Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Cạnh tranh trong kinh doanh - Phần 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.05 KB, 7 trang )



Cạnh tranh trong kinh
doanh - Phần 2

Lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh là sở hữu của những giá trị đặc thù,
có thể sử dụng được để “nắm bắt cơ hội”, để kinh doanh có lãi. Khi nói đến
lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh, là nói đến lợi thế mà một doanh
nghiệp, một quốc gia đang có và có thể có, so với các đối thủ cạnh tranh của
họ
3. Khái quát về lợi thế cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong kinh
doanh:
a.Lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh
• Lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh là sở hữu của những giá trị đặc
thù, có thể sử dụng được để “nắm bắt cơ hội”, để kinh doanh có lãi. Khi
nói đến lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh, là nói đến lợi thế mà
một doanh nghiệp, một quốc gia đang có và có thể có, so với các đối
thủ cạnh tranh của họ. Lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh là một
khái niệm vừa có tính vi mô (cho doanh nghiệp), v
ừa có tính vĩ mô (ở
cấp quốc gia).
• Theo quan điểm của Michael Porter, doanh nghiệp chỉ tập trung vào hai
mục tiêu tăng trưởng và đa dạng hóa sản phẩm, chiến lược đó không
đảm bảo sự thành công lâu dài cho doanh nghiệp. Điều quan trọng đối
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào là xây dựng cho mình một lợi
thế cạnh tranh bền vững. Theo Michael Porter lợi thế cạnh tranh bền
vững có nghĩa là doanh nghiệp phải liên tục cung cấp cho thị
trường
một giá trị đặc biệt mà không có đối thủ cạnh tranh nào có thể cung cấp
được.
b. Năng lực cạnh tranh trong kinh doanh


• Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh trong
kinh doanh trên các cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Và
hiện chưa có một lý thuyết nào hoàn toàn có tính thuyết phục về vấn đề
này, do đó không có lý thuyết “chuẩn” về năng lực cạnh tranh. Tuy
nhiên, hai hệ thống lý thuyết với hai phương pháp đánh giá được các
quốc gia và các thiết chế kinh tế quốc tế sử dụng nhiều nhất: Phương
pháp thứ nhất do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong bản
Báo cáo cạnh tranh toàn cầu; Phương pháp thứ
hai do Viện Quốc tế về
quản lý và phát triển (IMD) đề xuất trong cuốn niên giám cạnh tranh
thế giới. Cả hai phương pháp này đều do một số Giáo sư đại học
Harvard như Michael Porter, Jeffrey Shach và một số chuyên gia của
WEF như Cornelius, Mache Levison tham gia xây dựng.
• Quan niệm năng lực cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp
cũng có nhiều khác biệt
o Năng lực cạnh tranh là khả năng tồn tại trong kinh doanh và đạt
được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi
tức hoặc chất lượng các sản phẩm cũng như năng lực của nó để
khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị
trường mới.
o Năng lực cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp là thể
hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh
tranh trong việc thõa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để
thu lợi nhuận ngày càng cao. Như vậy, năng lực cạnh tranh
trong kinh doanh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra
từ thực lực của doanh nghiệp. Đấy là các yếu tố
nội hàm của mỗi
doanh nghiệp, không chỉ được tính băng các tiêu chí về công
nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,… một
cách riêng biệt mà đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh

hoạt động trên cùng lĩnh vực, cùng một thị trường.
o Có quan điểm cho rằng, năng lực cạnh tranh trong kinh doanh
của doanh nghiệp gắn liền với ưu thế của sản phẩm mà doanh
nghiệp đưa ra thị trường.
o Có quan điểm gắn năng lực cạnh tranh trong kinh doanh của
doanh nghiệp với thị phần mà nó nắm giữ, cũng có quan điểm
đồng nhất của doanh nghiệp với hiệu quả sản xuất kinh doanh,…
o Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của mình e chưa
đủ, bởi trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, lợi thế bên ngoài đôi
khi là yếu tố quyết định. Thực tế chứng minh một số doanh
nghiệp rất nhỏ, không có lợi thế nội tại, thực lực bên trong yếu
nhưng vẫn tồn tại và phát triển
trong một thế giới cạnh tranh khốc
liệt như hiện nay.
o Như vậy, “năng lực cạnh tranh
trong kinh doanh của doanh
nghiệp là việc khai thác, sử dụng
thực lực và lợi thế bên trong, bên
ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm
– dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng
để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải
tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường ”.
o Năng lực cạnh tranh trong kinh doanh thể hiện ở việc làm tốt
hơn với các công ty so sánh (các đối thủ) về doanh thu, thị phần,
khả năng sinh lời và đạt được thông qua các hành vi chiến lược,
được định nghĩa như là một tập hợp các hành động tiến hành để
tác động tới môi trường nhờ đó làm tăng lợi nhuận công ty, cũng
như bằng những công cụ marketing khác. Nó cũng đạt được
thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà sự sáng tạo sản
phẩm là những khía cạnh rất quan trọng của quá trình cạnh

