Tải bản đầy đủ (.pdf) (167 trang)

Luận án pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn bảo hiểm tiền gửi việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 167 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trường luôn gắn liền và chứa
đựng những yếu tố rủi ro tiềm ẩn như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản, rủi ro đạo đức v.v… Trong những năm vừa qua, kinh tế xã hội Việt Nam
đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô
tạo điều kiện phát triển bền vững. Lạm phát được kiểm soát ở mức hợp lý và thấp hơn
nhiều so với giai đoạn trước, tăng trưởng kinh tế ở mức khá, an sinh xã hội được đảm
bảo. Bên cạnh đó, nền kinh tế thế giới có nhiều biến động bất lợi, nên những kết quả đạt
được của nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua là đáng ghi nhận, đạt được
những kết quả trên là nhờ những nỗ lực của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có những
quyết sách kịp thời, việc điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và có sự phối
hợp tốt hơn giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Đóng góp vào kết quả đó phải kể đến vai trò của bảo hiểm tiền gửi (BHTG),
một chế định tài chính được sử dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới để bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền. Ở Việt Nam, BHTG là cam kết công khai của tổ chức BHTG
đối với tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền về việc tổ chức BHTG sẽ chi trả
tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt
hoạt động và mất khả năng thanh toán. Hoạt động của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam (BHTGVN) có nền tảng pháp lý vững chắc là Luật BHTG và hệ thống các
văn bản hướng dẫn thi hành.
BHTGVN được xác định là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động khơng vì
mục tiêu lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thực
hiện chính sách BHTG góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín
dụng (TCTD), bảo đảm sự phát triển an tồn, lành mạnh hoạt động ngân hàng. Các
quy định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền tại các TCTD đã được
quy định trong các văn bản như: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật
Các Tổ chức tín dụng năm 2010 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2017, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật phá sản
năm 2014, Luật bảo hiểm tiền gửi năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành...
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về BHTG cho thấy các


quy định của pháp luật hiện hành về BHTG đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chồng chéo
dẫn đến hiệu quả thực thi không đạt kết quả như yêu cầu đặt ra, nhiều quy định hiện hành
của pháp luật Việt Nam về BHTG khơng cịn phù hợp và cần có sự sửa đổi, bổ sung hoàn
1


thiện. Đặc biệt, kể từ thời điểm Luật sửa đổi, bổ sung Luật các TCTD năm 2017 có hiệu
lực thi hành, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện các giải pháp của Đề án tái cơ
cấu các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020 đã được Chính phủ phê duyệt.
Theo đó, BHTGVN được giao thêm nhiều chức năng quan trọng trong q trình tái cơ
cấu các TCTD, nâng cao vai trị trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người
gửi tiền và hỗ trợ khả năng phục hồi các TCTD được kiểm soát đặc biệt (KSĐB), như:
(i) Thực hiện cho vay đặc biệt để hỗ trợ thanh khoản khi TCTD có nguy cơ mất khả năng
chi trả, đe dọa sự ổn định hệ thống trong thời gian TCTD bị KSĐB; (ii) được mua trái
phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ dựa trên quyết định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
(iii) tham gia phối hợp với Ban KSĐB, Ngân hàng Hợp tác xã để đánh giá tính khả thi
của phương án phục hồi của QTDND, tổ chức tài chính vi mơ, cơng ty tài chính; xây
dựng phương án phá sản TCTD được KSĐB trình NHNN xem xét, quyết định… Điều đó
cho thấy Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD năm 2017 đã cụ thể hóa
các quy định về thẩm quyền, biện pháp can thiệp sớm hơn vào quá trình tái cơ cấu các
TCTD yếu kém; hoàn thiện cơ sở pháp lý giúp xây dựng một hệ thống TCTD lành mạnh,
phù hợp với thông lệ quốc tế và cơ chế thị trường, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền
và giữ vững sự ổn định, an tồn hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia. Để BHTGVN đáp ứng
các yêu cầu đặt ra trong tình hình mới đó, cần thiết phải có sự rà sốt, bổ sung, hoàn thiện
pháp luật về BHTG, mà trước mắt là tổng kết, đánh giá kết quả thi hành Luật BHTG từ
đó có kiến nghị sửa đổi Luật BHTG và các quy định của pháp luật có liên quan để BHTG
thực sự là cơng cụ hữu hiệu giúp Chính phủ thực hiện tái cơ cấu các TCTD yếu kém gắn
liền với xử lý nợ xấu, xử lý đổ vỡ các TCTD, qua đó bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống
tài chính - ngân hàng.

