Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Khí độc H2S - “sát thủ giấu mặt” của tôm nuôi doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.47 KB, 11 trang )

Khí độc H2S - “sát thủ giấu mặt” của tôm nuôi

Trong quá trình nuôi, các chất thải được máy quạt nước gom tụ vào giữa đáy ao (đối với
ao đáy bùn đất thì một lượng chất thải vẫn còn phân bố xung quanh nền đáy). Đống chất
thải này phân thành 2 lớp. Lớp ngoài rất mỏng (khoảng 5 mm) được ôxy hoá nên có màu
tương đối sáng, có chức năng bao phủ và hạn chế khí độc thoát ra ngoài. Lớp bên dưới có
màu đen, chất thải ở điều kiện thiếu ôxy nên vi khuẩn khử lưu huỳnh tạo ra khí độc H
2
S.


Khí độc H
2
S có mùi trứng thối,
càng nhiều bùn đen thì càng nhiều khí độc H
2
S. Nó được gọi là “sát thủ” vì độ độc H
2
S
cao gấp nhiều lần so với NH
3
và NO
2
, chỉ cần 0,01 ppm là có thể giết chết tôm. Còn
“giấu mặt” vì cho đến nay, vẫn chưa có dụng cụ kiểm tra hàm lượng khí độc H
2
S trong ao
nuôi.

Sau đây là mô tả diễn biến, dấu hiệu nhận biết và biện pháp cụ thể của một số trường hợp
tôm bị chết do khí độc H


2
S.

1. Chết sau tháng nuôi đầu (ngày nuôi thứ 25 - 45)

Diễn biến: Sau khi cải tạo xong, cấp nước mới vào ao (đặc biệt đối với ao đáy đất cũ, ao
ở vùng rừng ngập mặn đáy có nhiều xác cây sú vẹt và ao lót bạt qua nhiều vụ nuôi), chất
hữu cơ dưới đáy ao bắt hòa tan vào nước, gây tiêu tốn nhiều ôxy và xuất hiện lượng khí
độc tương đối cao.

Đối với tôm sú, thường sống tập trung ở đáy ao, đây là nguyên nhân khiến tôm bị stress
(sốc) và yếu, dễ bị cảm nhiễm vi khuẩn Vibrio, hoặc nghiêm trọng hơn là tôm sẽ bị chết
do khí độc H
2
S (người nuôi gọi đây là hội chứng tháng nuôi đầu).

Đối với tôm chân trắng, lúc này ít nghiêm trọng hơn bởi vì hầu hết hoạt động của tôm
diễn ra trong tầng nước, nhưng tôm cũng có thể yếu và dễ cảm nhiễm bệnh. Nếu tôm
đang lột xác hoặc sục xạo tìm kiếm thức ăn dưới đáy sẽ rất dễ bị ảnh hưởng bởi khí độc
H
2
S.

Dấu hiệu: Tôm yếu bơi lờ đờ trên mặt nước hoặc chết trong giai đoạn nuôi 25 - 45 ngày.

Giải pháp: Luôn duy trì hàm lượng ôxy hòa tan trong nước trên 4 ppm. Khi tôm còn nhỏ,
tất cả các máy quạt nước nên được duy trì hoạt động thường xuyên. Ván tảo tàn nổi trên
mặt nước phải được vớt hết ra khỏi ao và cấy vi sinh PondDtox® 2 kg/ 10.000 m
2
xuống

ao để khử khí độc H
2
S.

2. Chết sau 2 tháng nuôi (ngày nuôi 70 đến thu hoạch)

Diễn biến: Khi tôm nuôi được 70 ngày, đống chất thải trong ao đã sinh ra một lượng lớn
khí độc H
2
S. Nếu để xảy ra vấn đề thiếu ôxy đột ngột do tảo tàn, thay đổi thời tiết (mưa,
mây mù) hoặc cho ăn thừa thì vi khuẩn kị khí sẽ tăng cường hoạt động và tạo ra nhiều khí
độc H
2
S. Từ thời điểm 70 ngày trở đi, tôm dễ bị stress (sốc) bởi khí độc H
2
S, các khí độc
khác, hàm lượng ôxy thấp và không gian sống bị thu hẹp. Đặc biệt, những con yếu và
những con trong giai đoạn lột xác có xu hướng lẫn tránh những con khỏe vào khu vực
chất thải nơi có khí độc H
2
S cao, khiến tôm bị stress (sốc) và trở nên yếu hơn.

Dấu hiệu: Xuất hiện những bọt bong bóng lâu tan nổi trên mặt nước ở giữa ao. Chất thải
chuyển sang màu rất đen. Thỉnh thoảng tôm giảm ăn mạnh vào cữ sáng. Xuất hiện tôm
chết sậm màu với dấu hiệu miệng đen và mang có màu khác thường như hồng, đỏ tía
hoặc đen.

