Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

Luận án sinh kế bền vững của cư dân vùng đệm vườn quốc gia phong nha kẻ bàng, quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.29 MB, 198 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vùng đệm dựa theo Luật Lâm nghiệp tại Điều 2, khoản 25 giải thích: “Vùng đệm là
vùng rừng, vùng đất, vùng mặt nước nằm sát ranh giới của khu rừng đặc dụng có tác dụng
ngăn chặn, giảm nhẹ sự tác động tiêu cực đến khu rừng đặc dụng” [24]. Theo Luật Đa
dạng sinh học quy định tại Điều 3, Khoản 30 thì “Vùng đệm là vùng bao quanh, tiếp giáp
khu bảo tồn, có tác dụng ngăn chặn, giảm nhẹ tác động tiêu cực từ bên ngoài đối với khu
bảo tồn” [23]. Đến năm 2006, ranh giới vùng đệm được quy định trong Quyết định
186/2006/QĐ-TTg tại Điều 24, Khoản 2 “Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất
có mặt nước nằm liền kề với Vườn Quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên; bao gồm toàn bộ
hoặc một phần các xã, phường, thị trấn nằm sát ranh giới với Vườn Quốc gia và khu bảo
tồn thiên nhiên” [9]. Vườn Quốc gia (VQG) Phong Nha - Kẻ Bàng thành lập năm 2001
theo Quyết định 189/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nằm ở phía Tây Bắc tỉnh
Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới trên 50 km về phía Tây Nam, thuộc địa phận ba
huyện Bố Trạch, Minh Hoá và Quảng Ninh, với diện tích vùng lõi và một vùng đệm rộng
343.595 ha thuộc 13 xã, có hơn 71.000 người. VQG Phong Nha - Kẻ được UNESCO
công nhận năm 2003 là Di sản thiên nhiên thế giới với nhiều tiêu chí nổi trội về địa chất,
địa mạo và lần thứ 2 năm 2015 về tiêu chí đa dạng sinh học [28]. Vườn quốc gia Phong
Nha - Kẻ Bàng có ý nghĩa lớn với nền du lịch Việt Nam và cả thế giới, thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tổ chức, nhà đầu tư và nhiều khách du lịch. Hàng
năm có trên 1000 sinh viên và nghiên cứu sinh đến tìm hiểu và nghiên cứu, trên 500 nhà
nghiên cứu, khảo cổ học và các viện nghiên cứu, có thể nói đây là lợi thế rất lớn để thực
hiện nhiệm vụ phát triển bền vững của vùng đệm Vườn quốc gia [29]. Vườn quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng là khu bảo tồn thiên nhiên gắn với sự ra đời của nhiều tộc người
(Rục, Arem, Khùa, Ma coong…). Hiện nay, vùng đệm Vườn quốc gia là nơi sinh sống
của 3 nhóm dân tộc (Kinh, Bru-Vân Kiều, Chứt) với những nét văn hoá đặc trưng, độc
đáo; các tộc người Rục, Arem (dân tộc Chứt) cịn lưu giữ những nét văn hố gắn với thời
tiền sử của loài người [28].
Vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng Quảng Bình có trên 60% dân số
tham gia vào các hoạt động sinh kế phụ thuộc tài nguyên thiên nhiên, với gần 20% là
người dân tộc thiểu số có điều kiện sống vơ cùng khó khăn và trên 41% là người nghèo và



1


cận nghèo. Thực trạng trên cho thấy, nguồn lực sinh kế của người dân còn nghèo, nhiều
hoạt động sinh kế phụ thuộc tài nguyên và thiếu bền vững đã ảnh hưởng rất lớn đến tính
bảo tồn và duy trì đa dạng sinh học của Vườn quốc gia.
Trước bối cảnh phải bảo tồn tính đa dạng sinh học và đảm nhiệm thiên chức là Di
sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận. Trách nhiệm của vùng đệm là phải
bảo vệ những tác động tiêu cực đến giá trị bảo tồn và làm suy giảm nguồn lực tự nhiên thì
tất yếu phải phát triển bền vững sinh kế vùng đệm. Trước nhiều thách thức đối với xu
hướng và mục tiêu phát triển theo hướng bền vững đã có gần 100 các chương trình, chính
sách, dự án hỗ trợ người dân phát triển sinh kế từ năm 2008 đến nay. Điều này đã làm thay
đổi tình hình kinh tế - xã hội vùng đệm đáng kể, giảm tỷ lệ hộ nghèo gần 50% trong vịng
5 năm, tăng thu nhập bình qn 2%/năm, dịch chuyển cơ cấu lao động nông, lâm nghiệp
sang lĩnh vực phi nông nghiệp gấp đôi, cơ sở hạ tầng phát triển…Tuy nhiên, nhìn tổng thể
nguồn lực sinh kế của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng cịn rất
nghèo; q trình tố chức, quản lý và sử dụng nguồn lực còn nhiều bất cập; nhiều tiêu chí
được đánh giá thấp hơn Vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Sơn, Vườn quốc gia Tam Đảo
hay một số vùng đệm Vườn quốc gia khác trong nước như an ninh lương thực, thu nhập
của người dân tộc thiểu số.
Trong thời gian qua, vấn đề thực hiện đồng thời nhiệm vụ bảo tồn và nâng cao đời
sống, tăng phúc lợi và hạnh phúc cho cư dân sống xung quanh vườn quốc gia đang là bài
toán mà nhiều vùng, nhiều quốc gia có các bối cảnh tương tự đặt ra.
Trên thế giới và ở Việt Nam đã có nhiều cơng trình nghiên cứu sinh kế bền vững cả
về lý luận và thực tiễn. Hầu hết các nghiên cứu chỉ ra rằng, sinh kế thiếu bền vững là do sự
phụ thuộc quá lớn vào khai thác nguồn lực tự nhiên đã làm giảm đi tính đa dạng sinh học
và suy giảm nguồn lực, thiếu tự chủ về các nguồn lực sinh kế [40], [59], [72]. Một số
nghiên cứu sinh kế bền vững tại vùng đệm thực hiện đánh giá nguồn lực sinh kế, từ đó
nhận định những lợi thế, hạn chế của nguồn lực đối với việc thực hiện các hoạt động sinh

kế theo hướng bền vững [57], [65], [14], [17], [22]. Các nghiên cứu mới hơn đã sử dụng
thang đo chỉ số nhằm đo lường mức độ an ninh sinh kế, bền vững của sinh kế [32], [47],
[31], [68], [64], [51]. Nghiên cứu trong nước và ở địa phương có những cách thức đánh
giá sinh kế bền vững khác nhau, nhưng hầu hết các nghiên cứu cũng tập trung phân tích
thực trạng các nguồn lực sinh kế; đánh giá kết quả thực hiện sinh kế; từ đó nhận định kết

2


quả và mục tiêu thực hiện sinh kế. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu sinh kế bền vững tại
vùng đệm chưa có một hệ thống chỉ tiêu đánh giá rõ ràng, các thang đo thiếu thống nhất,
số lượng và chất lượng các chỉ tiêu nghiên cứu phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người
nghiên cứu, do vậy có nhiều kết quả đánh giá khác nhau về SKBV.
Mặt khác, theo các nhà quy hoạch và hoạch định chính sách, Vườn quốc gia Phong
Nha - Kẻ Bàng (PNKB) đang bị đe dọa về tính đa dạng sinh học và tài nguyên bảo tồn bởi
13 nguy cơ [27], trong đó phần lớn các nguy cơ đều liên quan đến các hoạt động sinh kế
của người dân vùng đệm, đây cũng là những nguyên nhân dẫn đến phát triển thiếu bền
vững ở vùng đệm. Vấn đề cốt lõi mà cơ quan, chính quyền địa phương cần quan tâm là
phát triển kinh tế - xã hội vùng đệm mà vẫn bảo tồn các nguồn lực, trong đó bảo tồn, duy
trì nguồn lực tự nhiên là vấn đề quan trọng trong bối cảnh hiện tại.
Trước thực tế đó, các nhà hoạch định chính sách đã quan tâm việc thực thi thể chế
chính sách đối với việc thúc đẩy các nguồn lực sinh kế cho cư dân vùng đệm, tạo cơ hội để
cư dân thực hiện hoạt động sinh kế bền vững. Tuy nhiên, hiệu quả thực thi và ứng dụng tại
các vùng đệm Vườn quốc gia nói chung và vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng nói riêng chưa được như mong muốn, kết quả thực hiện sinh kế của cư dân vẫn còn
nhiều hạn chế và chưa bền vững. Cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu nào tồn diện
về vấn đề sinh kế bền vững của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
Quảng Bình.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu:“Sinh kế bền
vững của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình” làm luận

án tiến sỹ kinh tế, chuyên ngành kinh tế nông nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá đúng thực trạng các hoạt động sinh kế; đo lường mức độ bền vững sinh kế
của người dân vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; trên cơ sở đó, luận án đề
xuất các giải pháp và hàm ý chính sách nhằm tăng cường sinh kế bền vững cho người dân
vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình, từ đó giảm phụ thuộc vào
tài nguyên thiên nhiên.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về sinh kế bền vững của