Chính vì những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về bảo hiểm tiền
gửi từ thực tiễn Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ các vấn đề lý luận của pháp luật về BHTG
và phân tích thực trạng thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam. Thông qua nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện, tác
giả có những đánh giá về thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTG và thực trạng tổ chức, hoạt
động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về BHTG và tổ chức, hoạt động của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

2


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
Một là, về phương diện lý luận:
Luận án tập trung khái qt hố, hệ thống hóa được các vấn đề lý luận về BHTG, cơ
chế xác lập quan hệ BHTG, phân tích cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ BHTG,
các nhân tố tác động đến pháp luật về BHTG và việc thực thi pháp luật về BHTG.
Đặc biệt, Luận án đi sâu phân tích, đánh giá, so sánh các quy định của pháp luật
về BHTG ở Việt Nam hiện hành với pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngồi có liên
quan, tham khảo kinh nghiệm về điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ BHTG của một
số nước để tìm ra những bài học phù hợp với điều kiện của Việt Nam, chỉ ra những bất
cập, hạn chế trong các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về BHTG.
Hai là, về phương diện thực tiễn:
Luận án phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về BHTG thông qua tổng
kết, đánh giá thực tiễn hoạt động của tổ chức BHTGVN.
Quá trình thực hiện pháp luật về BHTG của tổ chức BHTGVN đã đạt được

những kết quả đáng ghi nhận như: với tư cách là một tổ chức tài chính nhà nước hoạt
động khơng vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
gửi tiền, thực hiện chính sách BHTG góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các
TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Luận án tập trung nghiên cứu và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về
BHTG của tổ chức BHTGVN bao gồm các hoạt động cụ thể như: Chủ thể tham gia
quan hệ BHTG và các bên liên quan được thực hiện như thế nào; Thực hiện quy định về
tiền gửi, phí BHTG và quản lý, sử dụng phí BHTG của tổ chức BHTGVN có những
thuận lợi và khó khăn gì; Thực tiễn xác lập và chấm dứt quan hệ BHTG; Hoạt động chi
trả, hỗ trợ tài chính, thanh lý và thu hồi tài sản của BHTGVN trong thời gian qua đã có
tác động đến hoạt động của các TCTD ra sao; Hoạt động kiểm tra, giám sát và giải
quyết khiếu nại liên quan đến hoạt động BHTG của tổ chức BHTGVN đã thực hiện
trong thời gian qua như thế nào?
Qua nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về BHTG của tổ chức BHTGVN,
luận án đưa ra những nhận xét, đánh giá về kết quả đạt được, đồng thời cũng chỉ ra
những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế cần khắc phục trong quá trình thực
hiện pháp luật về BHTG của tổ chức BHTGVN.
Ba là, Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về BHTG của tổ chức
BHTGVN, luận án chỉ ra các yêu cầu hoàn thiện pháp luật về BHTG ở Việt Nam hiện
3


nay; đề ra các phương hướng hoàn thiện pháp luật và đưa ra các nhóm giải pháp cụ thể
hồn thiện pháp luật về BHTG và tổ chức, hoạt động của tổ chức BHTGVN trong giai
đoạn hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án bao gồm:
Các vấn đề lý luận liên quan đến BHTG và hoạt động của tổ chức BHTGVN
như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò của BHTG; mơ hình hoạt động của các tổ chức