Giải pháp: Người nuôi nên có kế hoạch thả số lượng tôm phù hợp cho từng ao. Nếu vấn
đề trên xảy ra, nên giảm lượng thức ăn, tăng cường quạt nước, duy trì pH trên 7,5 vào
buổi sáng, cấy vi sinh PondDtox® 2 kg/ 10.000 m

2
(lần 1) và 1 kg/ 10.000 m
2
(lần 2)
cách nhau 3 - 4 ngày.

3. Mưa

Diễn biến

Tiếng động: Mưa rớt xuống mặt nước ao gây kích động đến tôm, khiến hầu hết tôm có xu
hướng tập trung xuống đáy ao, nơi mà tôm sẽ tiếp xúc với đống chất thải và hàm lượng
ôxy hòa tan thấp.

Nhiệt độ thấp: Trời mưa làm cho nhiệt độ nước ao giảm thấp, tôm di chuyển đến nơi có
nhiệt độ ấm hơn là khu vực chất thải và bị ảnh hưởng bởi khí độc H
2
S. Khi trời nắng trở
lại, nhiệt độ nước tăng khiến quá trình phân hủy chất thải diễn ra với tốc độ nhanh. Điều
này làm tiêu hao một lượng lớn ôxy hòa tan trong ao.

Trời âm u: Trời nhiều mây mù, tảo không có ánh sáng để quang hợp. Tảo không tạo ra
ôxy mà còn sử dụng ôxy do quá trình hô hấp tự nhiên. Khi ôxy hòa tan thấp, khí độc H2S
sinh ra nhiều và phân tán đến khu vực cho ăn, khiến cho tôm khỏe trở nên yếu và nhiễm
bệnh.

pH thấp: Nước mưa có tính axít và đó là nguyên nhân làm cho pH nước ao giảm thấp. pH
thấp làm cho H
2
S trở nên nguy hiểm hơn, Khí H

2
S cực độc (100%) khi pH = 5 và không
độc (0%) khi pH = 10.

Phân tầng nước ao: Nước mưa gây phân tầng, tầng nước ngọt ở phía trên mặt ao và tầng
nước mặn ở dưới. Điều này gây cản trở sự hòa tan của ôxy xuống phía dưới, gây stress
(sốc) cho tôm và tăng tính độc H
2
S.

Sóng trên mặt nước: Nếu trời mưa kèm theo gió mạnh từ 15 km/giờ trở lên sẽ tạo ra các
đợt sóng mạnh trên mặt nước ao, cũng như tạo ra luồng nước ở dưới đáy ao. Điều này
làm cho đống chất thải ở đáy ao bị khuấy động, tróc lớp bùn mỏng bảo vệ bề mặt đáy, khí
độc H
2
S thoát ra và bao phủ khắp khu vực đáy ao.

Sau cơn mưa: Khi trời ngừng mưa, một lượng lớn chất thải tạo ra nhiều chất thải hữu cơ
và là thức ăn cho vi khuẩn gây hại phát triển. Vi khuẩn tiêu thụ nhiều ôxy và ở phía dưới
đống chất thải, do thiếu ôxy nên vi khuẩn khử lưu huỳnh tạo ra khí độc H
2
S.

Ngoài ra, trời mưa khiến tôm giảm ăn và nhiều con tập trung ở nhá/vó để bắt mồi hơn là
ở đáy ao. Người nuôi cho rằng tôm ăn tốt vì thấy hết thức ăn trong nhá/vó, nhưng thực ra
lượng thức ăn vẫn thừa nhiều ở đáy ao.

Dấu hiệu: Tôm trở nên yếu, mắc bệnh hoặc chết sau cơn mưa. Một số tôm có chân bơi
màu nâu đen, miệng đen và màu sắc cơ thể sậm hơn. Tôm giảm ăn và nhiều con chết.


Giải pháp: Khi trời mưa, cần duy trì hoạt động của tất cả các máy quạt nước và cắt giảm
lượng thức ăn (khoảng 50%) hoặc đợi sau khi hết mưa khoảng 20-30 phút mới cho tôm
ăn. Kịp thời rải vôi tôi (CaO hoặc Ca(OH)
2
) quanh vùng rìa của đống chất thải. Sử dụng
vi sinh PondDtox® 2 kg/ 10.000 m
2
trước hoặc ngay sau khi trời mưa để giảm sự bùng
phát khí độc H
2
S. Người nuôi nên thường xuyên kiểm tra pH nước. Nếu pH thấp cần bón
vôi tôi (CaO hoặc Ca(OH)
2
) quanh vùng rìa của đống chất thải, mỗi lần một ít và tiếp tục
kiểm tra, điều chỉnh pH nước cho đến khi pH trên 7,5. Luôn đảm bảo hàm lượng ôxy hòa
tan tại vùng rìa chất thải trên 4 ppm.