3


cư dân vùng đệm Vườn quốc gia.
- Đánh giá đúng thực trạng nguồn lực và kết quả hoạt các động sinh kế điển hình
của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình.
- Đo lường mức độ bền vững về sinh kế của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình.
- Đề xuất giải pháp và hàm ý chính sách nhằm tăng cường sinh kế bền vững của cư
dân vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình thời gian tới.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu chung của đề tài, các câu hỏi nghiên cứu là:
- Thực trạng về nguồn lực và kết quả các hoạt động sinh kế cho thấy những lợi thế
và thách thức nào?.
- Mức độ bền vững sinh kế của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng như thế nào? Những hạn chế và nguyên nhân còn tồn tại?.
- Kết quả đạt được của các chiến lược sinh kế như thế nào? Đa dạng hóa sinh kế tác
động như thế đến khả năng bền vững của sinh kế?.
- Những giải pháp và chính sách nào để phát triển sinh kế bền vững của cư dân

vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình trong thời gian tới?.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sinh kế của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình; Đối tượng tiếp cận nghiên cứu là các hộ gia đình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu sinh kế bền vững của cư dân
vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình.
Phạm vi thời gian: Thơng tin dữ liệu đánh giá tình hình cơ bản của vùng đệm Vườn
quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng giai đoạn 2013-2018; thông tin khảo sát thực trạng được
thực hiện năm 2018; các giải pháp được đề xuất trong thời gian tới.
Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn về sinh kế
bền vững của cư dân vùng đệm, tập trung các hoạt động sinh kế điển hình mà cư dân đang
thực hiện để sinh sống, trong đó phân tích thực trạng các nguồn lực sinh kế và kết quả đạt
được; đo lường mức độ bền vững sinh kế của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha

4


- Kẻ Bàng, Quảng Bình trên khía cạnh ba nhóm hộ (nghèo, cận nghèo và khá) và các
chiến lược sinh kế điển hình (nơng nghiệp, lâm nghiệp và khai thác LSNG, thủy sản và
hoạt động phi nơng nghiệp).
5. Đóng góp của luận án
- Luận án hệ thống hóa và phát triển các vấn đề lý thuyết về sinh kế bền vững cho
cư dân vùng đệm, làm cơ sở lý luận để xây dựng mơ hình lý thuyết phát triển sinh kế bền
vững của cư dân vùng đệm vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình.
- Luận án xác định nội dung và rút ra được 30 chỉ tiêu phân tích nguồn lực sinh kế
và 33 chỉ tiêu đo lường sinh kế bền vững. Trong đó, yếu tố thể chế chính sách được xem
là một trong bốn yếu tố quan trọng trong phân tích sinh kế bền vững
- Làm rõ thực trạng nguồn lực sinh kế và kết quả hoạt động sinh kế điển hình của cư

dân vùng đệm. Đo lường mức độ bền vững sinh kế của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng bằng phương pháp chỉ số có trọng số theo phương pháp phân hạng
thứ bậc (AHP); Chỉ ra được những kết quả đạt được, mặt hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế.
- Luận án đề xuất 5 nhóm giải pháp và một số kiến nghị, đề xuất nhằm phát triển
sinh kế bền vững cho cư dân vùng đệm Vườn quốc gia PNKB, Quảng Bình.
6. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm 3 phần:
Phần I. Mở đầu
Phần II. Nội dung và kết quả nghiên cứu:
Chương 1: Tổng quan các cơng trình nghiên cứu về sinh kế bền vững.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về sinh kế bền vững của cư dân vùng đệm
Vườn quốc gia.
Chương 3: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Thực trạng sinh kế bền vững của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình.
Chương 5: Phương hướng giải pháp phát triển sinh kế bền vững đối với cư dân
vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình
Phần III. Kết luận và kiến nghị.

5


PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN C C CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SINH KẾ BỀN VỮNG
Hầu hết các nghiên về sinh kế bền vững tiếp cận dựa trên 3 hướng cơ bản: (1) Dựa
vào tài sản sinh kế và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sinh kế; (2) Dựa vào phân tích
tính bền vững của sinh kế; (3) Phương pháp đo lường sinh kế bền vững.
1.1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu sinh kế bền vững trên thế giới

1.1.1. Một số cơng trình nghiên cứu sinh kế bền vững dựa trên các lợi thế về nguồn lực
sinh kế của địa phương
Dựa vào các lợi thế về nguồn lực sinh kế của địa phương để thực hiện cải thiện,
chuyển đổi hay phát triển các hoạt động sinh kế, các nghiên cứu đã xây dựng hoặc sử dụng
cơng cụ khung phân tích như một phương pháp nghiên cứu.
Teresa–Chang Hung Tao (2006), Fujun Shen (2009) [71], [75] nhận định hoạt
động du lịch như là một chiến lược sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư sinh sống ở
Đài Loan, Trung quốc. Nghiên cứu cho rằng, lợi thế nguồn lực phát triển du lịch là cơ sở
để thực hiện mục đích chuyển đổi sinh kế và cải thiện hoạt động sinh kế kém bền vững
trong lĩnh vực nơng nghiệp nơng thơn. Từ đó, địa phương cần thực hiện các chính sách hỗ
trợ chuyển đổi sinh kế. Nghiên cứu chỉ ra rằng, thực hiện sinh kế du lịch bền vững phải kết
hợp sự giao thoa về “sinh kế nông thôn bền vững; Du lịch bền vững; Du lịch nơng thơn”.
Trong đó, vốn thể chế được xem trọng như các nguồn vốn sinh kế khác, đây cũng là sự
khác biệt lớn nhất của nghiên cứu so với DFID (1999) [71].
Muhammad Asiful Basar (2009) ở Bangladesh chú trọng đến nguồn lực đất đai, cho
rằng năm nhóm đất đai với quy mơ khác nhau sẽ có những lợi thế khác nhau để lựa chọn
phát triển sinh kế, đồng thời thực hiện phân tích năm nguồn vốn sinh kế để nhận định
điểm mạnh và điểm yếu theo mức sống của các địa phương. Kết quả là có bốn mức thu
nhập khác nhau [59].
Như vậy các nghiên cứu trên chú trọng đến việc phân tích lợi thế các hoạt động sinh
kế trên cơ sở nguồn lực mặt nước, nguồn lực đất đai, địa danh thắng cảnh…để đánh giá
những lợi thế và hạn chế của các hoạt động sinh kế, chỉ ra các kết quả sinh kế, từ đó đưa ra
hàm ý chính sách và giải pháp nhằm phát triển sinh kế bền vững. Tuy nhiên các nghiên

6


cứu này chỉ đánh giá các hoạt động sinh kế riêng lẻ, bối cảnh nghiên cứu tập trung trên
70% người dân tham gia các hoạt động thủy sản, hoặc một số đối tượng là những người có
đào tạo và khả năng đầu tư, thiếu tính cộng đồng (trừ người nghèo) [46], hoặc xem trọng

nguồn lực tự nhiên [59].
1.1.2. Một số cơng trình nghiên cứu sinh kế bền vững vùng đệm dựa trên việc sử dụng
mơ hình các nhân tố ảnh hưởng
Các nghiên cứu này chú trọng việc sử dụng các mơ hình nhân tố ảnh hưởng để đánh
giá mối quan hệ giữa các yếu tố tác động đến hoạt động sinh kế, mà chủ yếu là các sinh kế
phụ thuộc nguồn lực tự nhiên của khu bảo tồn hoặc vườn quốc gia như:
Obong Linus Beba và cộng sự (2013) phân tích thực trạng sinh kế của vùng đệm tại
Vườn quốc gia Cross River. Nghiên cứu chỉ ra rằng, các hoạt động sinh kế của người dân
vùng đệm ảnh hưởng đến vườn quốc gia, trong đó sản xuất nơng nghiệp xâm lấn đất rừng
chiếm 20%; săn trộm 15,2%; thu hoạch dược liệu 6,4%; khai thác gỗ 3,6% và hoạt động
khác 12,8%. Các hoạt động này bị ảnh hưởng của các nhân tố về quy mơ khai thác, diện
tích đất canh tác, trình độ giáo dục, giới tính của chủ hộ…[63]. Teija Reyes (2008) đã nhận
định hoạt động nông, lâm truyền thống của người dân vùng đệm có thể có những thay đổi
tích cực hơn nếu chính quyền địa phương có những chính sách hợp lý như: (1) Quản lý
rừng có sự tham gia của người dân để nâng cao vai trò quản lý tài nguyên thiên nhiên; (2)
Thay đổi ý thức của người dân thơng qua sự hồn chỉnh các thể chế chính trị của tổ chức
trong việc nâng cao vai trị của nơng nghiệp và lâm nghiệp trong giảm nghèo. Các hoạt
động sinh kế này có sự khác nhau giữa các địa phương do khoảng cách từ nơi ở đến khu
bảo tồn, quy mô đất, thu nhập, lương thực…; Trong đó chỉ 6% số người được khảo sát
cho là khơng có sự sụt giảm của năng suất; 65% ý kiến cho rằng sụt giảm do biến đổi khí
hậu và 19% năng suất sụt giảm do suy thối mơi trường. Ngun nhân về những kết quả
trên là do thiếu vốn (37%), thiếu thị trường (37%), thiếu đào tạo (37%), thiếu nhận thức
(37%), thiếu phân bón (33%), thiếu nhân lực (28%), thiếu đất canh tác (12%) và độ tin cậy
của việc giải thích này lên đến 73% [66].
Taruvinga. A và Mushunje. A (2015) đưa ra 4 mơ hình hồi quy Tobit với 11 nhân tố
ảnh hưởng xác suất mà người dân sẽ tham gia khai thác kết hợp các sản phẩm lâm sản
ngồi gỗ. Kết quả 4 mơ hình phản ánh sự kết hợp (số loài) lâm sản ngoài gỗ được khai