BHTG trên thế giới;
Các quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế cũng như pháp luật nước
ngồi có liên quan về BHTG;
Thực trạng thực hiện pháp luật về BHTG của tổ chức BHTGVN thông qua
nhiệm vụ quyền hạn, tổ chức và hoạt động của của BHTGVN;
Các yêu cầu, phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTG thông
qua hoạt động của tổ chức BHTGVN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu:
- Luận án sẽ kế thừa các kết quả nghiên cứu từ các cơng trình đã được cơng bố
như khái niệm, đặc điểm, vai trị, phân biệt BHTG với các loại hình bảo hiểm khác.
- Luận án sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề cụ thể liên quan đến hoạt động của tổ
chức BHTGVN như: làm rõ địa vị pháp lý của tổ chức BHTGVN, mơ hình và lựa chọn mơ
hình BHTG phù hợp với Việt Nam, các quy định của pháp luật và thực tiễn thực thiện các
nội dung về chủ thể trong quan hệ BHTG, về tiền gửi được bảo hiểm, phí BHTG và quản
lý, sử dụng phí BHTG, về kiểm tra, giám sát, chi trả… của tổ chức BHTGVN để từ đó
khẳng định vai trị của BHTGVN trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
gửi tiền, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
- Về phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu, luận án tập trung nghiên cứu
pháp luật về BHTG và thực tiễn thực hiện pháp luật BHTG của tổ chức BHTGVN, trên
cơ sở tham khảo, đối sánh với pháp luật về BHTG của một số quốc gia trên thế giới
trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Từ mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả tiếp cận đối tượng nghiên cứu
bằng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
4.1. Phương pháp luận
Xuất phát từ tính chất đặc thù của đề tài nghiên cứu là vừa mang tính kinh tế vừa
4



mang tính pháp lý, tác giả xác định phương pháp luận để triển khai đề tài luận án sẽ là
phương pháp tiếp cận đa ngành và liên ngành, trong đó tập trung nhấn mạnh vào khía
cạnh pháp lý của vấn đề nghiên cứu để làm nổi bật giá trị luật học của luận án. Luận án
cũng sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết
Mác - Lê Nin để giải quyết các yêu cầu đặt ra của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, hệ thống hóa, phân tích nhằm làm rõ cơ sở
lý luận cũng như cơ sở thực tiễn của pháp luật về BHTG ở Việt Nam, đánh giá các cơng
trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về những vấn đề liên quan đến luận án,
các số liệu tổng hợp thực tế, phương pháp này được sử dụng trong luận án nhưng trọng
tâm là chương 1, chương 2 và chương 3.
- Phương pháp luật học so sánh: được sử dụng xuyên suốt luận án nhằm đối
chiếu quy định pháp luật qua các thời kỳ, với pháp luật các quốc gia để tìm ra những
điểm hợp lý trong các quy định pháp luật về BHTG, học hỏi kinh nghiệm xây dựng
pháp luật để hoàn hiện pháp luật về BHTG.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê… được sử dụng trong chương 1, 4
để dự báo xu hướng phát triển của kinh tế xã hội, từ đó đưa ra các giải pháp hồn thiện
pháp luật về BHTG.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, Luận án đã tập trung nghiên cứu các nội dung về lý luận và pháp luật
liên quan đến BHTG như: vai trò của BHTG, chỉ ra các mơ hình BHTG trên thế giới và
mơ hình ở Việt Nam. Đồng thời khẳng định vị trí, vai trị của BHTG trong hệ thống tài
chính ngân hàng và ý nghĩa đối với việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đánh giá
các yếu tố tác động đến BHTG cả trong và ngồi nước để từ đó rút ra các bài học kinh
nghiệm phù hợp cho việc hoàn thiện pháp luật về BHTG ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, Luận án đã nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật về BHTG bao
gồm: thực trạng về chủ thể tham gia quan hệ BHTG, quyền và nghĩa vụ của các bên;
thực trạng về phí BHTG và sử dụng nguồn thu phí BHTG của tổ chức BHTGVN; thực
tiễn thực hiện các quy định của pháp luật BHTG tại tổ chức BHTGVN thông qua

nghiệp vụ cụ thể; luận án cũng đưa ra các số liệu, vụ việc để chứng minh cho các đánh
giá, nhận xét của mình. Ngồi ra, luận án còn chỉ ra những hạn chế, bất cập trong cơ chế
chính sách, quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành để từ đó chỉ ra nguyên nhân của
những hạn chế đó.
Thứ ba, từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về pháp luật BHTG, luận án đã
5