4. Thời tiết lạnh

Diễn biến: Trong vùng chất thải, luôn có vi khuẩn hoạt động phân hủy chất hữu cơ. Quá
trình này sinh ra nhiệt nên tại khu vực chất thải luôn ấm hơn các nơi khác trong ao. Khi
thời tiết trở lạnh, tôm khỏe có khả năng chống chịu tốt hơn và tránh xa khu vực chất thải.
Trong khi đó, tôm yếu chịu lạnh kém sẽ tiến đến khu vực chất thải (nhiệt độ ấm hơn) và
bắt đầu nhiễm độc bởi khí H
2
S. Khi thời tiết ấm trở lại, vi khuẩn phân hủy chất thải với
tốc độ nhanh hơn và tiêu thụ một lượng lớn ôxy. Hàm lượng ôxy thấp sẽ làm cho tôm
sống ở khu vực này bị nhiễm độc bởi khí H
2
S.


Dấu hiệu: Nhiệt độ thấp khiến tốc độ trao đổi chất trong cơ thể tôm diễn ra chậm. Tôm ăn
ít và tiêu hóa thức ăn chậm. Tôm sử dụng ít năng lượng và độ nhạy của giác quan khứu
giác giảm. Một số tôm giảm ăn do khí độc H
2
S. Khi thời tiết ấm trở lại, hầu hết tôm ăn
nhiều hơn nhưng có nhiều tôm chết sớm sau đó.

Giải pháp: Khi thời tiết trở lạnh (25 - 26
o
C), lượng thức ăn nên được giảm 20 - 30%.
Tăng cường quạt nước để cung cấp đầy đủ ôxy trong cả ngày. Đặt vài nhá/vó để kiểm tra
tôm yếu tại khu vực vùng rìa của đống chất thải. Nếu phát hiện có tôm yếu vào nhá thì
tiến hành trộn vitamin, khoáng vào thức ăn để hỗ trợ tôm khỏe hơn. Vôi được rải quanh
vùng rìa đống chất thải để giữ cho pH cao và hạn chế ảnh hưởng của khí độc H
2
S.

5. Tảo tàn

Diễn biến: Khi tảo chết, xác tảo là nguồn thức ăn cho vi khuẩn và gây tiêu tốn nhiều ôxy.
Điều này góp phần gia tăng sự hình thành khí độc H
2
S và gây stress (sốc) cho tôm, khiến
tôm nhiễm độc nặng hơn.

Dấu hiệu: Giống trường hợp trời mưa.

Giải pháp: Khi tảo tàn, điều quan trọng là duy trì pH thông qua việc bón vôi (Ca(OH)
2

).
Giảm 30 - 50% lượng thức ăn liên tiếp trong 2 - 3 ngày. Các máy quạt nước cần được duy
trì hoạt động trong cả ngày, bởi vì lúc này máy quạt nước là nguồn duy nhất cung cấp
ôxy và xác tảo là nguyên nhân tiêu hao ôxy rất nhiều. Người nuôi nên bổ sung vi sinh
PondPlus® 1 kg/ 10.000 m
2
vào ao để góp phần phân hủy xác tảo (PondPlus® là vi sinh
phân hủy chất thải rất tốt và sử dụng ít ôxy).

6. Đáy ao bị xáo trộn

(Do lội ao thu tỉa tôm, lắp đặt sữa chữa máy quạt nước hoặc lội ao nhặt tôm chết ở đáy)

Diễn biến: Bình thường bề mặt của đống chất thải được tiếp xúc đủ ôxy nên tạo ra lớp
bùn sạch. Lớp này rất mỏng, có màu tương đối sáng, bao phủ bùn đen thiếu ôxy bên dưới
và hạn chế khí độc H
2
S ở bùn đen thoát lên. Nhưng khi lớp bề mặt này bị trốc ra, một
lượng lớn khí độc H
2
S đột ngột thoát vào nước. Những con tôm ở gần đó sẽ chết do bị
nhiễm bởi khí độc này.

Dấu hiệu: Tôm sẽ ăn rất ít vào cữ ăn buổi sáng hoặc các cữ ăn khác. Xác tôm chết sẽ
được tìm thấy sau 2 - 3 ngày.