7



thác sẽ ảnh hưởng đến tài nguyên rừng và khu bảo tồn khác nhau. Trong đó nhân tố dân số
và quy mơ nhân khẩu hộ gia đình giải thích đến 73% [78].
Việc tiếp cận phân tích sự bền vững sinh kế của các nghiên cứu chỉ ra rằng: tính bền
vững của sinh kế được phản ánh trên các phương diện về kinh tế, xã hội, môi trường và
cấu trúc thể chế và quy trình chính sách. Các tiêu chí này cho phép nhận định một cách
toàn diện về tác động tiêu cực và tích cực đến sự bền vững của sinh kế.
Bruce K. Downie (2015) sử dụng thuyết hành vi dự định để thăm dò hành vi của
người dân vùng đệm Vườn quốc dân Saadani về khả năng mở rộng hay chuyển đổi sinh
kế cũng như mục tiêu sản xuất lâu dài. Từ đó đưa ra bốn khuyến nghị là nên thay đổi một
phần, tăng cường nguồn lực, giữ nguyên hiện trạng hoặc nên thay thế sinh kế mới. Bốn
lĩnh vực sinh kế mà người dân vùng đệm tham gia gồm sinh kế phụ thuộc tài nguyên, thu
nhập từ lương, từ các hoạt động kinh doanh và nguồn khác [38]. Lamsal và cộng sự
(2015) chỉ ra rằng thu nhập từ hoạt động khai thác từ tài nguyên vùng bảo tồn chiếm
12,4% tổng thu nhập của hộ gia đình [56].
Winin Zakiah và cộng sự (2015) nghiên cứu sinh kế bền vững tại vùng đệm vườn
quốc gia Sebangau, đó là một vùng đầm lầy than bùn. Nghiên cứu đánh giá thực trạng của
5 nguồn vốn sinh kế và cho rằng 5 nguồn vốn sinh kế đều ảnh hưởng đến mọi hoạt động
sinh kế của con người, năm nguồn vốn này cũng được phát triển thành chỉ số chính trong
cách tiếp cận của khung phân tích sinh kế. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng khả năng tiếp
cận các nguồn vốn đến phát triển kinh tế của ngư dân vùng đệm rất thấp cận dưới 50%.
Tác giả cũng nhận định, kích thước bền vững của sinh kế thực sự phải dựa các trên tiêu chí
về bền vững về mơi trường, về xã hội, về kinh tế và cấu trúc và quy trình thể chế diễn ra
theo hướng tăng cường tính bền vững các hoạt động sinh kế [80]. Đây được xem là nghiên
cứu thực tiễn điển hình về sinh kế bền vững của người dân vùng đệm VQG.
Các nghiên cứu này chỉ tập trung phân tích mơ hình nhân tố ảnh hưởng của các sinh
kế truyền thống và chú trọng các sinh kế phụ thuộc nguồn lực tài nguyên Vườn quốc gia,
các nhân tố ảnh hưởng chỉ phản ánh tính quy mơ về vốn nhân lực, tự nhiên, xã hội, tài
chính ở một số hoạt động sinh kế; hoặc xuất phát từ việc khai thác thiếu bền vững và quy
trình thể chế chính sách chưa rõ ràng. Mục tiêu của nghiên cứu làm rõ lợi thế hoạt động

khai thác ít tác động tiêu cực đến tài nguyên vườn quốc gia [63]. Nghiên cứu cũng nhận
định các nhân tố ảnh hưởng lớn đến quy mơ khai thác và số lồi khai thác [76]. Phương

8


pháp khảo sát về hành vi dự định được xem là phương pháp định tính có ý nghĩa cho việc
quy hoạch, định hướng trong phát triển sinh kế theo hướng bền vững [38]. Winin Zakiah
và cộng sự (2015) làm rõ hơn về các tiêu chí đánh giá mức độ bền vững về sinh kế và xem
vai trò của năm nguồn vốn sinh kế phản ánh đến mọi quá trình phát triển các hoạt động
sinh kế, bên cạnh đó nghiên cứu cũng chỉ ra được kích thước đánh giá bền vững sinh kế
dựa trên 4 tiêu chí đánh giá về bền vững môi trường, bền vững kinh tế, bền vững xã hội và
bền vững về thể chế - chính sách [80].
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chỉ tập trung phân tích các mơ hình nhân tố ảnh
hưởng một số hoạt động sinh kế truyền thống, chú trọng đến sinh kế phụ thuộc nguồn lực
tài nguyên đối với một số các hoạt động sinh kế. Bên cạnh đó, chưa có khung lý thuyết
hoàn chỉnh làm cơ sở để đánh giá sinh kế bền vững ở vùng đệm, hệ thống chỉ tiêu về chỉ
tiêu nghiên cứu và phương pháp đánh giá sinh kế bền vững chưa rõ ràng.
1.1.3. Một số cơng trình nghiên cứu sinh kế bền vững dựa trên việc sử dụng chỉ số đo
lường sinh kế bền vững
Thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu về sinh kế bền vững đã sử dụng chỉ số tổng
hợp để đo lường mức độ bền vững về sinh kế. Các đánh giá sinh kế bền vững theo chỉ số
đầu tiên được CARE ở Ấn Độ và Sri Lanka sử dụng từ năm 1995 đến 1997. CARE đã
đưa ra chỉ số an ninh sinh kế (Security Livelihoods Index_SLI) với mục đích của chỉ số là
để cung cấp rõ ràng hơn về hạn chế đối với an ninh sinh kế hộ nghèo ở nông thôn.
Đến nay, chỉ số này được nhiều nghiên cứu sử dụng để đánh giá như: Suresh
Kumara & A. Raizadaa & H. Biswasa (2014) [73], Lindenberg (2002)[57], Saijad
Haroon, et al. (2010) [68]. Chỉ số đo lường dựa trên năm khía cạnh: an ninh kinh tế, an
ninh lương thực, an toàn sức khỏe, an ninh giáo dục và phân quyền (Lindenberg, 2002),
việc phát triển các thành phần của chỉ số được sử dụng như nghiên cứu của Hahn et al.

(2009) [44]. CARE cho rằng, phát triển bộ chỉ tiêu để đánh giá mỗi hộ gia đình dựa vào
cuộc họp, thảo luận liên quan của một số tổ chức phi chính phủ (CARE, 2004). Việc xây
dựng này dựa trên tiếp cận khảo sát dữ liệu từ việc xây dựng các chỉ số an ninh sinh kế,
đánh giá nhanh nông thôn (CARE, 2004).
Mical B. Hahn (2009) đã xây dựng chỉ số tổn thương sinh kế (LVI) trên cơ sở phân
tích những ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu, tác giả chỉ ra 8 thành phần gồm:
thông tin về dân tộc, nhân khẩu, sức khỏe, mối quan hệ xã hội, thức ăn, nguồn nước, thiệt

9


hại tự nhiên và biến đổi khí hậu với 28 chỉ tiêu đánh giá [44]. Kumar Lamichane (2010)
chỉ ra 44 chỉ tiêu dựa trên 13 thành phần chính thuộc năm nguồn vốn sinh kế. Chỉ số tổn
thương là tổng hợp trên 3 chỉ số thành phần (biểu hiện, tính nhạy cảm và chỉ số năng lực
thích ứng). Kết quả cho thấy có 8/13 thành phần có chỉ số tổn thương trên 0,5, nguồn vốn
tài chính tổn thương cao nhất (0,7), nguồn lực con người và nguồn lực tự nhiên có chỉ số
tổn thương lớn hơn 0,5. Cơng thức tính: VLI=∑VI(Hi)/∑wi. (với VI là chỉ số tổn thương
thành phần; wi là trọng số)[55]. Như vậy, những sinh kế thích ứng với những biến đổi khí
hậu sẽ là những sinh kế có ít rủi ro, khả năng bền vững cao hơn những sinh kế khác và chỉ
ra chiến lược đa dạng hóa sinh kế là phương pháp tốt nhất để hạn chế rủi ro.
Hiện nay, việc sử dụng chỉ số để đo lường sinh kế bền vững được tiếp cận trên
nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó việc sử dụng chỉ số an ninh sinh kế bền vững, chỉ số
sinh kế bền vững được xem là chỉ số xã hội quan trọng nhất để đánh giá chất lượng cuộc
sống, phản ánh đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người, đồng thời thể hiện những hạn chế
về khả năng tăng phúc lợi và sự phát triển của hộ gia đình.
Pramod K. Singh *, B.N. Hiremath (2010) [64] xác định chỉ số dựa trên 3 tiêu chí:
an ninh sinh thái, hiệu quả kinh tế và cơng bằng xã hội. Trong đó, (1) An ninh sinh thái
gồm: độ che phủ rừng, chất lượng nước, tiềm năng tăng thêm, thói quen và tiềm năng tái
tạo nước ngầm; (2) Hiệu quả kinh tế: tổng sản lượng lương thực có hạt (kg/ha); sản lượng
sữa trên một vật ni (kg/ngày), tỷ lệ diện tích gieo lưới (%); (3) Cơng bằng xã hội: tỷ lệ

dân số có việc làm (%), tỷ lệ nữ biết chữ (%), tỷ lệ sống của các bà mẹ (%). Anisul Haque,
M. Shah Alam Khan và Cộng sự (2016) đánh giá chỉ số an ninh sinh kế bền vững của các
HGĐ ven biển ở Banladesh cũng dựa trên 5 thành phần khác nhau: (1) Thực phẩm, (2)
Thu nhập, (3) Đời sống & sức khỏe, (4) Nhà & tài sản và (5) An ninh nguồn nước [32].
Shaheen Akter và Sanzidur Rahman(2012) [31] cho rằng, các vấn đề về an ninh
kinh tế, thực phẩm, dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục, trao quyền, an tồn mơi trường, …
ảnh hưởng đến khả năng đo lường mức bền vững của sinh kế. Mỗi chỉ số được đo trên quy
mô khác nhau, các chỉ số được tiêu chuẩn hóa theo cách tiếp cận đo lường khác nhau.
Roslina Kamaruddin và cộng sự (2014) sử dụng chỉ số sinh kế bền vững như là một công
cụ đánh giá khả năng bền vững của sinh kế dựa trên 5 nguồn vốn (tự nhiên, con người, vật
chất, xã hội, tài chính) và nhân tố kết quả sinh kế. Kết quả đánh giá SLI dựa theo Hahn
cộng sự (2009): LSI = {[(Index H *wH) + (Index P *wP) + (Index S *wS) + (Index F *wF)

