Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Kỹ thuật sản xuất giống ngao Bến Tre pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 36 trang )

Tài liệu về kỹ thuật sản xuất giống ngao Bến Tre
(Meretrix lyrata Sowerby, 1851)






Chu Chí Thiết và Martin S Kumar


Tháng 4 – 2008









Phân viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản Bắc Trung Bộ (ARSINC)
Viện Nghiên cứu và Phát triển Nam Ausstralia (SARDI)











Kỹ thuật sản xuất giống ngao Bến Tre (Meretrix lyrata Sowerby, 1851)

Đây là kết quả của chương trình hợp tác nghiên cứu giữa Viện Nghiên cứu và Phát triển Nam
Australia (SARDI) và Phân Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản Bắc Trung Bộ (ARSINC).
Tài liệu này được viết cho mọi độc giả, đặc biệt là nông dân, các nhà nghiên cứu và sinh viên
ở Việt Nam.


Lời tựa
Các thông tin được sử dụng trong tài liệu này là một trong những kết quả nghiên cứu của dự
án “Phát triển nghề nuôi ngao nhằm cải thiện và đa dạng hoá sinh kế cho cộng đồng ngư dân
nghèo ven biển miền Trung Việt Nam, số hiệu dự án 027/05 – VIE”, thuộc chương trình
CARD (Hợp tác về Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam và tổ chức AusAID, Australia). Ngoài ra, nội dung của tài liệu còn có
tham khảo một số kết quả nghiên cứu của các tác giả và các tổ chức khác.

Tháng 4/2008

Chu Chí Thiết và Martin S Kumar


Phân Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản Bắc Trung Bộ (ARSINC)
Phường Nghi Hải
Thị Xã Cửa Lò,
Tỉnh Nghệ An,
Việt Nam



Viện Nghiên cứu và Phát triển Nam Australia (SARD)
Intergrated Biosystems Science Program Area
SARDI Livestock and Farming Systems
Aquatic Science Cetre
2 Hamra Avenue, West Beach
South Australia

Tài trợ bởi tổ chức AusAID, thuộc Chính phủ Australia











- 2 -
MỤC LỤC


Phần 1………………………………………………………………………………… 5
Giới thiệu…………………………………………………………………………… 5
1.1. Tính thực tế………………………………………………………………… … 5
1.2. Sinh học của ngao……………………………………………………………… 5
1.2.1. Hệ thống phân loại và giải phẫu học……………………………………… 6
Hệ thống phân loại…………………………………….……………………. 6
Giải phẫu trong…………………………………………………………… 6

Cấu tạo ngoài……………………………………………………………… 7
1.2.2. Sự phân bố của ngao…………………………………………………… … 8
1.2.3. Tính ăn…………………………………………………………………… 9
1.2.4. Sự phát triển của buồng trứng và sinh sản……………………………… 9
1.2.5. Sự phát triển của phôi và ấu trùng……………………………………… 9
Phần 2………………………………………………………………………………… 9
LỰA CHỌN VỊ TRÍ, CẤU TRÚC VÀ THIẾT KẾ TRẠI GIỐNG
2.1. Lựa chọn vị trí……………………………………………………………………. 11
2.1.1. Chất lượng nước……………………………………………………………. 11
2.1.2. Lựa chọn vị trí xây trại giống………………………………………………. 11
2.1.3. Các yêu cầu khác…………………………………………………………… 11
2.2. Thiết kế trại giống……………………………………………………………… 11
2.2.1. Công suất trại giống và kích thước bể……………………………………… 11
2.2.2. Hệ thống nước……………………………………………………………… 13
2.2.3. Các bộ phận của trại giống…………………………………………………. 14
2.2.3.1. Khu vực nuôi cấy tảo………………………………………………… 14
2.2.3.2. Khu vực nuôi vố và sinh sản…………………………………………. 14
2.2.3.3. Khu vực ương nuôi ấu trùng và con giống…………………………… 15
2.2.3.4. Các yêu cầu khác…………………………………………………… 15
Phần 3

HỆ THỐNG NUÔI CẤY TẢO
3.1. Giới thiệu………………………………………………………………………… 16
3.2. Quy trình lưu giữ giống và nuôi cấy tảo sinh khối ……………………………… 18
3.2.1. Xử lý nước…………………………………………………………………. 18
3.2.2. Phương pháp pha chế môi trường nuôi cấy tảo……………………………. 18
3.2.3. Định lượng tảo…………………………………………………………… 21
3.2.4. Lưu giữ tảo gốc và nhân tảo giống………………………………………… 21
3.2.4.1. Lưu giữ giống gốc……………………………………………………. 21
3.2.4.2. Cấy tảo giống cấp 2………………………………………………… 21

3.3. Nhân tảo giống giai đoạn trung gian…………………………………………… 22
3.4. Nuôi tảo sinh khối………………………………………………………………
23
Phần 4

VẬN HÀNH TRẠI GIỐNG: NUÔI VỖ NGAO BỐ MẸ, SINH SẢN VÀ THỤ TINH
4.1. Nuôi vỗ ngao bố mẹ …………………………………………………………… 25
4.1.1. Tổng quan …………………………………………………………………. 25
4.1.2. Phương pháp nuôi vỗ………………………………………………………. 26

- 3 -
4.1.3. Kỹ thuật sinh sản…………………………………………………………… 28
4.1.4. Sự thụ tinh………………………………………………………………… 29
Phần 5

VẬN HÀNH TRẠI GIỐNG: PHƯƠNG PHÁP ƯƠNG NUÔI ẤU TRÙNG, THU
VÀ ƯƠNG ẤU TRÙNG SỐNG ĐÁY

5.1. Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng…………………………………………………… 30
5.1.1. Thay nước và vệ sinh ấu trùng…………………………………………… 30
5.1.2. Thức ăn và chế độ cho ăn………………………………………………… 31
5.1.3. Định lượng ấu trùng……………………………………………………… 32
5.1.4. Sự tăng trưởng của ấu trùng……………………………………………… 32
5.1.5. Thu ấu trùng xuống đáy và ương con giống spat………………………… 32
5.2. Quản lý trại giống……………………………………………………………… 33
5.2.1. Hệ thống bể sản xuất……………………………………………………… 34
5.2.2. Hệ thống xử lý nước cần thiết để bảo đảm chất lượng và tạo nguồn nước
luôn được chủ động về chất lượng và số lượng……………………………

35

5.2.3. Quản lý chất lượng con bố mẹ…………………………………………… 35
5.2.4. Duy trì số lượng và chất lượng tảo…………………………………………. 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………… 36






























