Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

2. nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ việt nam trong xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.17 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

1


A. MỞ ĐẦU
Trong suốt quá trình phát triển của nhân loại nói chung và đất nước ta nói riêng,
người phụ nữ ln đóng vai trị là một bộ phận quan trọng và khơng thể tách rời. Bên
cạnh việc gìn giữ, phát huy vai trị “giữ lửa” trong mỗi gia đình, phụ nữ cịn tích cực học
tập, lao động, sản xuất, tham gia có trách nhiệm vào các hoạt động xã hội và có những
đóng góp ý nghĩa
Phụ nữ khẳng định vai trị của mình trên nhiều lĩnh vực hoạt động, như chính trị
gia nổi tiếng, nhà lãnh đạo tài ba của các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp lớn, nhà khoa
học xuất sắc, xứng đáng với danh hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
Ở bất cứ thời kỳ nào, phụ nữ Việt Nam cũng ln mang trong mình khát vọng
vươn lên mạnh mẽ. Nguồn năng lượng tiềm tàng ấy tạo thành sức mạnh vĩ đại, giúp phụ
nữ Việt Nam có những cống hiến, đóng góp to lớn, góp phần xây dựng, bảo vệ non sơng
gấm vóc của Tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Tinh thần, khát
vọng ấy cần được khơi dậy, phát huy để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng trong bối cảnh mới.
Đối với phụ nữ và cơng tác phụ nữ, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng đã
nêu rõ: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng
vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc
tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ
có hồn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hồn thiện và thực
hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Kiên quyết
xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ
nữ, trẻ em”. Đây chính là sự tiếp nối, phát triển quan điểm của Đảng về phụ nữ và công
tác phụ nữ trong các kỳ đại hội trước, thể hiện rõ sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước đối
với lực lượng đã từng được Bác Hồ khen ngợi: “Non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ nữ


ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”; đồng thời, cũng khẳng định
sự quan tâm, trách nhiệm cũng như những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước đặt ra để giải
quyết các vấn đề về công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, qua quá trình học
tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “ Nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ Việt Nam
trong xã hội hiện nay” để có cái nhìn xâu và rộng hơn.

2


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ VÀ VỊ THẾ XÃ HỘI CỦA PHỤ NỮ
VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của phụ nữ Việt Nam
1.1.1. Khái niệm phụ nữ
Phụ nữ, nữ giới là từ chỉ giống cái của loài người. Phụ nữ thường được dùng để
chỉ một người trưởng thành, còn con gái thường được dùng chỉ đến trẻ gái nhỏ hay mới
lớn. Bên cạnh đó từ phụ nữ, đôi khi dùng để chỉ đến một con người giống cái, bất kể tuổi
tác, như là trong nhóm từ "quyền phụ nữ".
Thơng thường, một phụ nữ có hai nhiễm sắc thể X và có khả năng mang thai và
sinh con từ tuổi dậy thì cho đến khi mãn kinh. Giải phẫu phụ nữ, như phân biệt với giải
phẫu nam, bao gồm ống dẫn trứng, buồng trứng, tử cung, âm hộ, vú, tuyến Skene và
tuyến Bartholin. Xương chậu của nữ rộng hơn nam giới, hông thường rộng hơn và phụ nữ
có khn mặt và lơng trên cơ thể khác ít hơn đáng kể. Xét về trung bình, phụ nữ có chiều
cao thấp hơn và ít cơ bắp hơn nam giới.
Trong suốt lịch sử lồi người, vai trị giới truyền thống thường được xác định và
hạn chế các hoạt động và cơ hội của phụ nữ; nhiều học thuyết tôn giáo quy định một số
quy tắc nhất định đối với phụ nữ là bắt buộc. Với những hạn chế nới lỏng trong thế kỷ 20
ở nhiều xã hội, phụ nữ đã tiếp cận được với sự nghiệp ngoài vai trò người nội trợ truyền
thống và khả năng theo đuổi giáo dục đại học. Bạo lực đối với phụ nữ, cho dù trong gia
đình hay trong cộng đồng, có một lịch sử lâu dài và chủ yếu do đàn ông gây ra. Một số