chỉ ra các yêu cầu cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về BHTG cho phù hợp với định
hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung và chiến lược phát triển của ngành ngân hàng
nói riêng. Luận án đã đưa ra các nhóm giải pháp để hồn thiện pháp luật về BHTG,
hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và hoạt động của tổ chức BHTGVN và tổ chức tham gia
BHTG đảm bảo phù hợp với xu thế phát triển trong tình hình mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về lý luận: Luận án nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về
BHTG và đánh giá tính hiệu quả quy định của pháp luật. Luận án khẳng định vai trò của
BHTG đối với sự phát triển của hệ thống ngành tài chính ngân hàng; luận án cũng chỉ ra
các nhân tố tác động đến hoạt động của BHTG, qua đó đưa ra những nhận xét, đánh giá
về thực trạng pháp luật về BHTG, chỉ ra nguyên nhân của một số hạn chế còn gặp phải
trong thực tiễn.
Về thực tiễn: Luận án chỉ ra những yêu cầu cần thiết, những định hướng cơ bản
để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về BHTG; tiếp đến luận án đưa ra các nhóm giải
pháp quan trọng hàng đầu để bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia vào
quan hệ BHTG.
Ngoài ra, luận án còn là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng trong nghiên cứu và
giảng dạy khoa học pháp lý, kinh tế, tài chính, phục vụ cho việc hoạch định chính sách
về BHTG ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án có 4
chương như sau:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết
Chương 2. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm tiền gửi và pháp luật về bảo hiểm
tiền gửi
Chương 3. Thực trạng thực hiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi của Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam
Chương 4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật bảo hiểm tiền gửi của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến bảo hiểm tiền gửi
1.1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về vị trí, vai trị, chức năng của bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động BHTG công khai được thực hiện từ rất sớm tại Mỹ vào năm 1829 với
danh hiệu “chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng” nhằm phịng ngừa sự đổ vỡ
mang tính chất định kỳ của các ngân hàng vào thế kỷ XIX. Tuy nhiên, hoạt động này
nằm trong chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng nói chung (bao gồm tiền gửi
ngân hàng và chứng chỉ huy động tiền gửi). Trải qua quá trình thay đổi và phát triển,
hình thức BHTG cơng khai xuất hiện gắn liền với việc bảo vệ quyền lợi của người gửi
tiền, từ đó đảm bảo an tồn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, hệ thống tài chính
tiền tệ trong nền kinh tế. Cho đến nay, BHTG được xác định khơng chỉ để bảo vệ người
gửi tiền mà nó cịn được khẳng định như một tiêu chí, đóng vai trị quan trọng trong
việc bảo đảm an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng [76, tr15,18].
Năm 2002, Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi Quốc tế (IADI) được thành lập, điều này
đánh dấu sự quan tâm chung của nhiều nước trên thế giới về BHTG và hứa hẹn một
động lực mới thúc đẩy phát triển hoạt động này trên toàn thế giới [57, tr20].
Góp phần vào q trình xây dựng và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của BHTG

phải kể đến các cơng trình tiêu biểu như: “Deposite Insurance around the world - A date
base” của nhóm tác giả Asli Demirguc-Kunt, Baybars Karacaovali and Luc A. Laeven,
2005 [86]; “Structuring a deposit insurance system from the Asian perspective” của tác
giả Jang-Bong Choi, 2000 [93]; Deposit insurance and the appropriate institutions”,
2002 của tác giả Garcia G.G.H [91]; Financials stability forum, 2001, Guidance for
developing effective deposit insurances systems [88]; Eva H. G. Hupkes, 2005, The Role
of Deposit Protection and Resolution Policy in Promoting Financial Stability [100];
Deposit Insurance around the World, 2005, A Comprehensive Database [94];
Marcroeconomics, Havard University, Worth Pubisher, 33 Irving Place, New York của
tác giả Mankiw G.N, 1992 [98]; Deposite insuarance: A survey of actual and best
pratices, 1999 của tác giả Garcia G.G.H; Structuring a deposite insuarance system from
the Asian perspective, 2000, của tác giả Choi J. B [93]; The structure of the US banking
system and banking suprervision, 1988 của tác giả Jusnior J. A. M [94].
Cơng trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã có những phân tích sâu sắc về
sự cần thiết của hoạt động BHTG, vai trò của BHTG đối với hoạt động của hệ thống tài
chính, ngân hàng ở các quốc gia; vai trò và trách nhiệm của BHTG đối với người gửi
7