- 4 -
Phần 1

Giới thiệu
1.1.Tính thực tế
Ngao Bến Tre (Meretrix lyrata) là một trong những đối tượng thuỷ sản có giá trị cao
ở Việt Nam. Ở phía Nam, vùng thực tế khai thác và phân bố tự nhiên của ngao khoảng
12.000 ha kéo dài dọc theo vùng ven biển từ huyện Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh) tới
Cà Mau, tập trung nhất là vùng ven biển thuộc tỉnh Tiền Giang, Bến Tre và Trà Vinh.
Năm 1998, các nông dân thuộc tỉnh Nam Định đã thử nghiệm chuyển ngao giống từ
Bến Tre ra nuôi ở những vùng bãi triều và thu được kết quả tốt. Thành công của việc di
chuyển này tạo nên sự mở rộng vùng nuôi đối tượng này ra miền Bắc như: Quảng Ninh, Hải
Phòng, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Hiện nay, ngao M. lyrata trở thành đối
tượng nuôi chính ở các tỉnh này. Nguồn ngao giống phục vụ cho nghề nuôi đang dựa vào tự
nhiên, bởi vì chưa có trại sản xuất ngao giống nào ở Việt Nam trước khi dự án này được thực
hiện. Công nghệ sản xuất ngao giống (sản xuất thương mại) chưa được chú trọngở Việt Nam.
Một mục tiêu của dự án này là phát triển công nghệ sản xuất ngao giống và chuẩn bị tài liệu
sản xuất giống theo quy mô sản xuất thương mại.
Dựa vào yêu cầu đầu ra sản phẩm của dự án, công nghệ sản xuất giống ngao được
trình bày theo các nội dung dưới đây:
• Cấu trúc và thiết kế trại giống
• Sự chọn lựa ngao bố mẹ và nuôi vỗ
• Yêu cầu và thức ăn, bao gồm cả việc sản xuất thức ăn tươi sống
• Kỹ thuật sinh sản
• Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng và thu ấu trùng xuống đáy
• Quản lý trại giống



















- 5 -
1.2. Đặc điểm sinh học của ngao
1.2.1. Hệ thống phân loại và giải phẫu học
Ngao Bến Tre Meretrix lyrata (Sowerby, 1851), có tên khác là Lyrate Asiatic, phân
bố phía Tây Thái Bình Dương, từ Đài Loan đến Việt Nam. Ngao có hình giáng giống tam
giác với hai vỏ đều nhau, bản lề nằm ở mặt lưng, vỏ mở ở mặt bụng. Gờ tăng trưởng phía
trước vỏ thô và sâu, ở phía sau vỏ mịn hơn. Vết cơ khép vỏ trước nhỏ, hình bán nguyệt, vết
cơ khép vỏ phía sau lớn hơn, hình mặt nguyệt. Màu sắc của vỏ phía ngoài vàng nhạt, màu
trắng sữa hoặc màu nâu, phía trong có màu trắng.
Hệ thống phân loại
Theo Habe, Sadao (1966) và Nguyễn Chính (1996), hệ thống phân loại của ngao như sau:
Ngành: Mollusca
Lớp: Hai mảnh vỏ (Bivalvia)
Bộ: Heterodonta

Họ: Veneridae
Giống: Meretrix
Loài: Meretrix lyrata (Sowerby, 1851)

Hình 1: Ngao Bến Tre (Meretrix lyrata, Sowerby 1851)

Cấu tạo ngoài
Cấu tạo giải phẫu của ngao nói chung được Michael M. Helm nghiên cứu đầy đủ năm
2004. Ngao được cấu tạo bở hai vỏ đều nhau. Vỏ chủ yếu được tạo thành từ 3 lớp calcium
carbonate: trong cùng là lớp xà cừ, ở giữa là có hình lăng trụ, tán sắc, là thành phần chính cấu
tạo nên vỏ, ngoài cùng là lớp sừng (/iostracum layer), lớp áo màu nâu, nó thường xuyên bị
biến mất do bị bào mòn hoặc thời tiết (hình 1&2)

- 6 -


Hình 2: Đặc điểm cấu tạo trong của hai vỏ ngao

Ngao không có phần đầu và đuôi rõ ràng, tuy nhiên, trong hệ thống phân loại có thể
dùng các thuật ngữ giống như các động vật khác để mô tả. Vùng đỉnh vỏ, vị trí để hai vỏ
khớp với nhau gọi là mặt lưng của động vật, phía đối diện là vùng mép bụng. Ngao có hai
ống siphon rõ ràng, chân ở phía trước, vị trí đối diện và hai ống siphon ở vùng phía sau.
Cấu tạo trong

Hình 3: Cấu tạo trong của ngao

Màng áo: phần thịt mềm của ngao được bao bọc bởi màng áo, nó được cấu tạo bao
bọc bởi hai lớp cơ mỏng, dày nhất là phần rìa (hình 3). Hai nửa của màng áo được đính vào
vỏ từ vùng lưng tới đường mép áo, nhưng tự do ở phần mép áo. Phần dày của mép áo có
hoặc không có sắc tố và có 3 nếp gấp.

Chức năng chính của màng áo là tiết ra vỏ, tuy nhiên chúng còn có chức năng khác nữa,
đó là chức năng cảm giác và có thể điều khiển việc đóng kín vỏ khi gặp điều kiện bất lợi về môi
trường. Ngoài ra, màng áo còn có thể điều khiển lượng nước vào xoang cơ thể và hô hấp.

- 7 -
Cơ khép vỏ: có hai vị trí đính cơ khép vỏ nằm ở gần vùng trước và sau của vỏ. Cơ
khép vỏ có vai trò ngược lại với dây chằng và bản lề, chúng làm mở vỏ, trong khi cơ được
nghỉ ngơi.
Mang: các mang nổi lên là đặc điểm chính của phân lớp mang tấm (lamellibranches),
lá mang rộng, đóng vai trò vừa là cơ quan thực hiện chức năng hô hấp, vừa lọc thức ăn trong
nước. Hai phần của mang (lá mang) nằm ở hai bên của cơ thể, vị trí cuối cùng ở phía trước,
hai bên nắp, xung quanh miệng và chuyển thức ăn trức tiếp vào miệng.
Chân: Ngao có cấu tạo một chân phát triển, chức năng để đào xuống nền đáy và cố
định cơ thể vào trong nền đáy. Đây là đặc điểm đặc trưng của loài, bởi vì ở các loài khác:
scallop, vẹm, hàu… chân bị tiêu giảm hoặc có thể có ít chức năng.
Hệ thống tiêu hoá: Hệ thống mang lớn lọc thức ăn từ nước rồi chuyển thẳng tới xúc
tu, nằm ở xung quang miệng, thức ăn được làm mềm rồi chuyển vào trong miệng. Ngao có
thể lựa chọn, lọc thức ăn trong nước, viên và nén thức ăn với chất nhầy, đưa vào miệng rồi
được đẩy ra vùng xúc tu và thải ra khỏi cơ thể giống như “phân giả” (pseudofaeces). Một ống
thực quản ngắn dẫn từ miệng tới dạ dày, nơi phình ra dạng túi rộng với một vài chỗ mở. Dạ
dày được bao quanh toàn bộ bởi tuyến tiêu hoá, một lớp cơ màu tối gọi là gan. Một đường
dẫn từ dạ dày tới đám ruột, kéo dài tới chân, cuối cùng là ruột thẳng và kết thúc ở hậu môn.
Một đường dẫn khác từ dạ dày tới một túi kín, giống như ống sạch, trong như pha lê, chứa
các màng nhầy protêin, tiết ra các enzym tiêu hoá để chuyển hoá tinh bột thành đường có thể
tiêu hoá được.
Hệ thống tuần hoàn: nhóm hai mảnh vỏ có hệ thống tuần hoàn thông thường, khó
mô tả. Tim nằm ở một túi trong suốt, màng ngoài tim gần với cơ khép vỏ. Tim có hai ngăn
không đều nhau: tâm thất và tâm nhĩ. Các động mạch chủ trước và động mạch chủ sau xuất
phát từ tâm thất vận chuyển máu tới các cơ quan trong cơ thể. Hệ thống thần kinh là một
chuỗi xoang bao mỏng, không rõ ràng dẫn máu trở về tim.