10


+ (Index N *wN)]:[wH + wP + wS + wF + wN]} (wi là thành phần nhân tố phụ trong từng
nhân tố chính). Kết quả cho thấy chỉ số SLI thấp hơn 0.5 và chỉ ra rằng không phải hộ có
thu nhập cao đều có chỉ số SLI cao [51].
Haroon Sajjad & I. Nasreen (2016) [69] nghiên cứu đánh giá mức độ bền vững
trong nông nghiệp dựa trên 3 tiêu chí: an ninh sinh thái, hiệu quả kinh tế và công bằng xã
hội với 15 chỉ tiêu. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích tương quan và hồi quy
Pearson để xác định mức độ liên kết giữa Chỉ số an ninh sinh kế bền vững với các chỉ số
thành phần. Kết quả cho thấy, mối tương quan giữa SLSI và chỉ số hiệu quả kinh tế là rất
cao; giữa SLSI và chỉ số công bằng xã hội là quan trọng và cao. Phân tích hồi quy hệ số
beta của hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội ở mức 99%. Giá trị của R2 trong hiệu quả
kinh tế cao nhất (0,829) theo sau là công bằng xã hội (0,759). Vì vậy, có thể kết luận rằng
an ninh sinh kế bền vững của nông dân phụ thuộc nhiều hơn vào hiệu quả kinh tế và công
bằng xã hội. Theo kết quả khảo sát, có 33% người là có chỉ số sinh kế cao, 31% rất thấp,
28% bền vững ở mức trung bình, trong đó 7% có mức sinh kế bền vững cao. Heyuan You

và Xiaoling Zhang (2017) sử dụng 16 chỉ tiêu để tính tốn các trọng số theo phương pháp
toán vector. Kết quả cho thấy sự khác nhau về mức độ bền vững ở 3 khía cạnh sinh thái,
hiệu quả kinh tế và cập nhật xã hội của 31 tỉnh là khác nhau [47].
Như vậy chỉ số đánh giá mức độ sinh kế bền vững được nhiều tác giả sử dụng và
ngày càng hoàn thiện về bộ chỉ tiêu đánh giá dựa trên năm nguồn lực, kết quả sinh kế,
phân tích một cách chi tiết, có chất lượng ở phạm vi quy mô lựa chọn hợp lý. Nghiên cứu
chỉ số cho phép đánh giá một cách tổng hợp, tồn diện các khía cạnh trên nhiều thang đo
khác nhau. Tuy nhiên, hạn chế của dạng nghiên cứu này là phần lớn được đo lường định
tính, số câu hỏi hay chỉ tiêu có thể quyết định làm tăng độ tin cậy của thông tin trên quan
điểm của các vấn đề liên quan. Mặt khác, các nghiên cứu trên được thực hiện ở nhiều bối
cảnh, cách tiếp cận phân tích chỉ số khác nhau nên dẫn đến số lượng, quy mô và chất
lượng chỉ tiêu được lựa chọn để đo lường khác nhau. Bên cạnh đó, việc xác định phương
pháp tính trọng số đối với các nghiên cứu khơng giống nhau nên có nhiều kết quả.
1.2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu sinh kế bền vững trong nước
1.2.1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu ở các địa phương trong nước
Nghiên cứu sinh kế trong nước được thực hiện vào những năm 90, đầu tiên tập
trung vào việc xóa đói giảm nghèo ở các vùng nơng thơn Việt Nam, đồng bào dân tộc

11


thiểu số. Việc hỗ trợ cho phát triển sinh kế thông qua các dự án phát triển nông thôn
hướng tới cải thiện đời sống người nghèo, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, giáo
dục và y tế... Tuy nhiên các hoạt động hỗ trợ vẫn mang tính bao cấp dẫn đến nhiều vùng
đồng bào trở nên phụ thuộc, hiệu quả và năng suất công việc thay đổi không nhiều. Khi
hết dự án, người nghèo vùng cao, vùng sâu lại trở về với thói quen củ, các hoạt động hỗ
trợ trở nên kém hiệu quả vẫn không cải thiện. Vì vậy vấn đề xây dựng, lựa chọn sinh kế
bền vững cho người dân vùng nông thôn, đặc biệt đồng bào dân tộc thiểu số đang được
nhiều tác giả quan tâm.
Đặng Thị Kim Phụng (2012) [65], nghiên cứu sinh kế người dân vùng đệm tại

Vườn quốc gia Lò Gò Xa Mát. Khảo sát trên 150 hộ gia đình cho thấy, có 23 hoạt động
sinh kế chính, trong đó 5 HĐSK nông nghiệp và 18 HĐSK phi nông nghiệp. Hoạt động
sinh kế chính gồm trồng trọt, chăn ni, lao động tiền lương. Kết quả nghiên cứu trên 4
nhóm hộ (giàu, khá, trung bình, nghèo) chỉ ra thực trạng vốn con người thấp chỉ có 46%,
người giàu và 33% người khá; 23% người nghèo; tỷ lệ mù chữ cao chiếm 32%; số người
có trình độ đại học chủ yếu là hộ giàu và khá; chỉ có 6% chủ hộ có kỹ thuật sản xuất nông
nghiệp; người giàu sở hữu đất gấp 3-4 lần người nghèo và có đến 33% số hộ khảo sát
khơng có đất và chủ yếu làm cơng ăn lương. Bên cạnh đó người nghèo cũng bất lợi hơn
trong tiếp cận vốn vì thiếu tài sản đất đai, 84% người nghèo, 83% cận nghèo và 54% hộ
khá còn sống ở nhà tạm. Nguyễn Đăng Hiệp Phố (2016) khi nghiên cứu về sinh kế của
người Châu Mạ ở vùng đệm Vườn quốc gia Cát Tiên cũng đã phân tích điểm mạnh và
điểm yếu của 5 nguồn vốn sinh kế: (1) Vốn con người gồm: đội ngũ y tế, cơ sở y tế, trình
độ văn hóa và học vấn; (2) Vốn xã hội: mạng lưới xã hội, quan hệ đoàn thể, quan hệ vay
mượn; (3) Vốn vật chất: điện, đường, trường, trạm; (4) Vốn tài chính gồm trợ cấp…; (5)
Vốn tự nhiên [22].
Nguyễn Xuân Hòa (2018) [17] nghiên cứu về sinh kế của người Sán Dìu ở vùng
đệm Vườn quốc gia Tam Đảo, tác giả đã chỉ ra nguồn thu của người Sán Dìu từ 6 từ các
hoạt động sinh kế gồm: (1) Ruộng, (2) Vườn nhà, (3) Vườn Rừng, (4) Thu nhập từ hoạt
động chăn nuôi gia súc, (5) Chăn nuôi gia cầm, (6) Thu từ khai thác tự, tổng thu bình quân
của một hộ gia đình là 12,5 triệu đồng ở năm 2016. Ngoài ra, nghiên cứu sử dụng phương
pháp so sánh các tiêu chí theo thời gian trước và sau thành lập Vườn quốc gia nhằm làm rõ
khả năng thay đổi các hoạt động sinh kế của người dân vùng đệm. Trong khi đó nghiên
cứu của Đinh Thị Hà Giang (2017) [14] tại cộng đồng cư dân tại vùng đệm Vườn quốc
12


gia Xuân Sơn cho thấy, nguồn thu nhập chủ yếu là từ các hoạt động trồng trọt và chăn
ni, có 88,9% có thu nhập dưới 1 triệu đồng/tháng/người. Nghiên cứu cũng chỉ ra 5
nguồn vốn sinh kế mà người dân vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Sơn cho thấy, vốn sinh
kế nghèo. Nghiên cứu đánh giá tính bền vững sinh kế được chia thành 4 mức: (1) Chưa