phụ nữ bị từ chối quyền sinh sản. Các phong trào và ý thức hệ của nữ quyền có một mục
tiêu chung là đạt được bình đẳng giới.
1.1.2. Đặc điểm phụ nữ Việt Nam
Ngày nay tuy chưa phải đã hết những định kiến, nghi ngại, thậm chí là kỳ thị,
nhưng xét tồn diện, thì người quan sát trong và ngồi Việt Nam đều có sự thống nhất
nhận xét về phụ nữ Việt Nam, cả về số lượng và chất lượng đóng góp đã gìn giữ và phát
huy được vai trò đối với thực tiễn phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực thiết yếu.
Từ phải đảm đương vai trị "đối nội" trong khn khổ gia đình, phụ nữ ngày nay
còn tài cán với các trọng trách "đối ngoại". Là một sự nghiệp khơng cịn chỉ dành cho
nam giới. Họ phải khẳng định giá trị, khả năng bằng sự nghiệp và tính vươn lên của bản
thân. Khát vọng với sự nghiệp khơng đơn giản chỉ như thốt khỏi vịng cương tỏa từ
khn khổ gia đình. Hơn thế nữa họ khẳng định vị thế như là những người đứng đầu tập
đồn, cơng ty doanh nghiệp, thậm chí là những lãnh đạo trong các tổ chức của chính phủ.
Những thành tích của họ được xã hội ghi nhận và đánh giá cao trong các lĩnh vực
khoa học, công nghệ và giáo dục. Khơng ít nữ học sinh, sinh viên đạt giải cao trong các
kỳ thi cấp quốc gia và quốc tế. Tầng lớp nữ trí thức có những cơng trình khoa học giá trị,
mang lại hiệu quả kinh tế cao: Số nữ Giáo sư chiếm tỷ lệ 3,5%; Phó giáo sư 5,9%; Tiến sĩ
3


12,6%; Tiến sĩ khoa học 5,1%; 19 nữ Anh hùng lao động, và nhiều Giải thưởng
Kovalépscaia, Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội tăng qua
các thời kỳ bầu cử (khóa I (1946- 1960) là 3%, đến khóa XII (2007 – 2012) tăng lên là
25,76%). Ngành Giáo dục và Đào tạo từng có nữ bộ trưởng, và đương nhiệm thứ trưởng,
và nhiều phụ nữ làm cán bộ quản lý các cấp Vụ, Viện, Sở, Phòng, Ban, các trường và các
đơn vị giáo dục: Có 11 nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, 1.011 nữ
nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú...
Người phụ nữ Việt Nam tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau và có ảnh hưởng
khơng nhỏ đối với giá trị và lợi ích của tồn xã hội. Được thể hiện thơng qua các mơi
trường kinh tế, chính trị, văn hố, nghệ thuật...

1.1.3. Văn hóa truyền thống phụ nữ Việt Nam
Mặc dù bị ảnh hưởng khơng ít từ các nền văn hóa ngoại quốc trong suốt hàng
nghìn năm bị đơ hộ, phụ nữ Việt Nam vẫn giữ gìn được nét đẹp vốn rất riêng cho họ khi
hiếm quốc gia nào có được. Xã hội càng ngày phát triển, con người càng văn minh nhưng
những đức tính truyền thống của người phụ nữ từ nơng thơn đến thành thị vẫn ngun giá
trị, đó chính là những vẻ đẹp trong gia đình, xã hội; vẻ đẹp người làm vợ, làm mẹ; vẻ đẹp
nữ doanh nhân, ca sĩ, thi sĩ, diễn viên, hoa hậu, tri thức; vẻ đẹp ý nhị, lịch sự...
Những nét đẹp hiện đại kết hợp nhuần nhuyễn với những đức tính truyền thống tạo
nên dáng vẻ và tính cách mang ý nghĩa với bản chất thuần Việt, tiêu biểu cho các tầng lớp
phụ nữ Á Đơng.
Tuy khơng thể đua với nam giới về sức vóc, tài trí, hay việc tranh đoạt trong thiên
hạ nhưng vẫn nhiều cơng việc gia đình và xã hội cần đến người phụ nữ. Lịch sử Việt
Nam đã từng ghi nhận những hình ảnh thường ngày về người phụ nữ cổ truyền. "Sớm ra
ruộng lúa, tối về nương dâu", người phụ nữ ngày xưa tầm tơ canh cửi là chủ nhân của
những bánh xe quay sợi bằng đất nung từ thời Lý. Họ lập được những kỷ lục về trồng dâu
nuôi tằm với một năm tám lứa. Tơ lụa, sa the, lĩnh, láng mà nước ngoài chuộng mua phần
lớn đều sản xuất ra từ những bàn tay khéo léo của họ. Hình ảnh người phụ nữ "bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời", tần tảo làm lụng rất phổ biến ở các vùng làng quê Việt Nam
là lực lượng lao động chính trong các mùa vụ sản xuất lương thực. Cơng việc của họ là
làm đồng, làm gốm, chèo truyền, bán hàng, bật bông kéo sợi, dệt vải, may vá quần áo,
ngồi ra họ cịn là những nghệ sĩ sáng tác và hát dân ca, múa dân tộc...
1.2. Vai trò, vị thế của phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội

4


II. VẬN DỤNG
2.1. Quan điểm của Đảng về công tác phụ nữ
Đối với phụ nữ và công tác phụ nữ, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng đã
nêu rõ: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng

vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc
tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ
có hồn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực
hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Kiên quyết
xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ
nữ, trẻ em”. Đây chính là sự tiếp nối, phát triển quan điểm của Đảng về phụ nữ và công
tác phụ nữ trong các kỳ đại hội trước, thể hiện rõ sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước đối
với lực lượng đã từng được Bác Hồ khen ngợi: “Non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ nữ
ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”; đồng thời, cũng khẳng định
sự quan tâm, trách nhiệm cũng như những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước đặt ra để giải
quyết các vấn đề về công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc không thể không bao hàm
khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ; bởi lẽ, phụ nữ chiếm hơn một nửa dân số và
gần một nửa lực lượng lao động cả nước, có mặt trong tất cả các lĩnh vực, ngành, nghề,
khắp các vùng, miền của Tổ quốc. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước,
phụ nữ Việt Nam đã có những cống hiến, đóng góp to lớn, góp phần xây dựng và bảo vệ
non sơng gấm vóc của Tổ quốc, tạo dựng nên truyền thống vẻ vang: “Anh hùng, bất
khuất, trung hậu, đảm đang”.
Phát huy cao độ truyền thống yêu nước và cách mạng của các thế hệ đi trước, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm, tạo điều kiện của Chính phủ, chính quyền các cấp, sự
phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, ngành, đoàn thể và toàn xã hội, các
tầng lớp phụ nữ Việt Nam tiếp tục đóng góp xứng đáng vào thành tựu đổi mới và phát
triển đất nước. Phụ nữ ngày càng thể hiện rõ ý thức, trách nhiệm công dân, tự tin, chủ
động tham gia các hoạt động xã hội, lan tỏa tinh thần nhân ái trong các hoạt động thiện
nguyện, thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, đạt nhiều thành tích xuất sắc
trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời, làm tốt vai trò người vợ, người mẹ,
người thày đầu tiên, là điểm tựa tinh thần vững chắc, gắn kết các thành viên trong gia
đình, cùng chung tay chăm lo xây dựng gia đình hạnh phúc.

Bước vào thời kỳ đổi mới, phụ nữ Việt Nam có nhiều cơ hội để hiện thực hóa khát
vọng phát triển nhưng cũng đứng trước khơng ít khó khăn, thách thức, như vấn đề việc
làm trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tác động của biến đổi khí
hậu, ơ nhiễm mơi trường đến cuộc sống, sinh kế của người dân; xu hướng di cư lao động
tiềm ẩn nhiều hệ lụy tiêu cực đối với cuộc sống hơn nhân, gia đình; tình hình tội phạm
liên quan đến phụ nữ, trẻ em ngày càng phức tạp, đa dạng, tinh vi; những tác động tiêu
5