1.2.2. Sự phân bố của ngao
Ngao M. lyrata là loài động vật thâm mềm nhiệt đới, phân bố ở vùng có biên độ dao động
về độ muối (0 – 34
0
/
00
) và nhiệt độ (15 – 32
0
C) cao. Chúng phân bố tự nhiên ở vùng triều, từ
vùng cao triều tới vùng triều dưới, nơi có nền đáy là cát và cát pha bùn (20% bùn và 80% cát).
Hình 4. Ở Việt Nam, ngao thường phân bố nhiều ở vùng ven biển phía Nam, bao gồm các tỉnh:
Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau (Phụng H, N, 1999).

Hình 4: vùng nuôi ngao Bến Tre ở Thanh Hoá

- 8 -
1.2.3. Tập tính ăn của ngao
Động vật thâm mềm hai mảnh vỏ nói chung sử dụng các loài tảo kích thước hiển vi,
vi khuẩn, protozoa và các hạt hữu cơ có kích thước nhỏ hơn 150 μm. (Newkirk, 1989). Theo
Trương Quốc Phú (2000) có 44 loài tảo, chiếm 93,18% thuộc ngành Bacilariophyta và các
loài còn lại thuộc ngành Pyrophyta và Cyanophyta.
1.2.4. Sự phát triển của hệ thống tuyến sinh dục và sinh sản
Ngao Bến Tre (M. lyrata) là loài phân tính, nhưng không phân biệt được cá thể đực
cái thông qua hình dáng ngoài. Có một tỷ lệ nhỏ ngao trong quần thể phát hiện là lưỡng tính.
Tuyến sinh dục chỉ phát triển mạnh trong mùa vụ sinh sản. Xác định giới tính của ngao chỉ
có thể được phân biệt sau khi mở vỏ bằng mắt ở giai đoạn thành thục thông qua màu sắc,
ngao đực có màu sắc trắng sữa, ngao cái có màu vàng nhạt. Tuy nhiên, kiểm tra bằng kính
hiển vi mới có thể khẳng định chính xác giới tính của ngao.
Sự thành thục sinh dục của ngao tuỳ thuộc vào độ tuổi, kích thước và địa lý phân bố.
Sản lượng trứng, tinh trùng và sự hình thành giao tử liên quan đến kích thước của ngao, nhiệt

độ nước, số lượng và chất lượng thức ăn, đặc biệt quan trọng trong thời kỳ ban đầu của quá
trình này.
Ngao đạt kích thước 500mg sẽ bắt đầu thành thục sinh dục và sau 12 tháng nuôi có
thể tham gia sinh sản lần đầu. Mùa vụ sinh sản tự nhiên của ngao diện ra vào thời gian cuối
mùa Xuân tới hết mùa Hè (từ tháng Tư đến tháng Chín). Theo Quayle và Newkirk (1989)
việc thay đổi một vài yếu tố môi trường như nhiệt độ nước, độ mặn sẽ kích thích sự chín sinh
dục của các loài nhuyễn thể nói chung, trong đó có ngao. Vào mùa Xuân, khi nhiệt độ nước
bắt đầu ấm dần lên, nó kích thích sự phát triển của buồng trứng.
1.2.5. Sự phát triển của phôi và ấu trùng
Theo Micheal và nnk (2004), trứng trải qua thời kỳ phân chia giảm phân sau khi thụ
tinh hình thành hợp tử. Cực động vật xuất hiện, tế bào bắt đầu phân chia trong vòng 30 phút
sau khi thụ tinh.

Hình 5: Các giai đoạn phát triển của ngao M. lyrata

- 9 -
Trứng và tinh trùng được phóng ra từ ngao bố mẹ vào trong nước. Thông thường,
trong một quần thể, ngao đực phóng tinh trước, nó đóng vai trò giống hormon kích thích sự
rụng trứng của ngao cái. Thời gian thụ tinh tiến hành trong nước, ngoài cơ thể động vật. Phôi
xuất hiện sau 30 phút sau khi thụ tinh, phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường xung quanh. Phân
chia tế bào được tiến hành trong thời gian 24 giờ trước khi chuyển sang giai đoạn ấu trùng
chữ “D” - đỉnh vỏ thẳng. Ấu trùng ngao trai qua giai đoạn phù du (giai đoạn bơi tự do)
khoảng 8 đến 10 ngày, phụ thuộc vào nguồn thức ăn và nhiệt độ nước, trở thành ấu trùng
xuống đáy. Sự phát triển của ấu trùng được mô tả ở hình 5.





























- 10 -
Phần 2
LỰA CHỌN VỊ TRÍ, CẤU TRÚC VÀ THIẾT KẾ TRẠI GIỐNG

2.1. Lựa chọn vị trí
2.1.1. Chất lượng nước
Các yếu tố môi trường nước dựa vào vùng địa lý. Ấu trùng ngao, cũng như ngao
trưởng thành và ngao bố mẹ có các yêu cầu khắt khe về sinh lý, sinh thái học như nhiệt độ

nước, độ mặn và hàm lượng ôxy hoà tan trong nước, những yếu tố này phải được duy trì
trong quá trình vận hành trại giống. Nhiệt độ nước trong trại sản xuất không được quá thấp,
sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng và con trưởng thành. Độ mặn
có thể giao động mạnh và ngưỡng chịu đựng khác nhau theo từng loài. Ngao Bến Tre có thể
chịu đựng ở biên độ dao động muối rộng hơn.
Mật độ dày đặc của một vài loài tảo độc và vi khuẩn có thể tiết ra các loại độc tố là
nguyên nhân có thể làm giảm cả tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ngao, hoặc là
nguyên nhân gây chết đại trà.
2.1.2. Lựa chọn vị trí xây dựng trại
Dựa vào các đặc điểm sinh học, sự phân bố của loài: ngao Bến Tre (Meretrix lyrata)
được tìm thấy ở vùng bãi triều cửa sông ven biển, nơi có sự biến động mạng về độ muối.
Ngao trưởng thành và ấu trùng có thể phát triển trong cùng điều kiện tự nhiên như nhau. Qua
đó, trại giống nên được xây dựng gần với vùng cửa sông, với khoảng cách phù hợp để bơm
được nước vào trại giống. Hơn nữa, nguồn nước ngọt và nước mặn phải được bảo đảm và
thuận tiện cho việc sử dụng. Trại giống phải được cách ly khỏi các nguồn gây ô nhiễm như: chất
thải công nghiệp, chất thải từ hoạt động canh tác nông nghiệp. Một yêu cầu nữa là vị trí xây trại
phải đáp ứng được các yêu cầu về hậu cần, xây dựng và có thể mở rộng được khi cần thiết.
2.1.3. Các yêu cầu khác
Trại sản xuất nền được xây dựng ở vị trí thuận tiện về cơ sở hạ tầng, giao thông đi lại,
nguồn điện…, để thuận tiện trong việc vận hành trại và giao dịch.
2.2. Thiết kế trại giống
2.2.1. Công suất trại và kích thước bể sản xuất
Trại sản xuất được thiết kế dựa theo hai nguyên tắc: 1) vận hành phải được tiến hành
dễ dàng, thuận tiện, phù hợp với đối tượng sản xuất và 2) trại giống phải thể hiện tính linh
hoạt trong thiết kế, quy hoạch để có thể mở rộng được khi cần thiết để đáp ứng được yêu cầu
về con giống cần thiết.
Dựa vào nhu cầu con giống của thị trường, quy mô trại giống cần thiết được quyết
định phù hợp với năng lực sản xuất con giống. Nhu cầu con giống cần sản xuất là cơ sở để
tính toán cơ sở hạ tầng, thiết bị của trại giống, như: số lượng bể đẻ, bể ương, trang thiết bị,
công nghệ sản xuất tảo sinh khối, kích thước, kiểu dáng bể và các thiết bị cần thiết khác cho

việc vận hành trại sản xuất.