tiền. Đồng thời khẳng định hệ thống BHTG cần phải là một phần của mạng lưới an tồn
tài chính được thiết kế tốt, được hỗ trợ bởi các quy định về kế toán, giám sát cẩn trọng
và pháp luật. Đặc biệt, đã chỉ ra những kinh nghiệm trong việc thiết lập hệ thống BHTG
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở các quốc gia. Cụ thể:
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã phân tích các vấn đề lý luận về BHTG, cơ
sở của việc cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về BHTG, phản ánh thực
tiễn hoạt động BHTG tại các quốc gia trên thế giới. Đồng thời cũng chỉ ra sự khác nhau
về mơ hình hoạt động của BHTG tại các quốc gia và nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Các nhà nghiên cứu đã tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về BHTG; thực
tiễn điều chỉnh pháp luật về BHTG tại các quốc gia trên thế giới; đồng thời đưa ra
những đánh giá về thành tựu đã đạt được và cũng chỉ ra những hạn chế về cấu trúc hệ

thống BHTG, mơ hình hoạt động BHTG, một số nội dung hoạt động BHTG. Kết quả
của những nghiên cứu này có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý, xây dựng chính sách về
BHTG ở các quốc gia.
Kết quả nghiên cứu của các cơng trình nêu trên đã chỉ ra những kinh nghiệm, bài
học rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới, từ đó đưa ra cơ chế để bảo vệ
người gửi tiền và các chế độ giải quyết cần kịp thời, hiệu quả và đưa ra những giải pháp
để hạn chế bất ổn trong cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới.
Ngồi ra, cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến BHTG như: Các tài
liệu về hướng dẫn hoạt động của BHTG, trong đó nổi bật là: Ủy ban Basel về giám sát
ngân hàng, 2010, Các nguyên tắc tăng cường quản trị công ty đối với các tổ chức
ngân hàng [85]; Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI) và Ủy ban Basel về giám sát
ngân hàng (BCBS) đã ấn hành Các nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền
gửi hiệu quả vào tháng 6/2009; Tài liệu hướng dẫn phương pháp đánh giá mức độ tuân
thủ các nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả được hoàn
thành vào tháng 12 năm 2010.
Tài liệu này củng cố các yếu tố chính trong nguyên tắc quản trị công ty của
OECD và hướng dẫn hoạt động của thành viên Hội đồng Quản trị, thành viên Ban
giám đốc và cơ quan giám sát các loại hình ngân hàng khác nhau tại các quốc gia với
hệ thống luật lệ và quy định khác nhau. Các nguyên tắc cơ bản và phương pháp đánh giá
tuân thủ (gọi tắt là Bộ các nguyên tắc cơ bản) được nhiều quốc gia sử dụng như tiêu
chuẩn để đánh giá chất lượng hoạt động của hệ thống BHTG, phát hiện những điểm hạn
chế trong quá trình hoạt động và cách thức khắc phục. Bộ các nguyên tắc cơ bản cũng
được Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế sử dụng trong khn khổ Chương trình
đánh giá lĩnh vực tài chính, để đánh giá hiệu quả của các hệ thống BHTG tại các quốc gia.
8


Các nguyên tắc cơ bản được thiết kế để phản ánh và thích ứng với các điều kiện, bối cảnh
và cơ cấu khác nhau của từng quốc gia. Các nguyên tắc cơ bản được thiết kế như một
khung hướng dẫn để hỗ trợ thực hiện các thông lệ BHTG hiệu quả. Các quốc gia có thể tự