cực của mạng xã hội gây khó khăn cho giáo dục và định hướng giáo dục nhân cách, nhất
là đối với trẻ em.
Với vai trò là tổ chức đại diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của phụ nữ, những năm qua, các cấp hội đã nỗ lực đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, lấy nhu cầu thiết thân của phụ nữ làm cơ sở để xác định nội dung, hình thức
hoạt động; mở rộng kết nối, tăng cường ảnh hưởng đối với phụ nữ và xã hội, đề cao tính
chủ động, trách nhiệm của từng cấp và người đứng đầu trong công tác phụ nữ. Các hoạt
động chăm lo, hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, phát triển kinh tế, xây dựng gia đình hạnh phúc
tiếp tục được đổi mới và đạt được nhiều kết quả quan trọng; vai trò chủ thể của phụ nữ
trong gia đình và xã hội được nâng cao. Đặc biệt, các cấp hội quan tâm tuyên truyền, vận
động phụ nữ phát huy truyền thống tốt đẹp, rèn luyện và lan tỏa những phẩm chất đạo
đức “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” của phụ nữ Việt Nam; khơi dậy ý chí tự lực,
tự cường, phát huy nội lực trong giải quyết những vấn đề của chính mình và gia đình,
tham gia ngày càng tích cực, hiệu quả vào công cuộc phát triển của địa phương, đất nước.
2.2. Thưc trạng phong trào phụ nữ ở nước ta
2.2.1. Thành tựu
Trước hết, chúng ta phải thừa nhận vị trí hết sức quan trọng của người phụ nữ
trong gia đình. Họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định của gia đình. Là
người vợ hiền, họ ln hiểu chồng, sẵn sàng chia sẻ những ngọt bùi cũng như những
đắng cay cùng chồng, khiến người chồng luôn cảm thấy yên tâm trong cuộc sống, từ đó
họ có thể đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Khơng chỉ chăm sóc giúp đỡ chồng trong gia

đình, người vợ cịn đưa ra những lời khuyên thiết thực giúp chồng trong công việc, đóng
góp vào thành cơng trong sự nghiệp của chồng. Là người mẹ hết lịng vì con cái, họ thực
sự là những tấm gương cho con cái noi theo. Người mẹ ngày nay cịn là một người bạn
lớn ln ở bên con để hướng dẫn, động viên kịp thời. Bất cứ ai trong chúng ta đều có thể
tìm thấy ở những người phụ nữ, người vợ, người mẹ sự yên tĩnh trong tâm hồn và sự cân
bằng bình yên trong cuộc sống. Chính họ đã tiếp sức cho chúng ta vượt qua những khó
khăn để sống một cuộc sống hữu ích.
Trong thời đại mới, bên cạnh vai trò quan trọng trong gia đình, người phụ nữ cịn
tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngày càng có nhiều người trở thành nhà lãnh
đạo, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động. Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặt của
người phụ nữ là không thể thiếu như ngành dệt, may mặc, du lịch, công nghệ, dịch vụ…
Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp luật quy định phụ nữ
cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đai, nhà ở và tài sản.
Việt Nam cũng là một trong số ít các quốc gia đã hồn thành báo cáo về tình hình thực
hiện Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Đặc biệt,
hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ đã được thành lập ở hầu hết các bộ, ngành và
toàn bộ các tỉnh, thành phố trong cả nước. Mạng lưới cán bộ tư vấn về giới hoạt động
hiệu quả, hệ thống pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ được tăng cường bằng
Luật Bình đẳng giới.
6


Với những chủ trương, đường lối đúng đắn phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước, nên trong lĩnh vực bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong tham
gia lãnh đạo quản lý nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu được cộng đồng quốc tế ghi
nhận. Dấu ấn rõ nét đó là chỉ số bình đẳng giới không ngừng được cải thiện. Năm 2020,
Việt Nam được xếp vị trí thứ 87 trên tổng số 153 quốc gia được khảo sát trên thế giới về
thu hẹp khoảng cách giới. Nhìn lại những con số thống kê qua các kỳ bầu cử cho thấy
những thành quả quan trọng mà cả hệ thống chính trị đã quyết tâm thực hiện trong lĩnh
vực tham chính của phụ nữ,… Kết quả bầu cử Đại biểu quốc hội khóa XV tỷ lệ đại biểu