bền vững; (2) bền vững ở mức thấp; (3) bền vững ở mức trung bình; và (4) bền vững ở
mức cao và có hơn 50% số chỉ tiêu đặt ra là chưa bền vững.
Như vậy, các nghiên cứu về sinh kế vùng đệm ở Vườn quốc gia tập trung phân tích
thực trạng nguồn lực các hoạt động sinh kế, tiến hành đánh giá và so sánh kết quả sinh kế,
đánh giá thực trạng và lợi thế của các nguồn lực sinh kế trước và sau thành lập vườn quốc
gia [20], hoặc dựa trên thực trạng các kết quả đạt được với mục tiêu đặt ra [14], một số
nghiên cứu khác đánh giá các nguồn lực sinh kế giữa các nhóm hộ [17], [14], [65]. Tuy
nhiên, các nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức đánh giá thực trạng các nguồn lực sinh kế, thực
trạng kết quả các hoạt động sinh kế, chưa làm rõ cơ sở để đánh giá mức độ bền vững của
sinh kế cũng như chưa có hệ thống tiêu chí, chỉ tiêu đo lường mức độ sinh kế bền vững.
Đặng Đình Đào và Cộng sự (2014) xây dựng mơ hình phân tích sinh kế bền vững
cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam. Nghiên cứu đánh giá các nguồn lực ảnh
hưởng trực tiếp đến năm hoạt động sinh kế gồm: trồng trọt, chăn nuôi, tiểu thủ công
nghiệp, TMDV và mơ hình sinh kế khác. Từ đó nhận định các lợi thế về nguồn lực sinh kế
trồng trọt là ngành có điều kiện và thế mạnh hơn các hoạt động sinh kế khác, là ngành tạo
thu nhập chính cho người dân. Trong đó, thể chế chính sách tác động tích cực đến mọi mặt
của đời sống của người dân nhưng cũng tạo ra tư tưởng ỷ lại, lười thay đổi, thiếu mạnh
dạn để cải thiện sinh kế và thu nhập cho hộ gia đình [13]. Phan Xuân Lĩnh (2015) cũng
xây dựng mơ hình sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk gồm ba
thành phần chính: nguồn vốn sinh kế làm trung tâm chịu tác động của thể chế, chính sách
và các thách thức về tính bền vững (kinh tế, mơi trường, xã hội). Chiến lược sinh kế được
đề cập gồm: nông nghiệp, phi nông nghiệp, đa dạng hóa [18].
Nguyễn Đăng Hào (2016) thực hiện đánh giá các nguồn lực và kết quả sinh kế của
5 hoạt động sinh kế gồm: dựa vào nông nghiệp; kết hợp nông nghiệp với ngành nghề, dịch
vụ; chiến lược dựa vào nuôi trồng thủy sản; chiến lược hỗn hợp. Cơ sở xác định các tiêu
chí đánh giá dựa vào khung lý thuyết của Ellis (2000) và Scoones (1998) [16]. Trong khi
Vũ Thị Hoài Thu (2012) đưa ra các chỉ tiêu phản ánh tác động tích cực của biến đổi khí

13



hậu đến 4 hoạt động sinh kế cụ thể gồm đánh bắt, nuôi trồng, thu gom, chế biến, sản xuất
nông nghiệp, dựa trên 5 tiêu chí đánh giá gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế và nhân
tố khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu [25].
Võ Văn Tuấn và Lê Cảnh Dũng (2015) [27] sử dụng mô hình hồi quy Tobit để đánh
giá 10 nhân tố ảnh hưởng (vốn xã hội, vốn tài chính, vốn vật chất, trình độ lao động, đất
lúa, đất hoa màu, đất tơm, chỉ tiêu đa dạng hóa sinh kế (%)… đến khả năng thực hiện đa
dạng hóa sinh kế nơng nghiệp.
Nghiên cứu Nguyễn Minh Thu (2013), được xem là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam
xây dựng chỉ số phát triển bền vững dựa trên cơ sở hệ thống chi tiêu đánh giá phát triển
bền vững ở Việt Nam. Các chỉ số thành phần gồm chỉ số tổng hợp, chỉ số xã hội, khía
cạnh mơi trường. Chỉ số đo lường mức độ phát triển bền vững dựa trên sự so sánh theo
thời gian, trọng số xác định cho các chỉ số thành phần bằng phương pháp chuyên gia [30].
Tuy nhiên, nghiên cứu này có bộ dữ liệu thứ cấp, khơng phù hợp ở cấp hộ gia đình, cấp vĩ
mơ phản ánh phát triển bền vững.
Như vậy, cũng như các nghiên cứu trên thế giới, nghiên cứu ở Việt Nam tập trung
đánh giá thực trạng nguồn vốn và làm rõ các tiêu chí bền vững, một số nghiên cứu đã
chứng minh tính đa dạng hóa sinh kế cho chiến lược sinh kế bền vững. Điều này cũng đã
được minh chứng trong các nghiên cứu điển hình của Scoones (1998), F. Ellis (2000).
Phương pháp chỉ số gần đây được sử dụng rộng rãi và đa dạng, đặc biệt được sử
dụng để đánh giá sinh kế bền vững xem như là công cụ hữu hiệu và có thể khắc phục
những hạn chế của nhiều phương pháp khác. Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp chỉ số
vẫn còn những hạn chế nhất định như đã nêu ở trên (chưa có các chỉ tiêu và thang đo về
đánh giá sinh kế bền vững rõ ràng, các nhận định đưa ra còn thiếu căn cứ và thiếu độ tin
cậy). Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào sử dụng chỉ số để đo lường mức độ sinh kế bền
vững của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia ở cấp hộ gia đình. Vấn đề sử dụng chỉ số để đo
lường mức độ sinh kế bền vững ở Việt Nam còn hạn chế. Một số nghiên cứu sử dụng chỉ
số tổn thương để đánh giá mức bền vững sinh kế [27], tuy nhiên khía cạnh đánh giá phản
ánh mặt tiêu cực của các nhân tố ảnh hưởng và các thơng tin thu thập mang tính định
hướng. Do vậy, cách tiếp cận này không phù hợp cho việc đánh giá sinh kế nhiều khía

cạnh và nhiều hoạt động sinh kế.

14


1.2.2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu sinh kế ở Phong Nha - Kẻ Bàng
Hiện nay, vẫn chưa có các cơng trình nghiên cứu độc lập về sinh kế bền vững đối
với người dân vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, Quảng Bình. Một số
nghiên cứu tiếp cận sinh kế trên cơ sở đánh giá thực trạng các hoạt động sinh kế có ảnh
hưởng đến vấn đề bảo tồn hoặc xây dựng các mơ hình sinh kế mới mà quên đi khả năng
mà người dân có thể thực hiện các sinh kế đó một cách lâu dài.
Rita Gebert và Trang Hiếu Tường (2011) nghiên cứu mối liên hệ giữa giới và đói
nghèo, nhận định giới tính của chủ hộ, tính bình đẳng của nữ giới trong gia đình, tỷ lệ về
nữ giới trong gia đình với thực trạng đói nghèo của người dân. Kết quả chỉ ra rằng, nam
giới có quyền quyết định hoạt động sinh kế trong gia đình, sự bất bình đẳng về giới trong
quyết định hoạt động sinh kê vẫn tồn tại [15].
Báo cáo về Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng đệm theo hướng bảo tồn
Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 của UBND tỉnh
Quảng Bình hợp tác với GIZ (2014) chỉ ra các đặc điểm cơ bản về kinh tế - xã hội, sự
phân bố tài nguyên của địa phương vùng đệm Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, các
lợi thế và hạn chế đối với từng hoạt động sinh kế. Ngoài ra, nghiên cứu đưa ra các dự báo
về các vấn đề kinh tế - xã hội của vùng đệm đến năm 2020 như thu nhập, lương thực, đất
đai, lao động, dân số, lượng gia súc sở hữu,… Điều này cho phép tác giả nhận định một
cách tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội vùng đệm, các hoạt động sinh kế mà người
dân vùng đệm tham gia [28].
Christian Schoen, Mesopartner (2014) [5] thực hiện lựa chọn các sinh kế ưu tiên để
hỗ trợ. Các nguồn vốn sinh kế được đánh giá bằng phương pháp thảo luận nhóm
(teambulding), nhận định các tiêu chí đánh giá về hiệu quả kinh tế, môi trường, xã hội đối
với sáu hoạt động sinh kế được lựa chọn để ưu tiên và 10 mơ hình sinh kế, trong đó có
năm mơ hình đánh giá đạt thang đo 7/10 điểm ở cả ba khía cạnh. Phạm Thanh Lương

(2016) lập quy trình kế hoạch thực hiện hỗ trợ sinh kế cho 4 nhóm sinh kế, đề xuất hỗ trợ
thực hiện phù hợp với u cầu bảo tồn, duy trì tính đa dạng sinh học và yếu tố văn hóa dân
tộc. Tuy nhiên, nghiên cứu không đưa ra cơ sở đánh giá về các hoạt động sinh kế [58].
Thuyết minh về Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích Quốc
gia đặc biệt Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Quảng Bình giai đoạn 2016 – 2025 và
tầm nhìn 2035 đã chỉ ra các điều kiện, lợi thế của nguồn lực trong phát triển du lịch gắn