áp dụng các biện pháp bổ sung khi thấy cần thiết để xây dựng hệ thống BHTG hiệu quả
của quốc gia mình.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về
BHTG từ trước khi có Luật BHTG để lựa chọn mơ hình BHTG phù hợp với điều kiện của
quốc gia mình. Cụ thể:
Vào những năm 1988 đến 1990 hàng loạt các hợp tác xã tín dụng đơ thị bị đổ vỡ
trên toàn quốc gây ra những bất ổn về kinh tế và chính trị. Đặc biệt, niềm tin của dân
chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Lấy lại niềm tin
của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng trong bối cảnh như vậy là yêu cầu
quan trọng, cấp thiết được đặt ra. Ngoài ra, hoạt động BHTG do Bảo Việt tiến hành
không đảm bảo các điều kiện cho sự thành công của một tổ chức BHTG, việc tham gia
BHTG là tự nguyện… Vì vậy, hoạt động đó thiếu tính chuyên nghiệp, không theo thông
lệ quốc tế và không đảm bảo các điều kiện hoạt động thành công của tổ chức BHTG.
Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á năm 1997 không ảnh hưởng nhiều
đến nền kinh tế của Việt Nam nhưng cũng tác động đến hoạt động tài chính ngân hàng
Việt Nam. Trong q trình xử lý khủng hoảng tài chính ngân hàng thì BHTG là cơng cụ
tài chính được một số Chính phủ ở Châu Á sử dụng hữu hiệu trong việc tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng cũng như lấy lại niềm tin của công chúng. Với bối cảnh trong nước và
quốc tế như vậy, để bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo sự phát triển an toàn lành mạnh
hoạt động ngân hàng, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững cần có một tổ chức
chuyên nghiệp thực hiện các nghiệp vụ BHTG thì sự ra đời của tổ chức BHTG là hết
sức cần thiết, đáp ứng được yêu cầu khách quan của thị trường tài chính cũng như tồn
bộ nền kinh tế [12].
Thời gian qua, đã có các cơng trình liên quan đến cơ chế, chính sách và vị trí, vai
trị của BHTG ở Việt Nam như: Tài liệu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Viện nghiên
cứu lập pháp, Trung tâm thông tin khoa học, 2009, Kinh nghiệm quốc tế về tổ chức bảo
hiểm tiền gửi hiệu quả [84]; Tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh với bài viết “Vấn đề lựa
chọn đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi”, Tạp chí Ngân hàng số 12/2002; “Bàn về
hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi”, Tạp chí Ngân hàng số 8/2003; “Bàn về cách tính
phí bảo hiểm tiền gửi”, Tạp chí Ngân hàng số 14/2003; “Rủi ro đạo đức trong hoạt động

bảo hiểm tiền gửi, Tạp chí Ngân hàng số 8/2002 [57,59]; Tác giả TS Bùi Khắc Sơn,
2014, với bài viết “Giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách bảo hiểm tiền gửi tại Việt
9


Nam” [63]; TS Nguyễn Văn Thạnh, 2014, về “Ổn định tài chính nhìn từ góc độ ngân hàng
Trung ương và tổ chức bảo hiểm tiền gửi” [67].
Các cơng trình đã nghiên cứu về định hướng chính sách và pháp luật trong hoạt
động BHTG ở Việt Nam, khẳng định BHTG là cơng cụ duy trì kỷ luật thị trường, phí
BHTG là thước đo sự lành mạnh của mỗi tổ chức tham gia BHTG và cơ chế tiếp cận
thông tin là yếu tố trọng yếu nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG. Bên cạnh đó, khẳng
định việc xây dựng cơ chế BHTG hiệu quả, phù hợp với đặc thù phát triển của quốc gia
là cần thiết. BHTG như là của để dành trong trường hợp xẩy ra khó khăn trong hệ thống
ngân hàng, nhà nước có thêm lựa chọn chính sách nhằm bảo vệ người gửi tiền. Đặc biệt,
theo nguyên tắc hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước trong việc xử lý đổ vỡ.
Ngồi ra, cịn có các cơng trình nghiên cứu về vai trò, nhiệm vụ của BHTG và mối
quan hệ của BHTG trong hệ thống ngành ngân hàng, tiêu biểu như: Vai trò của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an sinh xã hội, chuyên
đề nghiên cứu chuyên sâu, 2008; Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Chiến lược phát triển bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025, Tài liệu tham khảo xây
dựng chiến lược phát triển của BHTGVN, 2015; Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Tài liệu
tham khảo xây dựng Luật Bảo hiểm tiền gửi, 2011. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành
của Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng, 2003: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam [11, 12, 14]. Các đề tài đã phân tích bản chất của BHTG, phân
tích các mơ hình BHTG trên thế giới, vai trị của BHTG đối với việc bảo vệ người gửi tiền,
góp phần đảm bảo an sinh xã hội và phương hướng xây dựng pháp luật về bảo vệ quyền và
lợi ích của người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG.
Hoặc bài viết của TS. Nguyễn Minh Phong, 2017 về “Nâng cao năng lực, vị thế
của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để bảo vệ người gửi tiền tốt hơn” [60], số 38 Bản tin
của BHTGVN. Tác giả đã nghiên cứu về thực trạng của BHTGVN, đưa ra đề xuất về