là nữ đạt 30,26% và đây cũng là lần đầu tiên từ nhiệm kỳ Quốc hội khoá VI trở lại đây, tỷ
lệ đại biểu Quốc hội là phụ nữ đạt trên 30%. Tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh đạt 26,5%
(tăng 1,37% so với nhiệm kỳ trước); cấp huyện đạt 27,9% (tăng 3,2% so với nhiệm kỳ
trước). Việc bố trí lãnh đạo nữ trong Quốc hội kỳ này chiếm gần 40%. Đây là minh
chứng cho thấy sự ưu việt trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ, giải phóng con người của
Đảng, Nhà nước ta và cũng cho thấy sự vươn lên của phụ nữ Việt Nam, đưa vị thế phụ nữ
Việt Nam tham gia Quốc hội đứng thứ hai khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đứng thứ 6
ở châu Á. Tại Đại hội XIII, trong số Ủy viên Trung ương Đảng chính thức được bầu có
18 đại biểu nữ, tăng 01 đại biểu so với nhiệm kỳ khóa XII. Trong 63 bí thư tỉnh ủy, thành
ủy trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020-2025 có tới 9 người là nữ thuộc các tỉnh: Lạng
Sơn, Lai Châu, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Ninh Bình, Quảng Ngãi và
An Giang. Đây là số lượng nữ bí thư tỉnh ủy nhiều nhất từ trước đến nay. Theo thống kê
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, trong nhiệm kỳ này, ở cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia
cấp ủy đạt 21%, tăng 2%; cấp trên cơ sở đạt 17%, tăng 2%. Đối với các đảng bộ trực
thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 16%, tăng 3% so với nhiệm kỳ trước.[6] Trong bộ máy
hành chính nhà nước cấp Trung ương và địa phương tính đến hết tháng 7-2020, tỷ lệ các
bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ (30) có lãnh đạo nữ đạt 36,6% (11/30)
Như vậy có thể nói, trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, phụ nữ Việt
Nam tiếp tục phát huy và khẳng định vai trị, vị trí của mình đối với sự phát triển của xã
hội. Khi nền kinh tế của chúng ta càng phát triển, phụ nữ càng có nhiều cơ hội hơn, phá
vỡ sự phân công lao động cứng nhắc theo giới, cho phép phụ nữ tham gia vào nền kinh tế
thị trường và khiến nam giới phải chia sẻ trách nhiệm chăm sóc gia đình, giảm nhẹ gánh
nặng việc nhà cho phụ nữ, tạo cho họ nhiều thời gian nhàn rỗi hơn để tham gia vào các
hoạt động khác; đồng thời tạo ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ trên thị trường lao động…
2.2.2. Hạn chế
Mặc dù những kết quả đạt được trong lĩnh vực bình đẳng giới rất đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, đánh giá tổng thể thì những kết quả đạt được trong bình đẳng giới nói chung
và trong lĩnh vực tham chính nói riêng chưa bền vững, thiếu ổn định. Trên thực tế khá
nhiều quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước chưa thực sự đi vào
cuộc sống ở cả cấp Trung ương, bộ, ngành, địa phương. Quy định về tỷ lệ phụ nữ tham

chính trong xây dựng Đảng, chính quyền nhà nước khơng được bảo đảm ở nhiều địa
phương. Báo cáo tóm tắt việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới của Chính
phủ, năm 2017, đánh giá việc triển khai thực hiện 22 chỉ tiêu của Chiến lược quốc gia về
7


bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 cịn có 8 chỉ tiêu dự kiến sẽ đạt vào năm 2020 và có
2 chỉ tiêu thực hiện trong nhiệm kỳ 2016 - 2021 không đạt, gồm: Chỉ tiêu nữ tham gia các
cấp ủy, đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp và chỉ tiêu lãnh đạo chủ chốt là nữ”(6) Thực
tế đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm
kỳ 2021-2026 vừa qua cho thấy nhiều địa phương, đơn vị không đạt tỷ lệ nữ theo quy
định. Trong khi Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Ban Chấp hành Trung
ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, quy định việc: “Cấp uỷ các cấp và
người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội
phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Xây dựng chỉ tiêu
cơ cấu phù hợp, nếu chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc
thực hiện chỉ tiêu với trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu". Sự hiện diện của phụ
nữ trong Đảng, trong Quốc hội, Chính phủ và hệ thống chính trị các cấp khá khiêm tốn so
với tiềm năng và nguồn lực giới nữ, đặc biệt cấp cán bộ chiến lược. Các nghiên cứu về sự
tham chính của phụ nữ ở Việt Nam trong vài thập kỷ qua đã chỉ ra những nguyên nhân
dẫn đến thực tế sự tham chính của phụ nữ cịn thấp và xu hướng tăng chưa bền vững là
do yếu tố văn hoá truyền thống/Chuẩn mực giới/Định kiến giới/mơ hình phân cơng lao
động theo truyền thống và q trình thực thi chính sách cơng về bình đẳng giới trong
tham chính chưa hiệu quả, vẫn cịn nhiều khoảng trống giữa chính sách và thực tiễn.
Sự thiếu ổn định và bền vững trong trong trao quyền cho phụ nữ được thể hiện
như tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội chưa đạt mục tiêu đề ra; Nữ uỷ viên BCH Trung ương
khoá XIII chỉ đạt 9.5%; nhiều tỉnh cịn có khoảng trống quyền lực theo giới trong cơ cấu
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ... hiệu ứng “Nam trưởng nữ phó” có tính phổ biến trong các cấp
lãnh đạo ở Việt Nam được duy trì từ nhiều thập kỷ qua. Tại các cơ quan quản lý nhà nước