- 11 -
Cơ sở để tính toán công suất bể là: tỷ lệ sống của ấu trùng ngao từ giai đoạn ấu trùng
đỉnh vỏ thẳng (chữ D) đến giai đoạn xuống đáy là 5%, giai đoạn này ấu trùng bơi lội tự do
nên hình dáng bể được chú ý để thể tích sử dụng được nhiều nhất, mật độ ương từ 5 đến 15
ấu trùng/ml. Thông thường, bể ương ấu trùng nhuyễn thể nói chung ở giai đoạn bơi tự do,
hình dáng bể là hình trụ, thể tích từ 3000l đến 20.000l.
Ấu trùng ở giai đoạn sống đáy, chúng thay đổi môi trường và tập tính sống, nền đáy
là nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và tỷ lệ sống của chúng. Do đó, đối với giai đoạn này,
bể nên được thiết kế hình chữ nhật để tăng diện tích đáy, thể tích từ 3000l đến 5000l, vật liệu
có thể là xi măng hoặc composite (hình 6).

Hình 6: Hình ảnh về cơ sở hạ tầng, thiết bị của trại sản xuất giống tại Phân viện Bắc Trung Bộ: a - hệ
thống bể nuôi và ương ấu trùng, b- bể chứa, c- bể ương nuôi ấu trùng và d- ao gây màu nước làm thức
ăn cho ngao ở giai đoạn spat.
Số lượng bể nuôi vỗ ngao bố mẹ, bể đẻ và kích thước bể ương nuôi ấu trùng được
tính toán ở bảng 1- tính theo cơ sở mật độ ấu trùng 7/ml, mật độ ấu trùng xuống đáy 5/ml.
Tuy nhiên, tính toán công suất trại chỉ mới dựa vào số liệu của một mẻ sản xuất. Trại sản
xuất giống có thể được vận hành ít nhất 5 mẻ/năm, vì vậy số lượng ngao spat cần thiết cho
sản xuất sẽ được xem xét trong cả năm trên cơ sở tính toán.
Bảng 1: Tính toán công suất bể sản xuất, ương nuôi ấu trùng ngao (tính trên 1 mẻ)
Thể tích bể thu ấu
trùng xuống đáy (lít)
Thể tích bể ương ấu
trùng (lít)
Số lượng con giống
(triệu con)
4.000 30.000 10.
20.000 150.000 50.

40.000 300.000 100.

- 12 -
2.2.2 Hệ thống nước
Chất lượng nước phải bảo đảm và liên tục, vì thế nguồn nước phải được chủ động và
có xuất xứ rõ ràng. Nước được bơm từ sông trực tiếp vào ao/bể lắng trong vòng 4 ngày để
phù sa, các chất lơ lửng và vi khuẩn được lắng đọng. Sau đó, nước được bơm vào bể chứa
qua hệ thống lọc cát. Hệ thống lọc cát này có thể loại bỏ được các chất bản dạng hạt, trầm
tích và các sinh vật khác có kích thước lớn hơn 20 – 40µm, mà chúng có thể gây hại trực tiếp
cho động vật nuôi, hoặc bám vào đường ống dẫn nước, gây ô nhiễm nước, tiết chất độc. Sau
khi được lọc qua hệ thống lọc cát, nước tiếp tục được lọc qua hệ thống lọc bằng lõi bông,
kích thước từ 0,2 đến 5 µm, tuy thuộc vào nhu cầu làm sạch của nước ở từng khu vực sử
dụng trong trại giống. Công suất bơm nước, kích thước đường ống liên quan đến quy mô của
một trại sản xuất.
Nguồn nước sau khi được bơm từ biển/song vào trại, để lắng trong bể lắng ít nhất 4 ngày,
sẽ được chia thành 2 nguồn sử dụng với yêu cầu lõi lọc bông khác nhau, để bảo đảm nước đã
được sử dụng triệt để theo yêu cầu đề ra. Như vậy, nước từ bể lắng sẽ được cung cấp tới: 1) ao
gây nuôi thức ăn tự nhiên (không qua lọc); 2) lọc qua hệ thống lọc cát, đi vào bể chứa. Từ bể
chứa, nước được đưa vào phòng lưu giữ và sản xuất tảo qua hệ thống lọc bông 0,2 – 5 µm; và
vào bể sản xuất (nuôi vỗ ngao bố mẹ, ương ấu trùng) qua hệ thống lọc từ 2 – 5 µm.

Hình 7: Hệ thống lọc cát (trái) và hệ thống lọc bông (phải)

Nguồn nước ngọt cũng được xem là một yêu cầu quan trọng trong trại sản xuất
nhuyễn thể. Nó cần thiết trong việc vệ sinh bể, dụng cụ, thiết bị và cho ấu trùng đặc biệt là
giai đoạn xuống đáy. Tuy nhiên, nước ngọt cũng phải được xử lý, loại bỏ khí độc, kim loại
bằng việc lọc và cho bay hơi.


- 13 -

2.2.3. Các bộ phận trong trại sản xuất
Xem xét thận trọng việc thiết kế trại sản xuất giống, bảo đảm vệ sinh, khô ráo và
thuận tiện trong sử dụng, vận hành. Toàn bộ khu vực trại phải thuận tiện trong việc vệ sinh,
tẩy trùng khô ráo, bể ương nuôi có thể được làm từ xi măng vì giá thành rẻ hơn các loại vật
liệu khác, nhưng bề mặt đáy, thành bể phải được xử lý nhẵn, thoát nước dễ dàng.
Trại sản xuất có một nơi nằm ở trung tâm, mà từ đây có thể liên quan, điều phối với
các bộ phận khác. Các bộ phận trong trại sản xuất là: phòng lưu giữ và sản xuất tảo, phòng
nuôi vỗ con bố mẹ, sinh sản, ương nuôi ấu trùng và ương nuôi con giống spat (hình 8).

Hình 8: Cấu trúc của trại sản xuất giống: 1- hệ thống bể ương nuôi ấu trùng giai đoạn bơi tự do, 2- bể
hình chữ nhật ương ấu trùng giai đoạn xuống đáy, 3- phòng lưu giữ tảo giống, 4- phòng nuôi tảo cấp
2, 5- phòng nuôi vỗ con bố mẹ, 6- kho chứa đồ, dụng cụ và 7- khu vực nuôi tảo sinh khối.