tranh trong kinh doanh.
c. Các yếu tố tạo nên năng lực cạ
nh tranh của doanh nghiệp
• Tổng hợp các trrường phái lý thuyết, trên cơ sở quan niệm năng lực
cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp là khả năng bù đắp
chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và
dịch vụ trên thị trường, thì năng lực cạnh tranh trong kinh doanhcủa
doanh nghiệp có thể được xác định trên 4 nhóm yếu tố sau:
o Chất lượng, khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hóa các
đầu vào
o Các ngành sản xuất và dịch vụ trợ giúp cho doanh nghiệp
o Yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ
o Vị thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh
• Theo Michael Porter thì năng lực cạnh tranh trong kinh doanhcủa
doanh nghiệp gồm bốn yếu tố:
o Các yếu tố bản thân doanh nghiệp: Bao gồm các yếu tố về con
người (chất lượng, kỹ năng); các yếu tố về trình độ (khoa học kỹ
thuật, kinh nghiệm thị trường); các yếu tố về vốn… các yếu tố
này chia làm 2 loại:
Loại 1: các yếu tố cơ bản như: môi trường tự nhiên, địa lý, lao động;
Loại 2: các yếu tố nâng cao như: thông tin, lao động trình độ cao…
Trong đó, yếu tố thứ 2 có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh tranh trong
kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng quyết định lợi thế cạnh tranh trong
kinh doanh ở độ cao và những công nghệ có tính độc quyền. Trong dài hạn
thì đây là yếu tố có tính quyết định phải được đầu tư một cách đầy đủ và đúng
mức.
o Nhu cầu của khách hàng: Đây là yếu tố có tác động rất lớn đến
sự phát triển của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, không một
doanh nghiệp nào có khả năng thõa mãn đầy đủ tất cả những yêu
cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt

này thì có hạn chế về mặt khác. Vấn đề cơ bản là, doanh nghiệp
phải nhận biết được đ
iều này và cố gắng phát huy tốt nhất những
điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi
của khách hàng. Thông qua nhu cầu của khách hàng, doanh
nghiệp có thể tận dụng được lợi thế theo quy mô, từ đó cải thiện
các hoạt động kinh doanh và dịch vụ của mình. Nhu cầu khách
hàng còn có thể gợi mở cho doanh nghiệp để phát triển các loại
hình sản phẩm và dị
ch vụ mời. Các loại hình này có thể được
phát triển rộng rãi ra thị trường bên ngoài và khi đó doanh
nghiệp là người trước tiên có được lợi thế cạnh tranh trong
kinh doanh.
o Các lĩnh vực có liên quan và phụ trợ: Sự phát triển của doanh
nghiệp không thể tách rời sự phát triển các lĩnh vực có liên quan
và phụ trợ như: thị trường tài chính, sự phát triển của công nghệ
thông tin… Ngày nay, sự phát triển của công nghệ thông tin, các
ngân hàng có thể theo dõi và tham gia vào thị trường tài chính
24/24 giờ trong ngày.
o Chiến lược của doanh nghiệp, cấu trúc ngành và đối thủ cạnh
tranh trong kinh doanh: Sự phát triển của hoạt động doanh
nghiệp sẽ thành công nếu được quản lý và tổ chức trong một môi
trường phù hợp và kích thích được các lợi thế cạnh tranh trong
kinh doanh của nó. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ là
yếu tố thúc đẩy sự cải tiến và thay đổi nhằm hạ thấp chi phí,
nâng cao chất lượng d
ịch vụ.
o Trong bốn yếu tố trên, yếu tố 1 và 4 được coi là yếu tố nội tại
của doanh nghiệp, yếu tố 2 và 3 là những yếu tố có tính chất tác
động và thúc đẩy sự phát triển của chúng.

o Ngoài ra, còn hai yếu tố mà doanh nghiệp cần tính đến là những
cơ hội và vai trò của Chính Phủ. Vai trò của Chính Phủ có tác
động tương đối lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
nhất là trong việc định ra các chính sách về công nghệ, đào tạo
và trợ cấp.

×