cấp Trung ương, chỉ có 2/22 (chiếm 4,55%) nữ bộ trưởng và tương đương trong nhiệm kỳ
2011 – 2016; nhiệm kỳ 2021-2026 vẫn giữ 2/22 nữ bộ trưởng; nữ thứ trưởng và tương
đương là 11/142 (chiếm 7,7%). Tỷ lệ nữ vụ trưởng và tương đương đạt 7,8%, nữ vụ phó
và tương đương đạt 13,4%. Tịa án nhân dân tối cao khơng có nữ lãnh đạo chủ chốt.
Trong khối mặt trận và đoàn thể (trừ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) chỉ có 4/21 cấp
phó là nữ, khơng có cấp trưởng là nữ ở các cơ quan Trung ương của Mặt trận Tổ quốc[8].
Và đây chính là những khoảng trống cần sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị trong
hoạch định và thực thi chính sách bình đẳng giới trong chính trị.
2.2.3. Bài học kinh nghiệm
Trên cơ sở yêu cầu của thực tiễn trong giai đoạn tới và thực trạng các vấn đề liên
quan phụ nữ và công tác phụ nữ hiện nay, cần tập trung phát triển toàn diện phụ nữ và
nguồn nhân lực nữ, đặc biệt là nhân lực nữ chất lượng cao. Ðồng thời quan tâm đến nhóm
phụ nữ khó khăn, phụ nữ Dân tộc thiểu số, miền núi. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các
ngành cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình
mới, tổ chức lãnh đạo, xây dựng các chương trình, kế hoạch hoạt động cụ thể, tạo bước
chuyển biến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả công tác phụ nữ ở từng ngành, địa phương,
đơn vị. Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực hiện
8


bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân. Xây dựng trong toàn xã hội
thái độ tôn trọng, tôn vinh, bảo vệ phụ nữ; phong cách ứng xử văn minh, văn hóa đối với
phụ nữ; phê phán, đấu tranh chống tư tưởng coi thường phụ nữ, các hành vi phân biệt đối
xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp cần làm tốt hơn nữa việc chăm lo, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, phụ nữ. Tuyên truyền, vận động phụ
nữ thực hiện nghiêm các chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước, nhất là tại những
địa bàn triển khai các chương trình, dự án có tác động lớn đến đời sống nhân dân. Bồi
dưỡng, giới thiệu nguồn cán bộ nữ cho Ðảng; kết nối, phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ
nữ. Chủ động rà sốt chính sách, quy định hiện hành và nghiên cứu thực tiễn các vấn đề