2.2.3.1. Trang thiết bị sản xuất tảo
Sản xuất tảo (thức ăn) là khâu quan trọng đầu tiên trong sản xuất giống nhuyễn thể.
Thành công trong việc sản xuất sinh khối tảo sẽ quyết định đến sự thành công của sản xuất
giống. Bắt đầu cho một mẻ sản xuất, số lượng và chất lượng tảo phải được chuẩn bị sẵn sàng,
đáp ứng được yêu cầu. Để thuận tiện hơn trong vận hành trại giống, vị trí nuôi cấy tảo nên
sắp xếp ở trung tâm của trại. Nhu cầu về không gian, trang thiết bị tuỳ thuộc vào công suất
của trại giống và công nghệ sản xuất được sử dụng.
Đối với trại giống nhuyễn thể, nơi sản xuất tảo được thiết lập ở cả trong nhà (sử dụng
ánh sáng nhân tạo) và ngoài trời (sử dụng ánh sáng tự nhiên). Yêu cầu một phòng nhỏ, ánh
sáng nhân tạo, ổn định nhiệt độ (22-24
0
C), cung cấp CO
2
để lưu giữ tảo giống và san cấy tảo
cấp 2.
Tảo được nhân từ bình lưu giữ tới thể tích 4l và túi plastic 20l dưới điều kiện ánh
sáng nhân tạo (đèn huỳnh quang) và bổ sung khí CO

2
. Quy trình sản xuất tảo được mô tả chi
tiết ở phần 3.
2.2.3.2. Khu vực nuôi vỗ và sinh sản ngao
Kích thước và thể tích của bể nuôi vỗ con bố mẹ cũng được tính toán trên dựa trên cơ
sở nhu cầu con giống cần sau mỗi đợt sản xuất. Tính toán về công suất bể được trình bày ở
bảng 2. Trang thiết bị yêu cầu cho công đoạn này bao gồm: nguồn nước ngọt và mặn, thiết bị
nâng nhiệt, bể nuôi vỗ và cho sinh sản. Phương pháp nuôi vỗ và kích thích sinh sản được
trình bày ở phần 4 của tài liệu này.

- 14 -
Hệ thống nuôi vỗ ngao bố mẹ là một hệ thống tuần hoàn với thiết bị làm lạnh, giữ
nhiệt độ luôn ổn định ở 26
0
C (±0,5
0
C). Tốc độ dòng chảy được tạo ra trong hệ thống ở lưu
tốc 25ml/giây/cá thể. Mật độ ngao bố mẹ được nuôi vỗ là 145 con/bể (200l), nhưng không
quá 5kg trọng lượng tươi/bể.
Bảng 2: Kích thước bể nuôi và số lượng ngao nuôi
Thể tích bể nuôi ấu
trùng (lít)
Số lượng ngao bố
mẹ (kg)
Số lượng con giống
(triệu con)
800 20 10.
4.000 100 50.
7.500 190 100.
Bảng 2 chỉ ra tính toán số lượng ngao bố mẹ và kích thước bể bố mẹ cần thiết để nuôi vỗ. Cơ sở để

tính toán là bình quân 1 con ngao bố mẹ có thể sinh sản được 2 triệu trứng; có khoảng 2% số trứng
thụ tinh chuyển thành ngao ở giai đoạn spat. Mật độ ngao bố mẹ được nuôi vỗ là 5kg/200L.

2.2.3.3. Ương nuôi ấu trùng và con giống
Thông thường, bể ương nuôi ấu trùng được làm bằng chất liệu là sợi thuỷ tinh hoặc xi
măng, và có thể để khô ráo khi cần thiết. Thể tích bể ương nên thiết kế từ 3000 l đến 5000 l,
số lượng bể tuỳ thuộc vào công suất của trại. Cơ sở để tính toán công suất trại giống được
dựa trên tỷ lệ sống của ấu trùng. Đối với loài ngao Meretrix lyrata, tỷ lệ sống cho tính toán
được xác định là 5%, từ giai đoạn ấu trùng chữ “D” tới giai đoạn con giống.
Khi ấu trùng đạt đến giai đoạn xuất hiện chân bò, biến thái, chúng được chuyển qua
hệ thống mới, bể hình chữ nhật, để tiếp tục được theo dõi, chăm sóc, gọi là giai đoạn thu và
ương nuôi ấu trùng sống đáy. Hệ thống thu và ương ấu trùng ngao xuống đáy bao gồm các
rây hình trụ, đường kính 45 cm, cao 30 cm, được lắp đặt trong bể hình chữ nhật, thể tích
2000 l. Mỗi bể được lắp 10 rây, một cái bơm chìm có tác dụng bơm nước cùng với tảo vào
các rây để vùa cung cấp thức ăn cho ấu trùng, vừa tạo dòng chảy, tăng ôxy hoà tan cho
chúng. Nguồn thức ăn bổ sung vào hệ thống ương được bơm từ ao đất ngoài trời, đã được
mầu nước, tạo thức ăn. Hệ thống ương này phục vụ cho cả hai mục đích là giúp cho ngao
giống làm quen dần với điều kiện tự nhiên trước khi đem nuôi và góp phần làm giảm áp lực
tảo làm thức ăn cho con giống, nên giảm giá thành sản xuất.
2.2.3.4. Các yêu cầu khác
Trại sản xuất nên lưu ý phải có nơi để cất giữ các thiết bị và máy móc cần thiết (kho chứa),
như: máy bơm nước, máy sục khí, hệ thống lọc nước…









- 15 -
Phần 3
HỆ THỐNG NUÔI CẤY TẢO

3.1. Giới thiệu
Các loài tảo biển đơn bào được sản xuất làm thức ăn cho hầu hết các giai đoạn sản
xuất con giống nhuyễn thể. Các loài tảo kích thước hiển vi thuộc các loài tảo roi và silicate là
thức ăn đầu tiên trong chuỗi thức ăn ở biển.
Bảng 3: Các lớp chính và các loài vi tảo thông thường được dùng trong nuôi trồng
thuỷ sản (De Pauw and Persoone, 1988)
Lớp Giống Đối tượng được sử dụng
Skeletonema
PL, BL, BP
Thalassiosira
PL, BL, BP
Phaeodactylum
PL, BL, BP, ML, BS
Chaetoceros
PL, BL, BP, BS
Cylindrotheca
PL
Bellerochea
BP
Actinocyclus
BP
Nitzchia
BS
Bacillariophyceae
Cyclotella
BS

Isochrysis
PL, BL, BP, ML, BS
Pseudoisochrysis
BL, BP, ML
Haptophyceae
Dicrateria
BP
Chrysophyceae
Monochrysis (Pavlova)
BL, BP, BS, MR
Tetraselmis (Platymonas)
PL, BL, BP, AL, BS, MR
Pyramimonas
BL, BP
Prasinophyceae
Micromonas
BP
Chroomonas
BP
Cryptomonas
BP
Cryptophyceae
Rhodomonas
BL, BP
Cryptophyceae Chlamydomonas chlorococcum BL, BP, FZ, MR, BS BP
Xanthophyceae
Olisthodiscus
BP
Carteria
BP Chlorophyceae

Dunaliella
BP, BS, MR
Cyanophyceae
Spirulina
PL, BP, BS, MR
PL, ấu trùng tôm penaeid;
BL, ấu trùng nhuyễn thể hai vỏ
ML, ấu trùng tôm nước ngọt;
BP, hậu ấu trùng nhuyễn thể hai vỏ;

AL, ấu trùng bao ngư;
MR, rotifer nước mặn (Brachionus);
BS, tôm nước mặn (Artemia);
SC,copepoda nước lợ;
FZ, động vật phù du nước ngọt

Đối với việc nuôi ấu trùng ngao và sản xuất thức ăn cho chúng, thì nguồn nước đòi
hỏi phải bảo đảm chất lượng, vì thế nó phải được xử lý trước khi sử dụng, loại bỏ được các
loài động, thực vật phu sống tự do trong môi trường tự nhiên. Nguồn thức ăn (tảo) sẽ được

- 16 -
sản xuất và cung cấp đầy đủ về thành phần, số lượng và kịp thời trong quá trình sản xuất.
Đây là nhu cầu tất yếu, là chìa khoá thành công đối với một mẻ sản xuất giống.
Quy trình sản xuất tảo được thực hiện qua các bước dưới đây (Hình 9)

