả các
bậc từ tiểu học đến đại học trong tất cả các bộ môn khoa học: khoa học xã
hội, khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Để cụ thể hoá nội dung của các sắc lệnh
trên, một loạt chủ trƣơng biện pháp nhằm khuyến khích học tập đã đƣợc ban
hành và thực hiện nhƣ: bãi bỏ tiền học ở tất cả các bậc học, gia hạn tu i cho
học sinh các lớp, cấp học b ng và mở ký túc xá cho học sinh các trƣờng trung
học. Chính phủ cũng định ra một chƣơng trình giáo dục, t chức ngạch thanh
tra và lập hội đồng sách giáo khoa… Đặt trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ,
những chủ trƣơng, quan điểm, phƣơng châm, sắc lệnh và việc làm nói trên, đã
trực tiếp xóa bỏ tính chất phong kiến, thực dân của nền giáo dục cũ, đồng thời
đặt nền móng cho sự ra đời của nền giáo dục Việt Nam mới.
Từ đầu năm 1947, giáo dục Việt Nam diễn ra theo hai khuynh hƣớng
khác nhau. Nền giáo dục mới tiếp tục đƣợc xây dựng, phát triển ở vùng tự do,

do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa t chức và hệ thống giáo dục cũ
đƣợc hồi phục ở vùng tạm bị chiếm, do chính quyền thực dân và Bảo Đại
quản lý.

18


Trong vùng tự do, từ ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng n (1912-1946), hoạt động của ngành giáo dục đã có những biến động to lớn, sâu
sắc để thích ứng với cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong chỉ thị Toàn dân
kháng chiến, Trung ƣơng Đảng chỉ rõ kháng chiến phải tồn diện, trong đó
văn hóa, giáo dục là một lĩnh vực quan trọng. Trong tác phẩm “Kháng chiến
nhất định thắng lợi”, Trƣờng Chinh, T ng bí thƣ của Đảng đã nhấn mạnh rằng
kháng chiến về mặt văn hoá có hai nhiệm vụ: một là đánh đ văn hố ngu
dân, nô dịch, xâm lƣợc của thực dân Pháp; hai là xây dựng nền văn hoá mới
của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên ba nguyên tắc: dân tộc - khoa học
- đại chúng, coi "văn hoá, giáo dục cũng là một mặt trận đấu tranh của nhân
dân ta".
Tháng 4 - 1947, Hội nghị cán bộ Trung ƣơng Đảng xác định chú
trọng mở mang giáo dục kháng chiến, chƣơng trình học phải thiết thực, nhằm
mục đích đào tạo nhân tài, cần dùng cho kháng chiến trƣớc hết, về tất cả các
ngành y tế, canh nông, quân giới cũng nhƣ thƣơng mại, ngoại giao. Học sinh
phải vừa học vừa tham gia sản xuất để tự túc một phần nào, tiếp tục phát triển
bình dân học vụ; chú ý mở trƣờng ở các vùng quốc dân thiểu số.
Từ giữa năm 1947, phần lớn các trƣờng học sau khi sơ tán đến các
vùng tự do, vùng căn cứ du kích, đã đi vào hoạt động. Các trƣờng cao đẳng
kinh tế, kỹ thuật ở Huế chủ yếu chuyển ra vùng Hà Tĩnh, Nghệ An, các
trƣờng ở Hà Nội, ở Liên khu III một số lên Việt Bắc, một số vào Thanh
Hóa… Nhằm đƣa sự nghiệp giáo dục đi vào n định và có bƣớc phát triển
mới trong hoàn cảnh kháng chiến, tháng 1-1948, Trung ƣơng Đảng đã họp hội
nghị giáo giới chấn chỉnh và mở mang việc học trong thời chiến, định chƣơng

trình học cho các cấp, soạn sách giáo khoa mới, định cách dạy học trò theo lối
mới, vừa tránh đƣợc nạn nhồi sọ của thời thuộc Pháp, vừa thích hợp với tinh
thần kháng chiến và dân chủ. Chính phủ mở trƣờng Sƣ phạm đào tạo giáo sƣ

19



×