của phụ nữ, trẻ em gái, bình đẳng giới và gia đình trong bối cảnh hội nhập làm cơ sở đề
xuất chính sách về lao động nữ, an sinh xã hội, cán bộ nữ, phát triển tài năng nữ, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, chính sách cho một số đối tượng đặc thù. Tham gia sơ
kết, tổng kết các nghị quyết và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến phụ nữ và bình
đẳng giới;...
Phát triển tồn diện phụ nữ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đặc biệt là
nguồn nhân lực nữ chất lượng cao có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của đất nước nói chung, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,
góp phần đẩy nhanh q trình Cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
2.3. Giải pháp phát huy vai trò và vị thế phụ nữ Việt Nam trong xã hội hiện nay
Có thể khẳng định, phụ nữ Việt Nam ln có ý thức giữ gìn, phát huy truyền thống
của dân tộc, chủ động, sáng tạo hưởng ứng các phong trào thi đua của đất nước và của
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, chăm lo, vun đắp hạnh phúc gia đình, nỗ lực vươn lên
trong cuộc sống. Họ càng ngày càng có vai trị, vị thế quan trọng, tham gia tích cực trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội, ngay cả những lĩnh vực mà lâu nay vẫn được coi là lãnh
địa của nam giới, như khoa học - kỹ thuật, thể thao thành tích cao, tham gia sứ mệnh gìn
giữ hịa bình của Liên hợp quốc,... Với vai trị là tổ chức đại diện, các cấp hội quyết tâm
phấn đấu đoàn kết, vừa đồng hành, vừa hỗ trợ để phụ nữ phát huy thế mạnh của mình,
thực hiện khát vọng vươn lên trong hành trình thực hiện khát vọng phát triển đất nước
của cả dân tộc, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng và Cách mạng
cơng nghiệp lần thứ tư, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng.
Hiện nay, các cấp hội đang tích cực chuẩn bị cho đại hội phụ nữ các cấp, nhiệm kỳ
2021  - 2026, tiến tới Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII vào năm 2022.
Trong quá trình chuẩn bị Đại hội, cán bộ, hội viên, phụ nữ Việt Nam trên khắp mọi miền
đất nước sẽ thảo luận dân chủ, rộng rãi để xác định mục tiêu các phong trào thi đua, cuộc
vận động, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong công tác phụ nữ, phù hợp
với bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cũng như chuyển đổi sang nền kinh tế
số. Dù là phong trào hay cuộc vận động nào cũng đều là sự đồng hành của tổ chức hội để
hỗ trợ, hướng dẫn và tiếp tục khơi dậy khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ Việt

9


Nam trong hành trình thực hiện khát vọng phát triển đất nước hùng cường. Các cấp hội sẽ
tiếp tục dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác chỉ đạo các hoạt động vì sự an tồn cho
phụ nữ và trẻ em, mang đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho mỗi phụ nữ, trẻ em và mỗi gia
đình; đồng thời, góp phần thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
chăm lo cuộc sống của người dân và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Để thực hiện được sứ mệnh ấy, trước hết, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nghiêm
túc quán triệt sâu sắc những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng tới cán bộ, hội viên và các tầng lớp phụ nữ cả nước; cụ thể hóa quan điểm chỉ
đạo của Nghị quyết Đại hội vào nội dung văn kiện đại hội phụ nữ các cấp; tập trung xây
dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết với những biện pháp cụ thể để đưa tư
tưởng, quan điểm, chủ trương của Đảng vào cuộc sống; tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục các tầng lớp phụ nữ thực hiện tốt đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy sức mạnh, thế mạnh của
phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời, chăm lo bảo vệ phẩm giá, quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của phụ nữ.
Hai là, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam sẽ tiếp tục tổ chức và nâng cao chất lượng,
tính thiết thực, hiệu quả các phong trào thi đua, các cuộc vận động để thu hút đông đảo
các tầng lớp phụ nữ tham gia, đóng góp cơng sức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, cũng như chủ động giải quyết những vấn đề của chính phụ nữ ngay từ cơ
sở.
Ba là, tiếp tục làm tốt việc tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình
hạnh phúc; thúc đẩy các hoạt động trao quyền năng cho phụ nữ, nhất là trong lĩnh vực
kinh tế; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, kinh doanh của phụ nữ trong kỷ nguyên số; phối
hợp thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đặc biệt là nguồn
nhân lực nữ chất lượng cao.
Bốn là, tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp để xây dựng người phụ nữ Việt
Nam trong thời đại mới phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, tinh thần, năng