Giải pháp:Người nuôi không nên khuấy động đống chất thải ở đáy ao, bởi vì một khi một
lượng lớn khí độc H
2
S khuyếch tán vào nước thì khó có thể cứu vãn được. Tôm sẽ bị ảnh

hưởng ngay lập tức và việc điều trị lúc này trở nên tốn kém. Cách tốt nhất mà người nuôi
có thể làm là cố gắng kiểm soát pH nước (bón vôi), cắt giảm thức ăn (60 - 70%), tăng
cường quạt nước tối đa để cung cấp ôxy và ngay lập tức đưa vi sinh PondDtox® 2 kg/
10.000 m2 xuống ao.


7. Rút đáy, si-phông hoặc thay nước ao

Diễn biến: Khi rút đáy hay si phông, lớp màng mỏng bao bọc đống chất thải (để ngăn khí
độc H
2
S thoát ra) sẽ bị vỡ và bị gây xáo trộn. Ngay lập tức người nuôi có thể ngửi thấy
mùi trứng thối. Một lượng lớn khí độc H
2
S sẽ phân tán vào nước ao. Nếu pH nước thấp,
khí H
2
S sẽ gây độc mạnh đến tôm nuôi.

Dấu hiệu: Tôm bỏ ăn trong 1 hoặc 2 cữ. Phát hiện một số tôm chết.

Giải pháp: Khi thực sự cần thiết làm sạch đáy ao lúc tôm lớn, người nuôi chú ý không
nên khuấy động bề mặt của đống chất thải quá mạnh. Nếu tất cả các máy quạt nước được
lắp đặt đúng vị trí ngay khi bắt đầu vụ nuôi, dòng chảy sẽ gom tụ đống chất thải nhỏ lại,
và ít có vấn đề xấu xảy ra. Ngoài ra, nếu sử dụng vi sinh sẽ giúp cho quá trình phân hủy
chất thải diễn ra nhanh và duy trì lượng ôxy hòa tan trong nước ở mức cao, dẫn đến ít
hình thành khí độc H
2
S. Trường hợp rút đáy hay si phông chất thải thì nên cẩn thận.


Trước khi rút đáy hay si phông, người nuôi nên bón vôi (Ca(OH)
2
hoặc CaCO
3
) để nâng
pH trên 8. Điều này làm cho khí độc H
2
S ít nguy hiểm đến tôm. Đồng thời, sử dụng
PondDtox® 2 kg/ 10.000 m
2
trước khi rút đáy hoặc si phông từ 1 - 2 ngày giúp dọn sạch
khí độc H
2
S.

8. Tôm lột xác

Diễn biến: Khi lột xác, tôm yếu và cần nhiều ôxy. Đây là giai đoạn khó khăn, tôm phải
tránh xa những con tôm khỏe hơn nên buộc phải ẩn nấp vào khu vực chất thải, nhưng
không may là khu vực này rất nghèo ôxy và chúng có thể bị ảnh hưởng bởi khí độc H
2
S.

Dấu hiệu: Sau khi lột xác, tôm bị mềm vỏ (cũng có thể do mất cân bằng khoáng), yếu, dễ
nhiễm bệnh và chết. Tôm màu sậm hoặc mất màu (nhợt nhạt) và không có thức ăn trong
đường ruột.

Giải pháp: Người nuôi nên cố gắng quản lý tốt chất lượng nước ao tại mọi thời điểm.
Tăng cường quạt nước để cung cấp đủ ôxy khi tôm đang trong giai đoạn lột xác. Máy
quạt nước cũng được lắp đặt đúng vị trí để tạo dòng chảy gom toàn bộ chất thải vào chính

giữa ao.

9. Ôxy giảm đột ngột

Diễn biến: Khí H
2
S là cực độc vì kết hợp rất mạnh với tế bào máu, khiến tôm không lấy
đủ lượng ôxy cần thiết. Cho dù trong nước thiếu ôxy với bất kỳ lý do nào, như tảo rớt đột
ngột, máy quạt nước bị hư, bầu trời nhiều mây đen trong thời gian dài, trời mưa lớn, nước
ao có phân tầng độ mặn sẽ làm tăng nguy cơ tôm bị ảnh hưởng bởi khí độc H
2
S.

Dấu hiệu: Tôm yếu và nhiễm bệnh không rõ nguyên nhân. Tôm giảm hoặc ngưng ăn và
trong trường hợp xấu nhất có thể chết.

Giải pháp: Tăng cường quạt nước cung cấp ôxy đầy đủ tại mọi thời điểm, đặc biệt khi
thiếu ánh sáng mặt trời, tảo tàn, trời mưa to, hoặc tôm đang lột xác; nếu có nguồn nước
sạch thì có thể thay. Kiểm tra hàm lượng ôxy trong ao thường xuyên hơn. Nếu nước ao
đổi màu, pH nên được điều chỉnh ở mức 7,8 - 8,3. Khí độc H
2
S sẽ trở nên nguy hiểm nếu
pH xuống gần 5.


×