Nhân giống
cấp 2
Nuôi sinh
khối
Lưu giữ

giống gốc
Nhân giống
cấp 1
5 ngày
5 ngày
3 ngày
5 ngày
5 ngày
23 ngày
Hình 9: các bước thực hiện trong quá trình sản xuất tảo sinh khối


Dung dịch giống tảo gốc (100 ml) được lưu giữ dưới điều kiện nhiệt độ ổn định
(18
0
C) và ánh sáng nhân tạo trong thời gian 5 ngày sau đó được sử dụng như là dung dịch
ban đầu để cấy ở môi trường thể tích rộng lớn hơn. Ở giai đoạn này, chưa cần phải cung cấp
bổ sung khí và CO
2
, mà chỉ lắc đều 2 lần mỗi ngày. Thời gian 5 ngày kế tiếp, tảo được san
cấy từ bình chứa giống gốc sang bình thể tích 1 l (tạo giống cấp 1), ở nhiệt độ cao hơn (20 –
22
0
C), sục khí thường xuyên với việc định kỳ bổ sung khí CO
2
. 3 ngày tiếp theo, khoảng
20% tảo từ bình nhân giống cấp 1 được chuyển tới bình có thể tích lớn hơn (2- 20 l), gọi là
giai đoạn trung gian (intermediate scale) 80% lượng còn lại tiếp tục được duy trì ở bình 1 l.
Gian đoạn trung gian được duy trì trong thời gian 5 ngày có thể được thu làm thức ăn cho vật
nuôi, hoặc sử dụng làm nguồn giống để nuôi sinh khối ở quy mô lớn hơn, tối thiểu là 150 l.

Theo Micheal M. Helm (2004), việc cần thiết phải nuôi cấy vi tảo là vì lượng thực vật
phù du trong tự nhiên có trong nước dùng trong trại sản xuất không đủ để cung cấp cho sự
phát triển ở mật độ cao đối với ấu trùng và con giống trong quá trình ương nuôi. Đặc biệt
trong ương nuôi ấu trùng, việc sử lý nước cũng đã loại bỏ hầu hết các loài tảo cần thiết, vì
vậy, cần phải bổ sung các loài tảo từ nuôi trồng có giá trị dinh dưỡng cao.
Các trại sản xuất đều có sự lựa chọn trong việc sản xuất sinh khối tảo đó là: nuôi sinh
khối trong nhà ở quy mô thâm canh bằng việc sử dụng nguồn ánh sáng nhân tạo và nuôi cấy
quảng canh ngoài trời, bằng việc sử dụng các bể có thể tích lớn, hoặc ao hồ, bổ sung dinh
dưỡng bằng việc bón phân, sử dụng ánh sáng tự nhiên.
Các bước sản xuất tảo ở hình 9 chỉ ra rằng: lưu giữ tảo gốc ở thể tích 250 ml hoặc nhỏ
hơn, duy trì dưới ánh sáng nhân tạo và ổn định nhiệt độ ở mức thấp (<18
0
C) và được sử dụng
để nhân giống cấp 1 khi cần thiết, giai đoạn này không cần phải sục khí và bổ sung khí CO
2
.
Ở giai đoạn nhân giống cấp 1, từ 250 ml tới 4 l, chúng phát triển rất nhanh trong từ 7 đến 14

- 17 -
ngày ở điều kiện nhiệt độ cao hơn, ánh sáng với cường độ mạnh hơn. Phần lớn dung dịch tảo
từ giai đoạn này sẽ được sử dụng để nuôi cấy ở giai đoạn 2 (trung gian) với thể tích 4 – 20 l)
và có thể sử dụng trực tiếp hoặc dùng để nhân ở thể tích lớn hơn (150 l – 3000 l)
Mô hình nuôi cấy tảo được chỉ ra trong hình 10. Nước được sử lý lần hai hay không
tuỳ thuộc vào kích thước của lõi lọc hoặc phương pháp nuôi cấy.

Hệ thống lọc (cát và
lọc bông < 2 µm)
Vô trùng, tiệt khuẩn

Culture

Nguồn tảo thuần
Khí CO
2
(pH 7.5 to 8.2)
Ánh sáng nhân
tạo hoặc tụ
nhiên
Điều chỉnh nhiệt độ
(22 – 24
0
C) hoặc nhiệt
độ môi trường
Thu hoạch
Dinh dưỡng
Nước biển
Hình 10: Mô tả quá trình nuôi cấy tảo trong trại sản xuất

3.2. Quy trình lưu giữ và nuôi cấy tảo sinh khối
3.2.1. Xử lý nước
Các công đoạn xử lý nước để nuôi cấy tảo tuân theo quy trình dưới đây:
9 Nước được bơm trực tiếp từ sông hoặc biển, đầu tiên qua hệ thống lọc cát với kích
thước từ 20 - 40 µm, sau đó qua hệ thống lọc bông với kích thước 0,5 µm và 0,2
µm.
9 Nước lọc được hấp vô trùng ở nhiệt độ 110
0
C, nếu sử dụng để lưu giữ tảo gốc,
nuôi cấp 1 và cấp 2. Với nuôi sinh khối, nước không cần phải hấp vô trùng nhưng
được khử trùng bằng chlorine tự do 0,4%.
3.2.2. Phương pháp pha chế môi trường nuôi cấy tảo
a) Môi trường F/2

Theo Guillard (1975), môi trường (F/2) được sử dụng để nuôi cấy tảo như sau:
Dung dịch 1
1. Nitrate NaNO
3
75.0 g / l
2. Phosphate NaH
2
PO
4
.H
2
O 5.0 g / l

- 18 -
3. Silicate Na
2
SiO
3
.9H
2
O 30.0 g / l
4. Trace Metals
FeCl
3
.6H
2
O 3.5 g / l
Na
2
EDTA 4.36 g / l

Hoà tan trong 900 ml nước cất
Dung dịch 2
Thêm 1 ml dung dịch vi lượng dưới đây
CuSO
4
.5H
2
O 0.98 g / 100 ml
ZnSO
4
.7H
2
O 2.20 g / 100 ml
CoCl
2
.6H
2
O 1.00 g / 100 ml
MnCl
2
.4H
2
O 18.00 g / 100 ml
Na
2
MoO
4
.2H
2
O 0.63 g / 100 ml

Hoà tan trong 1 l với nước cất
Thêm 1 ml / l dung dịch trên (Dung dịch 2)
Vitamins
Biotin 1.0 mg
B12 1.0 mg
Thiamine HCl 20.0 mg
Hoà tan trong 1 l nước cất rồi để lạnh
Thên ½ ml dung dịch vitamin cho 1 l dung dịch 2
b) Môi trường Walne
Dung dịch này được sử dụng cho tất cả các loài tảo
Dung dịch 1
Na
2
EDTA 45.00 g
H
3
PO
3
33.60 g
NaNO
3
(KNO
3
) 100.00 g (116 g)
NaH
2
PO
4
.2H
2

O 20.00 g
MnCl
2
.4H
2
O 0.36 g
FeCl
3
.6H
2
O 1.30 g
Dung dịch 2 1.00 ml
Hoà tan trong 1 L nước cất
Dung dịch 2 (Dung dịch vi lượng)
ZnCl
2
2.1 g
CoCl
2
.6H
2
O 2.0 g
(NH
4
)
6
Mo
24
.4H
2