15


với nhiệm vụ bảo tồn tôn tạo các giá trị đặc biệt của Vườn quốc gia. Báo cáo đã chỉ ra
những đặc điểm đặc trưng về tác động của dân số, lao động, nhận thức, địa hình cũng như
hoạt động sinh kế mà người dân vùng đệm đang hoạt động trong vùng lõi đến công tác
bảo tồn Vườn quốc gia. Từ đó, đề xuất chính sách bổ sung cơ sở hạ tầng, hệ thống nước,
hỗ trợ người dân chuyển đổi sinh kế phi nông nghiệp, đặc biệt là người dân vùng lõi là
người dân tộc đang phụ thuộc lớn vào nguồn tài nguyên [1].
1.3. Khoảng trống cho nghiên cứu luận án
Sau khi nghiên cứu, hệ thống hóa các cơng trình khoa học đi trước được tổng hợp ở
phụ lục 1, có liên quan đến đề tài luận án, tác giả nhận thấy:
- Thứ nhất, nghiên cứu về sinh kế bền vững không phải là một chủ đề mới, tuy
nhiên đặt trong bối cảnh vùng đệm Vườn quốc gia, đặc biệt là đối với cư dân vùng đệm
Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình thì chưa có nghiên cứu toàn diện về
vấn đề này. Do vậy đây là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn đối với cư dân vùng đệm và mục
tiêu bảo tồn của Vườn quốc gia PNKB, cung cấp một bức tranh toàn diện rõ ràng hơn về
thực trạng sinh kế và mức độ bền vững sinh kế của người dân, từ đó đưa ra phương hướng
giải pháp và hàm ý chính sách phù hợp cho việc tăng cường sinh kế bền vững cư dân vùng
đệm Vườn quốc gia PNKB, Quảng Bình.
- Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu, phân tích sinh kế bền vững nói chung và sinh
kế bền vững ở vùng đệm Vườn quốc gia nói riêng cịn mang tính riêng lẻ, chưa có hệ
thống chỉ tiêu đánh giá rõ ràng, chưa có khung/mơ hình phân tích riêng cho sinh kế cư dân

vùng đệm Vườn quốc gia. Các kết quả đánh giá còn phụ thuộc vào số lượng và chất lượng
các chỉ tiêu và thang đo nghiên cứu của các tác giả nên dẫn đến các kết quả không giống
nhau. Một số nghiên cứu khác, đi sâu phân tích thực trạng nguồn lực sinh kế và sử dụng
mơ hình để đánh giá mối quan hệ giữa sinh kế và các nhân tố ảnh hưởng, từ đó nhận định
chủ quan về các hoạt động sinh kế. Những năm gần đây có nhiều nghiên cứu về sinh kế
bền vững đã tiếp cận một cách toàn diện về phân tích sinh kế và đưa ra nhiều phương pháp
để đánh giá và đo lường mức độ bền vững của sinh kế như phương pháp so sánh, phương
pháp chỉ số… Tuy nhiên, hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu xác định phụ thuộc vào bối cảnh
nghiên cứu và cách tiếp cận nghiên cứu. Mặt khác, các nghiên cứu về sinh kế bền vững
của cư dân vùng đệm VQG cả trong và ngoài nước chưa sử dụng phương pháp chỉ số để
đo lường mức độ bền vững của sinh kế.

16


- Thứ ba, các giải pháp phát triển sinh kế bền vững ở vùng đệm Vườn quốc gia
được xây dựng cho từng bối cảnh cụ thể, từng hoạt động sinh kế cụ thể nên thiếu cái nhìn
tổng quan tồn diện đối với việc phát triển sinh kế bền vững vùng đệm Vườn quốc gia
trong bối cảnh bảo tồn. Nghiên cứu sinh kế bền vững của cư dân vùng đệm Vườn quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng mặc dù chỉ đặt trong bối cảnh của vùng đệm Vườn quốc gia nhưng
luận án sẽ cung cấp rõ ràng hơn về hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu, mơ hình phân tích sinh
kế bền vững của cư dân vùng đệm, phương pháp đánh giá nguồn lực và đo lường sinh kế
bền vững.
Xuất phát từ các vấn đề nêu trên, nghiên cứu sinh nhận thấy đó là khoảng trống
nghiên cứu mà các tác giả ngồi nước và trong nước trước đây chưa thực hiện, đặc biệt là
đối với cư dân vùng đệm Vườn quốc gia PNKB, Quảng Bình; trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp và hàm ý chính sách nhằm tăng cường sinh kế bền vững cho cư dân vùng đệm
Vườn quốc gia PNKB, Quảng Bình trong bối cảnh thực hiện mục tiêu bảo tồn vườn quốc
gia và phát huy lợi thế nguồn lực của địa phương.
KẾT U N CHƯƠNG 1

Tổng quan các cơng trình nghiên cứu về sinh kế bền vững trong và ngoài nước đã
làm rõ thực trạng sinh kế ở nhiều bối cảnh khác nhau, có ba hướng nghiên cứu chính gồm:
(1) Dựa vào tài sản sinh kế và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sinh kế; (2) Dựa vào
phân tích tính bền vững của sinh kế; (3) Phương pháp đo lường sinh kế bền vững. Luận án
chỉ ra rằng các hướng nghiên cứu đã làm rõ được mục tiêu nghiên cứu sinh kế, nhấn mạnh
đến nguồn lực sinh kế và kết quả các hoạt động sinh kế cũng như những phương pháp
đánh giá tính bền vững của sinh kế, tuy nhiên còn nhiều hạn chế như chưa có hệ thống các
chỉ tiêu phân tích nguồn lực sinh kế, hay đo lường mức độ bền vững, chưa có mơ hình
phân tích sinh kế bền vững riêng cho cư dân vùng đệm Vườn quốc gia… Từ đó, luận án
đã rút ra được 3 khoản trống cơ bản cần tiếp tục nghiên cứu cho nghiên cứu luận án.

17


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ Ý U N VÀ THỰC TIỄN VỀ SINH KẾ BỀN VỮNG CỦA CƯ DÂN
VÙNG ĐỆM VƯỜN QUỐC GIA
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Quan điểm sinh kế bền vững, khung phân tích và tiêu chí đánh giá tính bền
vững của sinh kế
2.1.1.1. Khái niệm sinh kế bền vững
Rober Champers và Godern Conway (1992) là những người đầu tiên đưa ra khái
niệm khá rõ ràng, theo các tác giả “Sinh kế gồm năng lực, nguồn lực (nguồn dự trữ, nguồn
tài nguyên, quyền được bảo vệ và tiếp cận) và các hoạt động cần thiết làm phương tiện
sống của con người” [37]. Frank Ellis (2000) chỉ rõ một sinh kế bao gồm các tài sản (tự
nhiên, phương tiện vật chất, con người, tài chính và vốn xã hội), các hoạt động và việc tiếp
cận các tài sản này (thể chế và quan hệ xã hội), tất cả đều xác định sự sống mà cá nhân
hoặc hộ gia đình nhận được [41]. Scoones (1998) và Cơ quan phát triển Vương quốc Anh
(DFID, 2001) đưa ra quan điểm về sinh kế bao gồm các khả năng, tài sản (cả nguồn lực
vật chất và nguồn lực xã hội) cùng các hoạt động cần thiết làm phương tiện sống [39] [69].

Tóm lại, sinh kế là những hoạt động cần thiết mà cá nhân hay hộ gia đình phải thực
hiện để duy trì sự sống và đảm bảo nhu cầu sống dựa trên các khả năng và nguồn lực sinh
kế của chính họ.
Quan điểm về sinh kế bền vững
Quan điểm về sinh kế bền vững dựa trên lý thuyết về phát triển bền vững, phát triển
bền vững xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới
(công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN)
với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát
triển kinh tế mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến
môi trường sinh thái học”[49]. Báo cáo của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (nay
là Ủy ban Brundtland), báo cáo ghi rõ “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những
nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của
các thế hệ tương lai” [36].

18


Khái niệm “Phát triển bền vững” xuất hiện trong phong trào “Bảo vệ môi trường” từ
những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX, đến nay đã có nhiều định nghĩa về phát
triển bền vững được đưa ra như: Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế – xã hội lành
mạnh dựa trên việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường, nhằm đáp ứng
nhu cầu hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng bất lợi cho các thế hệ mai sau. Theo Trần
Ngọc Ngoạn (2008) phát triển bền vững là sự phát triển thỏa mãn được nhu cầu của hiện
tại mà không làm tổn hại đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai” [20].
Chambers và Conway (1992) nhận định “một sinh kế được cho là bền vững khi mà
sinh kế đó có thể đối phó và phục hồi từ những căng thẳng và các cú sốc, duy trì hoặc tăng
cường khả năng các tài sản, cung cấp các cơ hội sinh kế bền vững cho các thế hệ tiếp theo;
phân phối các phúc lợi ở cấp địa phương và cấp cộng đồng trong ngắn hạn và dài hạn”
[37]. Scoones (1998), quan điểm về sinh kế bền vững cơ bản giống với nhận định trên
nhưng nhấn mạnh đến tính bền vững của nguồn lực tự nhiên, điều này liên quan đến thực

hiện các chiến lược sinh kế của cộng đồng nông thôn [69]. Theo Pramod K. Singh, B.N.
Hiremath (2010), khái niệm an ninh sinh kế bền vững (SLS) có phạm vi rộng hơn bao
gồm các mối quan tâm và chính sách hiện tại yêu cầu liên quan đến phát triển bền vững
(SD). Theo Swaminathan (1991a, b) an ninh sinh kế bền vững là các lựa chọn sinh kế an
toàn về mặt sinh thái, hiệu quả kinh tế và xã hội công bằng [64].
Hanstad và cộng sự (2004) diễn giải rằng “Một sinh kế được coi là bền vững khi nó
có khả năng ứng phó và phục hồi khi bị các tác động, hay có thể thúc đẩy các khả năng và
tài sản ở cả thời điểm hiện tại và trong tương lai trong khi khơng làm xói mịn nền tảng
của các nguồn lực tự nhiên” [45]. Tác giả Koos Neefjes (2000) giải thích sinh kế bền vững
là “Một sinh kế phải phụ thuộc vào các khả năng và của cải (cả nguồn lực vật chất và xã
hội) và những hoạt động mà tất cả là cần thiết để mưu sinh. Sinh kế của một người hay
một gia đình là bền vững khi họ có thể đương đầu và phục hồi trước các căng thẳng và
chấn động, tồn tại được hoặc nâng cao thêm các khả năng và của cải của mình và cả trong
tương lai mà khơng làm tổn hại đến các nguồn lực môi trường” [61].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu sinh kế bền vững là việc sử dụng các nguồn lực cần
thiết để thực hiện các chiến lược sinh kế nhằm đạt được các kết quả mong muốn. Ở cấp hộ
gia đình, sinh kế đó được coi là bền vững khi sinh kế đó có thể duy trì mức thu nhập ổn
định và ít tác động đến các yếu tố môi trường, kinh tế và xã hội. Các nguồn lực sinh kế