lực sáng tạo, ý thức công dân; đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Tập trung bồi
dưỡng, giáo dục, động viên hội viên, các tầng lớp phụ nữ phát huy quyền làm chủ, tích
cực thực hiện có hiệu quả cơng tác giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền, tham gia các hoạt động chính trị - xã hội với đầy đủ trách nhiệm
của người làm chủ.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hội các cấp, đáp ứng yêu cầu công tác hội
trong giai đoạn mới phù hợp với yêu cầu của chủ trương về tinh gọn, sắp xếp lại bộ máy
và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ hội có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có tư duy sáng tạo, nhiệt tình, tâm huyết với cơng tác
hội; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; đổi mới trong phương pháp vận động phụ nữ.
Kịp thời phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn giới thiệu những người có đủ tiêu chuẩn tham gia
10


các cấp ủy đảng, chính quyền và các ban, bộ, ngành từ Trung ương đến cơ sở, góp phần
xây dựng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý, đáp ứng u cầu đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Năm là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức hội theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư để củng cố tổ chức hội thực sự vững mạnh, phát huy đầy đủ vai
trị nịng cốt trong cơng tác vận động phụ nữ. Đa dạng hóa nội dung hoạt động nhằm đáp
ứng một cách thiết thực, hiệu quả nhu cầu của các tầng lớp phụ nữ. Hướng mạnh hoạt
động về cơ sở, khu dân cư; cải tiến công tác chỉ đạo, điều hành; xác định rõ nhiệm vụ
trọng tâm của từng thời kỳ, tập trung chỉ đạo quyết liệt, tạo hiệu quả rõ rệt, tránh hình
thức, phơ trương, hành chính hóa trong hoạt động của tổ chức hội. Lấy hạnh phúc và lợi
ích của phụ nữ làm mục tiêu; lấy sự hài lòng của phụ nữ làm thước đo chất lượng, hiệu
quả hoạt động của hội. Đây là cách tốt nhất để “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế
mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ” theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, góp phần thực hiện thành cơng mục tiêu xây dựng đất

nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

11


C. KẾT LUẬN
Hiện nay, những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại đã phần nào hỗ trợ người
phụ nữ trong công việc nội trợ, giảm bớt sức lao động của người phụ nữ trong gia đình.
Song, phụ nữ vẫn là người làm chính cơng việc nhà, từ việc bếp núc tới việc dạy dỗ con
cái, chăm lo đời sống tinh thần cho các thành viên trong gia đình. Cộng với thời gian làm
việc ngoài xã hội, quỹ thời gian dành cho việc hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần,
việc học tập nâng cao trình độ kiến thức của phụ nữ là rất hiếm hoi, thậm chí ở một số
đối tượng phụ nữ như công nhân, người buôn bán, quỹ thời gian này gần như khơng có.
Bên cạnh đó, nguy cơ bạo lực gia đình đang là mối đe dọa cho một số không nhỏ phụ nữ.
Để người phụ nữ đảm đương được vai trị của mình, đồng thời phát huy được hết
khả năng bản thân để phát triển trong thời hiện đại, yếu tố tự thân của mỗi phụ nữ là rất
quan trọng. Chỉ khi nào tính tích cực, chủ động của người phụ nữ được khơi dậy, phụ nữ
mới vừa có thể đảm đương tốt cơng việc ngồi xã hội, vừa duy trì được mối quan hệ gia
đình bền chặt, một tổ ấm hạnh phúc. Điều cần làm là làm sao để gia đình và xã hội tạo
được những điều kiện thuận lợi nhất cho phụ nữ phát huy được khả năng của mình, đó là:
người phụ nữ có cơng việc ổn định để đảm bảo cuộc sống, có cơ hội học tập nâng cao
kiến thức, trình độ chun mơn, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động xã hội,
các đoàn thể, câu lạc bộ, có thời gian hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, chăm sóc sức khỏe,...
Trong thời đại mới, người phụ nữ Việt Nam tiếp tục nâng tầm năng lực và phẩm
chất của mình, đồn kết, phát huy tiềm năng, sức sáng tạo trong lao động sản xuất, công
tác và học tập để có thể đáp ứng yêu cầu của thời đại mới_thời đại của cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập toàn cầu, xứng đáng với tá

12



1.
2.
3.
4.
5.

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 34
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2018, tập 66, tr.236
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn
phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.138
Đánh giá phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam nhiệm kỳ
2007-2012”.
Phụ nữ Việt Nam xưa và nay Lưu trữ 2010-11-22 tại Wayback Machine Báo
phunu.hochiminhcity.

13



×