O 0.9 g
CuSO
4
.5H
2
O 2.0 g

- 19 -
Hoà tan trong 100 ml nước cất và HCl để có được dung dịch hoà tan tốt.
Dung dịch 3 (hỗn hợp các vitamin)
Thiamin chlorhydrate 200 mg
Cyanocobalamin 10 mg
Hoà tan dung dịch này trong 100 ml nước cất
• Sử dụng dung dịch này cho tảo silicate
Dung dịch 4
Natri metasilicate 20 g
Hoà tan trong 1L nước cất
Dung dịch 5
KNO3 100 g
Hoà tan trong 1L nước cất
Ngoại trừ dung dịch 3, hỗn hợp vitamin, tất cả các dung dịch còn lại được hấp ở nhiệt
độ 125
0
C trong vòng 30 phút. Trừ loài tảo silicate, phải sử dụng thêm dung dịch 4, 5, tất cả
các loài còn lại chỉ dùng chung dung dịch 1, 2 và 3.
3.2.3. Định lượng tảo
Để chính xác hơn trong việc định lượng, kiểm tra mật độ tảo, nên sử dụng buồng đếm
hồng cầu (haemocytometer) được mô tả dưới đây:
Buồng đếm hồng cẩu (haemocytometers) là một tấm kính dày, có 2 khoảng trống ở
trên bề mặt với kích thước mối ô trống là 1,0 x 1,0 mm. Có một nắp đậy đặc biệt dùng để đậy

2 ô trống trên và tạo nên độ sâu 0,1 mm và thể tích mỗi ô là 0.1 mm
3
. Dựa vào đường kẻ tạo
trong ô trống để đếm tế bào tảo bên trong (Hình 11). Để tránh tế bào tảo di chuyển, nhỏ 1 đến
2 giọt formalin 10% vào mẫu 10 - 20 ml để cố định trước khi đem đếm. Để nắp đậy vào đúng
vị trí của buồng đếm, nhỏ 1– 2 giọt mẫu tảo đã cố định bằng pipet Plasteur vào cả hai ô trống

Hình 11: Buồng đếm tảo (haemocytometer)

- 20 -
3.2.4. Lưu giữ giống gốc và nhân tảo giống
3.2.4.1. Lưu giữ tảo gốc
a). Lưu giữ tảo bằng môi trường thạch
Chuẩn bị môi trường
• Chuẩn bị 15 g/l agar để làm môi trường nuôi cấy
• Hoà tan 1 ml môi trường walne vào 1-liter dung dịch nuôi cấy (đã được pha chế
theo công thức ở trên), môi trường walne đã được hấp tiệt trùng.
• Lọc nước biển 32 ppt bằng lõi lọc 0,45 μm
• Thêm vitamin (100 μl/L) vào môi trường walne đã được để nguội mà có thể cầm
được bằng tay.
• Cho môi trường vào ống thuỷ tinh đã tiệt trùng, có nắp đậy và để nghiêng, đợi cho
môi trường nguội hoàn toàn. Các thao tác này được tiến hành dưới đèn cực tím
(UV light).
Cấy tảo trên môi trường thạch nghiêng với việc dùng que cấy. Thạch nghiêng với tảo
sẽ được giữ trong thời gian 3 tháng phòng những trường hợp bất trắc có thể xẩy ra. Sau khi
thao tác xong, tất cả các dụng cụ sẽ được tẩy trùng, diệt khuẩn để chuẩn bị cho những lần
sau. Phương pháp thạch nghiêng ngày không được áp dụng đối với hai loài tảo là Isochrysis
sp và Cheatoceros sp.
Tất cả thiết bị và dụng cụ phải được triệt trùng ở 110
0

C trước khi sử dụng.
Các khuẩn lạc tảo sẽ phát triển trong 15 đến 20 ngày, sau thời gian đó, một khuẩn lạc
của loài tảo mong muốn được tách sau 15 ngày ở trong ống thử và được cấy lại trong một
ống mới. Quá trình này được lặp lại nhiều lần để thu được một dòng tảo thuần.
b). Lưu giữ tảo trong môi trường lỏng 20 ml
Dung dịch dùng để cấy tảo là môi trường walne, với tỷ lệ 1 ml/L.
o 20 ml dung dịch để lưu giữ
o Nước biển 32 ppt được lọc qua lõi lọc 0,45 μm
o KNO
3
và metasilicates với tỷ lệ 1 ml/L, dùng cho tảo silicate.
o Tiệt trùng các dụng cụ, thiết bị và dung dịch môi trường ở nhiệt độ 110
0
C, giữ
chúng tới khi nhiệt độ giảm hẳn rồi thêm dung dịch vitamin vào với tỷ lệ 1 ml/L.
o Cấy 1 ml tảo (lấy từ ống thạch nghiêng) cho vào ống và lắc hàng ngày. Sau 2 tuần
lấy dung dịch tảo ra cấy ở thể tích lớn hơn.
Tảo ở môi trường lỏng được lưu giữ trong vòng 2 tuần, sau đó được cấy lại.
c). Lưu giữ tảo trong bình tam giác 400 ml Erlenmeyer
Tảo trong bình 20 ml sẽ được cấy vào bình 400 ml, sau đó được cấy ở môi trường lớn
hơn 4000 ml trong vòng 2 tuần sau đó.
o Thêm 400 ml nước biển sạch, phơi khô bình Erlenmeyer với nút đậy

- 21 -
o Thêm 1 ml/L môi trường walne
o Hấp bình Erlenmeyer, giữ chúng nguội trở lại rồi thêm vitamin
o Cấy 20 ml tảo vào bình Erlenmeyer và lắc đều hàng ngày
o Cấy tảo vào bình 4 L sau 2 tuần tiếp theo.
3.2.4.2. Cấy tảo giống cấp 2
Lấy 400 ml từ bình dung dịch lỏng trên (Erlenmeyer) cấy qua bình thể tích lớn hơn (4

L), đã được vệ sinh, tẩy trùng cẩn thận. Cho 3,6 L nước biển lọc sạch vào bình cùng với môi
trường nuôi cấy walne, với tỷ lệ 1 ml/L và vitamin với tỷ lệ 0,1 ml/L.
Sau 1 tuần nuôi cấy, phần lớn tảo được sử dụng làm giống (90%) cho nuôi sinh khối,
chỉ giữ phần còn lại khoảng 400 ml tiếp tục được duy trì. Phương pháp này có thể được cấy-
duy trì lặp lại từ 5- 6 lần, sau đó cần làm mới.

Hình 12: Bình tam giác duy trì tảo giống (bên trái) và bình nhân giống cấp 1 (phải)

3.3. Nhân giống tảo giai đoạn trung gian
Tính phức tạp của vận hành hệ thống lưu giữ, nuôi cấy tảo phụ thuộc vào yêu cầu về
sinh vật lượng và giá trị của công nghệ. Hệ thống nuôi cấy nhân giống có thể được thiết lập
trong nhà với ánh sáng nhân tạo và ngoài trời với việc sử dụng nguồn ánh sáng tự nhiên.
Trong quá trình vận hành, nguồn khí CO
2
thường được bổ sung thường xuyên cho việc thúc
đẩy quá trình quang hợp với việc ổn định pH trong khoảng 7,5 đến 8,2.
Nguồn dinh dưỡng dùng cho tảo ở giai đoạn này giống như các bước nuôi cấy trong
dung dịch lỏng. Nước biển được lọc qua lõi lọc 0,5 μm, tảo từ hệ thống này được sử dụng để
nuôi sinh khối hoặc làm thức ăn cho ấu trùng sau 4- 5 ngày, 10% tảo còn lại sẽ được duy trì
trở lại.
Tất cả các thiết bị phải được tẩy trùng trước khi sử dụng để bảo đảm không có mần
bệnh trong đối với tảo.