19


bao gồm: (1) Nguồn lực con người; (2) Nguồn lực vật chất; (3) Nguồn lực tự nhiên; (4)
Nguồn lực tài chính; (5) Nguồn lực xã hội. Các nguồn lực sinh kế có quan hệ chặt chẽ với
nhau, có tác động trực tiếp đến chiến lược sinh kế, kết quả sinh kế và mục tiêu sinh kế.
2.1.1.2. Khung phân tích sinh kế bền vững
Khung phân tích được xem là một cơng cụ hữu hiệu để nhận định các nhân tố cấu
thành và các tiêu chí đánh giá sinh kế, những cú sốc, những căng thẳng, hồn cảnh cần
phải đối phó, những điểm mạnh và điểm yếu, từ đó lựa chọn phương pháp tác động đến
sinh kế phù hợp để cải thiện, lựa chọn hoặc thay thế sinh kế.

- Các yếu tố cấu thành khung phân tích
Chương trình UNDP (1985), mơ hình của CARE (1994) mơ hình được cấu thành
bởi 3 yếu tố cơ bản: Bối cảnh, chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế. Sau này các nghiên
cứu xây dựng khung phân tích chi tiết hơn các thành phần liên quan trong việc phân tích
một sinh kế bền vững như: Scoones (1998), Frank Ellis (2000), DFID (2001) có 5 yếu tố
cấu thành khung sinh kế [39]:
Bối
cảnh

Nguồn lực
sinh kế

Quy trình
và cấu trúc

Chiến lược
sinh kế

Kết quả
sinh kế

Hình 2.1. Các yếu tố cấu thành khung phân tích sinh kế bền vững [45]
+ Thứ nhất, bối cảnh bên ngồi
Bối cảnh sống là mơi trường về kinh tế, xã hội, văn hóa, tự nhiên, thể chế, chính
sách. Bối cảnh tác động đến các sinh kế như: các cú sốc về mùa vụ, điều kiện thời tiết,
dịch bệnh; các xu hướng kinh tế, định hướng phát triển kinh tế, dân số; điều kiện về cơ hội
tiếp cận việc làm, thị trường, công nghệ, thông tin [39], [41], [70]. Ngoài ra, các hủ tục,
luật tục của địa phương dẫn đến những xung đột về thể chế, chính sách…[13], [62].
+ Thứ hai, nguồn lực sinh kế (tài sản sinh kế)
Nguồn lực sinh kế là toàn bộ năng lực vật chất hoặc phi vật chất mà con người có

thể sử dụng đế duy trì hay phát triển sinh kế của họ. Mục tiêu sử dụng tối ưu các nguồn lực
hiện có để tạo thu nhập cho nơng hộ (Ellis, 2000). Tài sản gồm cả tài sản hữu hình và tài
sản vơ hình (Scoones, 1998). Theo DFID (2001), nguồn vốn hay tài sản sinh kế được coi
là yếu tố trọng tâm trong q trình phân tích sinh kế bền vững và chia làm 5 loại sau:

20


* Nguồn lực con người: Con người được xem là nhân tố trung tâm, nguồn lực con
người thể hiện kỹ năng, kiến thức, năng lực và thể lực để theo đuổi các chiến lược sinh kế
và đạt được các mục tiêu sinh kế đặt ra [39]. Vốn nhân lực được phản ánh dưới dạng kiến
thức, ý tưởng, sáng tạo, kỹ năng và năng suất lao động [80]. Nguồn nhân lực có thể được
đầu tư thơng qua nhiều hình thức gồm giáo dục chính thức và khơng chính thức, việc làm,
sức khỏe, kinh nghiệm…[79].
* Nguồn lực xã hội: Là các tiềm lực xã hội mà con người dựa vào để theo đuổi các
chiến lược sinh kế như: mạng lưới xã hội (tham gia các hội, nhóm, đồn thể…); các nhóm
tổ chức đồn thể (chính thức và khơng chính thức); quy tắc xã hội và cơ hội tham gia;
nguồn hỗ trợ thông tin, khả năng tiếp cận và cập nhật thông tin…[41]. Ngoài các vấn đề
trên, vốn xã hội cũng phản ánh các giá trị và hành vi chung, các quy tắc và chế tài chung,
đại diện tập thể, cơ chế tham gia vào việc ra quyết định [45]. Muhammad (2012) khi
nghiên cứu trong bối cảnh vùng đệm đã nhận định, tài sản xã hội được đo bằng văn hóa
truyền thống, duy trì các phong tục, bảo tồn giá trị dân tộc và đời sống của người dân. Các
chỉ số về vốn xã hội là các yếu tố thiết yếu hỗ trợ sinh kế bền vững của người dân vùng
đệm Sebangau. Tuy nhiên chỉ khoảng 10% dân số được hưởng các lợi ích để phát triển
kinh tế [80].
* Nguồn lực vật chất: Là các loại tài sản của hộ gia đình hoặc cộng đồng liên quan
đến cơ sở hạ tầng cơ bản và các phương tiện để hỗ trợ cho các hoạt động sinh kế như:
điện, đường, trường, trạm, loại nhà ở, phương tiện sản xuất (máy móc, thiết bị), phương
tiện sinh hoạt (loại cơng trình đang sở hữu) [48], [80]. Cơ sở hạ tầng (giao thông, đường
bộ, nơi trú ẩn và tịa nhà, cơng trình nước và vệ sinh, năng lượng, thông tin liên lạc), công

cụ và công nghệ (công cụ và thiết bị để sản xuất, hạt giống, phân bón, thuốc trừ sâu, công
nghệ truyền tin [47]. Tài sản vật chất thể hiện quyền truy cập các cơ sở hạ tầng nhằm hỗ
trợ đời sống cộng đồng, các dịch vụ như sự sẵn có dịch vụ điện, rác, vệ sinh và nước sạch
cũng như mạng lưới truyền thông…[80].
* Nguồn lực tài chính: Là các nguồn vốn khác nhau mà con người sử dụng để đạt
các mục tiêu sinh kế, đó là các khoản tiền mặt và các khoản tương đương tiền. Vốn tài
chính bao gồm như: nguồn tiết kiệm, thu nhập, tiền gửi, vật ni, hàng hóa dự trữ, khoản
hỗ trợ, trợ cấp, lương hưu, các khoản tiền vay, tín dụng và các khoản nợ [39]. Vốn tài
chính cũng được hiểu là tiền mặt, tín dụng, các khoản nợ, tiết kiệm và các tài sản kinh tế

21


khác rất cần thiết cho việc theo đuổi bất kỳ chiến lược sinh kế nào [54]; vốn tài chính là
nguồn quỹ thu được và phản ánh là tổng nợ phải trả và vốn chủ sở hữu [80].
* Nguồn lực tự nhiên: Là các cơ sở tài nguyên thiên nhiên của hộ hay cộng đồng
dựa vào để thực hiện các mục đích sinh kế như: đất đai, mặt nước, rừng, nguồn nước,
khơng khí, tính đa dạng sinh học, danh lam thắng cảnh… Trữ lượng tài ngun thiên
nhiên (đất, nước, khơng khí, tài nguyên di truyền, v.v.) và dịch vụ môi trường (chu trình
thủy văn, mức độ ơ nhiễm,…), từ đó tạo nên dịng tài ngun và dịch vụ hữu ích cho sinh
kế [69]. Vốn tài nguyên là một "tài sản tự nhiên", được hiểu là nguồn tài nguyên thiên
nhiên và dịch vụ tài ngun có sẵn (như đất, nước, rừng, khơng khí chất lượng, chống xói
mịn, đa dạng sinh học,...) nó rất hữu ích trong kiểm kê các nguồn sinh kế hiện có [39].
Nhiều nghiên cứu khác chỉ ra rằng, vốn tài nguyên cũng phản ánh các thảm họa môi
trường ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên [44], [53].
+ Thứ ba, quy trình thể chế, chính sách: Thể chế, chính sách và pháp luật đóng vai
trị quan trọng trong việc thực hiện thành công các chiến lược sinh kế. Sự ảnh hưởng này
có thể hạn chế hoặc tăng cường thúc đẩy cho việc thực hiện mục tiêu sinh kế của cá nhân,
hộ gia đình hoặc cộng đồng. Cấu trúc và quy trình thể chế phản ánh một loạt các tổ chức
cung cấp dịch vụ và hỗ trợ người dân nông thơn, và hoạt động trong luật, chính sách và

thủ tục được đặt ra để người dân xác định theo các tùy chọn có sẵn, phụ thuộc vào mơi
trường, kết quả mong muốn và lỗ hổng bối cảnh để lựa chọn chiến lược sinh kế [54]. Luật
pháp, thể chế và chính sách quốc gia thực thi ở địa phương gồm những quy định chung áp
dụng thống nhất cho mọi đối tượng, mọi địa bàn trong cả nước, và những quy định riêng
áp dụng cho đặc thù theo địa bàn và đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài ra, trong thực tế cịn
có những luật lệ, thiết chế và tập qn riêng của cộng đồng bản, làng và từng dân tộc. Đây
tuy là những quy định bất thành văn nhưng rõ ràng nó có ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời
sống, do đó nó cũng ảnh hưởng đến các sinh kế [13].
Scoones (2009) xem chính sách là thể hiện các quan điểm về việc làm thế nào để có
thể chú ý đến chính trị và quyền lực được đặt vào quan điểm sinh kế. Trong nghiên cứu
này chỉ ra là quyền truy cập khác nhau vào tài sản để theo đuổi các sinh kế. Vì vậy câu hỏi
của nghiên cứu đặt ra nhằm phản ánh những quan điểm, tác động của tổ chức, của việc
vận hành các quy tắc, chuẩn mực đối với thực hiện sinh kế của người dân [70]. Chính