- 22 -

Hiện 13: Bình 10 l và túi plastic 20 l nhân tảo giống cấp 2 đang sử dụng tại trại giống của ARSINC

3.4. Nuôi sinh khối tảo
Các loài tảo hiện đang nuôi sinh khối trong túi plastic thể tích 60 l và trong bể
composite 3.000 l dưới điều kiện ánh sáng tự nhiên. Khí CO

2
được cấp bổ sung 2% trong
vòng 5 giờ, với thời gian cấp là 5 phút để thúc đẩy quá trình quan hợp. Nước biển được lọc
qua lõi lọc từ 1 đến 2 μm. Môi trường nuôi cấy tảo là Walne hoặc F/2. Các dụng cụ, thiết bị
được khử trùng bằng axxit HCl hoặc dung dịch Iodine 1%.

Hình 14: Nuôi sinh khối tảo trong túi 60 l và trong bể composite 3.000 l tại trại giống của ARSINC

Một hệ thống nuôi thâm canh được kiểm soát hoàn toàn và có sản lượng cao và hệ
thống bán thâm canh, với các bể nuôi ở ngoài trời, sử dụng ánh sáng tự nhiên đã cung cấp
cho ương nuôi ấu trùng, ngao giống, ngao trưởng thành và nuôi vỗ ngao bố mẹ. Hệ thống này
sản xuất các loài tảo đơn bào, với việc lọc nước biển sạch (< 2 µm), đây là công việc rất khó
khăn và tỷ mỉ. Việc sử dụng nước biển hoặc nước lợ cũng sẽ được đề cập đến. Tuy nhiên, rất
khó để duy trì việc nuôi cấy tảo trong thời gian dài vì chúng bị lẫn tạp, nhiễm khuẩn rất
nhanh. Việc nuôi cấy đa loài sẽ quản lý dễ hơn và chỉ dựa vào giống tảo tự nhiên có trong

- 23 -
nước. Trong khi thành phần các loài sẽ có diễn thế thay đổi từ loài này tới loài khác theo mùa và
điều kiện môi trường sống. Tảo sản xuất là nguồn dinh dưỡng giá trị cho sự phát triển của ấu
trùng cũng như duy trì và nuôi vỗ con bố mẹ (Michael M. Helm, 2004). Có hai nhóm loài tảo
được sử dụng trong trại sản xuất giống là tảo xanh và tảo nâu. Trong đó, tảo xanh thường phát
triển trội hơn ở điều kiện thời tiết khí hậu lạnh, tảo nâu thông thường chiếm tỷ lệ 50 – 70% trong
thời điểm mùa hè (Martin W. Brunson, C. Greg Lutz and Robert M. Durborow, 1994).
Ao 1000 m
3
đang dùng để sản xuất quảng canh cung cấp cho ương nuôi ấu trùng và
con giống. Nước cấp vào ao được lọc kỹ, độ mặn 25 đến 30 ppt, sử dụng trong khoảng 2
tuần. Đối với kiểu nuôi này, phân bón được cung cấp vào ao 3 ngày trước khi sử dụng để
nuôi cấy tảo. Các loại hoá chất, phân bón là:
Urea NH

2
CONH
2
(46% N) 1,50 g / m
3
Triple su/-phosphate P
2
O
5
(20% P) 1,56 g / m
3
Sodium metasilicate Na
2
SiO
3
.5H
2
O (13% Si) 10,60 g / m
3
Theo Michael M. Helm, 2004, việc sử dụng phân gà hoặc các loại phân của động vật
khác với tỷ lệ 500kg/ ha ao với độ sâu khoảng 1, nhằm bổ sung nguồn dinh dưỡng cho tảo,
giảm chi phí sản xuất. Bề mặt liên quan đến độ sâu của ao: độ sâu khoảng 1 m thường có
hiệu quả hơn mức nước sâu hơn vì khả năng hấp thụ ánh sáng tốt hơn. Ao càng thông thoáng
thì việc sản xuất càng thuận tiện và hiệu quả hơn.

Hình 15: Ao dùng để sản xuất tảo, làm thức ăn cho ấu trùng và ngao giống tại ARSINC.

Nguồn nước với thức ăn (tảo) từ ao được bơm vào bể ương để nuôi ngao, đầu tiên
được qua lọc 20 μm để ngao giống làm quen dần với điều kiện môi trường tự nhiên trong 7
ngày, sau đó, kích thước lõi lọc được nâng lên thưa hơn. Đây là công đoạn quan trọng để

nâng cao tỷ lệ sống của con giống trước khi chuyển chúng ra nuôi ngoài môi trường tự nhiên.
Hệ thống này không chỉ vì mục đích thuần hoá ngao mà còn góp phần giảm chi phí trong sản
xuất giống thông qua việc sử dụng thức ăn bằng việc gây màu nước.




- 24 -
Phần 4
VẬN HÀNH TRẠI GIỐNG: NUÔI VỖ NGAO BỐ MẸ, SINH SẢN VÀ THỤ TINH

4.1. Nuôi vỗ con bố mẹ
4.1.1. Tổng quan
Nuôi vỗ ngao bố mẹ là rất cần thiết trong việc thành thục hệ sinh dục, vì thế có thể
đạt được nguồn bố mẹ cho sản xuất giống. Trong tự nhiên, ngao Bến Tre (M. lyrata) là động
vật thâm mềm nhiệt đới, chỉ sinh sản theo mùa. Mùa vụ sinh sản chính của ngao diện ra từ
tháng 4 đến tháng 8 hàng năm, vụ sinh sản phụ diện ra vào tháng 9 đến tháng 10 hàng năm.
Với điều kiện, kỹ thuật nuôi vỗ hợp lý, các trại sản xuất có thể kéo dài mùa vụ sản xuất cũng
như điều khiển thời gian sinh sản của ngao. Trong trường hợp này, các trại giống có điều
kiện thuận lợi trong việc sản xuất giống sớm hơn trong năm, trước khi con bố mẹ phát triển
và thành thục tuyến sinh dục.
Ngao bố mẹ được lựa chọn từ vùng nuôi của các hộ nuôi, sau đó được vận chuyển về
trại giống. Lựa chọn kích thước con bố mẹ, ước tính khoảng 20 gr trọng lượng toàn thân.
Ngao bố mẹ lựa chọn được nuôi ít nhất 18 tháng, trướng phát triển ở giai đoạn 4 hoặc ít nhất
là ở giai đoạn đang phát triển (giai đoạn 2)

Hình 17: Hệ thống nuôi vỗ ngao bố mẹ. Hệ thống này được tuần hoàn nên nhiệt độ,
độ mặn và pH được duy trì ổn định.

Ngao bố mẹ được thu gom từ vùng nuôi, sau đó được chuyển về trại giống. Chúng

được vệ sinh, loại bỏ các sinh vật bám ở ngoài vỏ trước khi cho vào bể nuôi vỗ. Ngao có tập
tính đào bới và ẩn mình xuống nền đáy cát, tiêu thụ thức ăn tốt hơn nếu chúng được nuôi ở
nền đáy phù hợp. Trong hệ thống nuôi vỗ, nền đáy được bổ sung là đáy cát, với độ dày
khoảng 10 cm.

- 25 -

×