22


sách, thể chế và quy trình có thể xác định quyền truy cập vào tài sản và ảnh hưởng đến quá
trình ra quyết định.
+ Thứ tư, chiến lược sinh kế
Chiến lược sinh kế bao gồm sự kết hợp của các hoạt động được lựa chọn để đạt
được mục tiêu sinh kế của họ. Các thành viên khác nhau trong một gia đình có thể sống và
làm việc ở những nơi khác nhau, tạm thời hoặc vĩnh viễn [39]. Chiến lược sinh kế phụ
thuộc trực tiếp vào tình trạng tài sản và chính sách, thể chế và quy trình. Chiến lược sinh
kế là việc xác định mục tiêu, phương hướng, cách thức kiếm sống và các giải pháp để thực
thi. Chiến lược sinh kế vùng nông thôn thường là: nông nghiệp, phi nơng nghiệp, đa dạng
hóa, thâm canh nơng nghiệp, di dân [69], [70].
Theo DFID (2001) chỉ rõ “chiến lược sinh kế gồm nhóm dựa trên tài ngun, nhóm
khơng dựa trên tài nguyên, nhóm di dân” [39]. Theo Frank Ellis (2000) chiến lược sinh kế
bền vững thường đa dạng và phức tạp. Xem xét chiến lược sinh kế trong một hộ gia đình

cho thấy những người nghèo thường sử dụng nhiều “chiến lược” khác nhau, đặc biệt là khi
các nguồn lực ở một mức độ nào đó được gộp lại. Một "hộ gia đình" điển hình có sự thống
nhất cao sẽ thể hiện rõ chiến lược hơn là một cá nhân [41].
Tóm lại, chiến lược sinh kế về thực chất là cách mà hộ gia đình sử dụng các nguồn
lực sinh kế sẵn có để kiếm sống nhằm mục đích tạo thu nhập. Việc lựa chọn nguồn lực
sinh kế và năng lực sử dụng sinh kế sẽ quyết định đến kết quả sinh kế. Việc lựa chọn chiến
lược sinh kế có thể tạo ra nguồn thu nhập từ 1 hay nhiều hoạt động sản xuất khác nhau.
Hoạt động sinh kế thường phức tạp và đa dạng như: nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản,
phi nông nghiệp. Cạnh tranh chiến lược sinh kế của một hộ gia đình có thể có tác động
(tích cực hoặc tiêu cực) đến chiến lược sinh kế của một HGĐ khác.
+ Thứ năm, kết quả sinh kế
Kết quả sinh kế là những thành tựu hoặc đầu ra của các chiến lược sinh kế như thu
nhập nhiều hơn, tăng phúc lợi, giảm thiểu tổn thương, cải thiện an ninh lương thực và sử
dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững hơn [39]. Kết quả sinh kế là những thành quả mà hộ
gia đình đạt được khi kết hợp các nguồn lực sinh kế khác nhau theo các hoạt động sinh kế
cụ thể [70]. Kết quả sinh kế gắn liền với an ninh sinh kế và các tác động đối với sự bền
vững môi trường. Việc cải thiện khả năng tiếp cận tài sản sinh kế và kết quả của an ninh
sinh kế nhằm có thu nhập cao hơn, thu nhập ổn định hơn và giảm rủi ro thường là mục tiêu

23


quan trọng trong chiến lược sinh kế nông thôn, bền vững mơi trường. Đó là lý do tại sao
trong khung sinh kế, kết quả thường gắn cùng với an ninh sinh kế là một biến kết quả chứ
không phải là một mục tiêu [41].
- Một số khung sinh kế bền vững điển hình
Oxfam (1993) đã đưa ra một khung sinh kế "bán chính thức” dựa trên các quan
điểm về sinh kế bền vững của Rober Chamber và G. Conway (1992) [39].
Scoones (1998) xây dựng khung phân tích sinh kế nơng thơn bền vững, khung phân
tích đã cụ thể hóa về bối cảnh sinh kế của vùng nông thôn, các chiến lược sinh kế thích

ứng của vùng nơng thơn, lấy con người làm trung tâm và mục tiêu của sinh kế là cải thiện
nghèo đói. Các nhân tố cấu thành tập trung đến hoạt động sản xuất nơng nghiệp, cải thiện
đói nghèo với 3 chiến lược cơ bản như trên [69].
Sinh kế

Chính sách

Lịch sử
Chính trị
Điều kiện kinh tế vĩ mơ
Thương mại
Khí hậu
Nhân Khẩu học
Sinh thái nông nghiệp
Phân tầng xã hội

Điều kiện, xu
hướng, bối cảnh

Nguồn lực
con người
Nguồn lực
xã hội
Nguồn lực
tài chính
Nguồn lực
VC khác

Các nguồn
vốn


Thể chế
và chính
sách

Ảnh hưởng của
thể chế/chính sách
đến tiếp cận NLSK
/HĐSK

(1) Thâm
canh trong
nơng
nghiệp
(2) Đa dạng
hóa sinh kế
(3) Di dân

Các hoạt
động sinh
kế khác
nhau

(1) Tăng số ngày làm
việc; (2) Giảm nghèo
đói; (3) Cải thiện phúc
lợi và năng lực; (4) Tăng
khả năng thích ứng và
sinh kế giảm khả năng
dễ bị tổn thương; (5)

Đảm bảo tính bền vững
TNTN

Phân tích các kết
quả sinh kế và sự
đánh đổi

Hình 2.2. Khung phân tích sinh kế nơng thơn bền vững (Scoones, 1998)[70]
DFID (2001), xây dựng khung phân tích sinh kế có thể ứng dụng ở mức cộng đồng
và hộ gia đình và có thể áp dụng cho nhiều bối cảnh khác nhau. Đến nay, khung nghiên
cứu của DFID được nhiều nghiên cứu sử dụng và kế thừa bởi những ưu điểm về tính linh
hoạt cho nhiều bối cảnh khác nhau.

24


Hình 2.3. Khung sinh kế bền vững (DFID, 2001) [38]
Hai khung phân tích trên đều lấy con người làm trung tâm, có thể áp dụng ở nhiều
bối cảnh khác nhau, đều nhấn mạnh đến việc giải quyết các vấn đề mơi trường, chính
sách, cải cách kinh tế vĩ mơ và đều quan tâm đến người nghèo. Hai cách tiếp cận của
khung phân tích này đưa ra các yếu tố và tiêu chí cho nghiên cứu một sinh kế bền vững và
cho phép sử dụng ở nhiều cấp độ (cộng đồng và hộ gia đình). Nếu như khung phân tích
sinh kế bền vững ở nông thôn chỉ rõ phạm vi cho cộng đồng nông thôn, thể hiện rõ các
chiến lược sinh kế đối với lĩnh vực nơng nghiệp, nhấn mạnh tính bền vững của tài nguyên
thiên nhiên thì DFID xem xét sự bền vững của các nhân tố môi trường, kinh tế, xã hội là
như nhau. Hạn chế cả hai nghiên cứu này là không cụ thể về bối cảnh nghiên cứu hay ứng
dụng cho trường hợp nào, không xác định chiến lược sinh kế cụ thể nào, vì vậy các nghiên
cứu này chỉ dừng lại ở phạm vi lý thuyết.
2.1.1.3. Tiêu chí đánh giá tính bền vững sinh kế
Bền vững sinh kế xuất phát từ quan điểm phân tích sinh kế và phát triển bền vững.

Các nghiên cứu trước năm 2005 cho rằng, tiêu chí đánh giá sinh kế bền vững nhấn mạnh
bền vững môi trường (tức là đảm bảo an ninh sinh thái) [45], [61]. Đến năm 2010, các
nghiên cứu chi tiết hơn và cho rằng, để đánh giá tính bền vững của sinh kế cần xem xét
trên 3 khía cạnh: hiệu quả kinh tế, cơng bằng xã hội và an ninh sinh thái [64], [68], các
nghiên cứu này giống với các nghiên cứu điển hình của Ellis (2000) và Scoones (1998).
Đến nay, việc kế thừa và sử dụng nghiên cứu lý thuyết điển hình của DFID (2001) được
nhiều tác giả quan tâm hơn và việc đánh giá sinh kế bền vững dựa trên 4 tiêu chí cơ bản:
an ninh sinh thái, hiệu quả kinh tế, công bằng xã hội và thể chế - chính sách. Tuy nhiên
nghiên cứu này lại xem yếu tố thể chế - chính sách là nhân tố ảnh hưởng và chưa đi sâu

25


×