hồn thiện khn khổ pháp lý, hài hòa các mục tiêu và bảo vệ lợi ích người dân, doanh
nghiệp và xã hội; bài viết của TS Hà Huy Tuấn, 2014 về “Vai trò của chính sách BHTG
và những vấn đề cần hồn thiện để bảo vệ tốt quyền lợi người gửi tiền”, số 25 Thông tin
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, bài viết đã tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
việc xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền một cách hợp lý, xác định
mức phí phải nộp của tổ chức tham gia BHTG cần mang tính chủ động và tích cực hơn.
Đồng thời chỉ ra cơ chế trao đổi, tiếp nhận và xử lý thông tin nhằm bảo vệ quyền lợi
người gửi tiền. Và “Nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm nhằm ổn định tâm lý và bảo đảm
quyền lợi người gửi tiền trong tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2016 2020”, số 35, 2017 Bản tin của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, bài viết chỉ ra sự cần thiết

10


phải quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm nhằm giúp người gửi tiền an tâm hơn khi gửi
tiền tại các TCTD. PGS, TS Nguyễn Thị Mùi, 2016 “Nâng cao vai trị của bảo hiểm tiền
gửi trong mạng an tồn tài chính quốc gia” [77], số 33 Thơng tin Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam, bài viết đã đánh giá vai trò của BHTGVN trong những năm qua, đồng thời chỉ ra
một số hoạt động, chính sách cịn bất cập về chi trả, giám sát, đánh giá rủi ro và sự phối
hợp giữa các thành viên trong mạng an toàn tài chính. Từ đó chỉ ra sự cần thiết và vai trị
của BHTGVN trong việc duy trì sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia [66].
Bài viết, Mối quan hệ giữa bảo hiểm tiền gửi và kỷ luật thị trường ngành ngân
hàng Việt Nam [20], 2014, của tác giả TS. Nguyễn Chí Đức & Nguyễn Tuấn Vũ, Số
18/2014, Tạp chí Phát triển và Hội nhập. Các tác giả đã tập trung phân tích mối quan hệ
giữa BHTG và kỷ luật thị trường ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và 20 ngân
hàng thương mại (NHTM) nói riêng trong giai đoạn 2003 - 2013. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng giữa BHTG và kỷ luật thị trường thực sự có mối quan hệ với nhau khi chúng
ta nghiên cứu thông qua khía cạnh lãi suất huy động. Tác giả TS Vũ Văn Long, 2017
với bài viết về “Cơ chế đầu tư vốn nhàn rỗi của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, liên hệ với
Việt Nam” [38], số 37 Bản tin của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, bài viết tập trung
nghiên cứu về trách nhiệm của BHTGVN trong việc đầu tư, quản lý an toàn các quỹ; về

nguồn vốn nhàn rỗi của tổ chức BHTG của một số quốc gia trên thế giới, có sự liên hệ
với pháp luật và thực tiễn của BHTGVN.
TS Võ Trí Thành, 2014 với bài viết “Một số vấn đề về bảo hiểm tiền gửi và phí
bảo hiểm tiền gửi”, số 26 Thơng tin Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bài viết tập trung
nghiên cứu các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hay thụ
hưởng các dịch vụ tài chính như dịch vụ nhận tiền gửi, qua đó tạo thêm khả năng đảm bảo
sự ổn định và phát triển lành mạnh hệ thống tài chính ngân hàng. Tác giả TS. Nguyễn
Đức Kiên, 2017, với bài viết: “Nâng cao vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong quá
trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng” [35], số 36 Bản tin của Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam, bài viết đã đưa ra vấn đề làm thế nào để BHTGVN khẳng định vai trị trong q
trình tái cơ cấu các TCTD. Để làm được điều đó BHTGVN cần hồn thiện hành lang
pháp lý, giao thêm quyền hạn, trách nhiệm cho tổ chức BHTGVN trong dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng; BHTGVN cần xây dựng chiến
lược phát triển với tầm nhìn dài hạn. Bên cạnh đó, TS. Nguyễn Tồn Thắng, 2016, bài
viết “Sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và vai trị của
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam” [67], số 34 Bản tin Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, bài viết
đã khẳng định sự ra đời của định chế tài chính BHTG là yêu cầu cấp thiết, khách quan
và chỉ rõ vai trò của BHTGVN đối với sự phát triển an toàn, lành mạnh hệ thống các
TCTD; đặc biệt là trong giai đoạn tái cơ cấu các TCTD gắn liền với xử lý nợ xấu.
11


Ngồi ra, cịn có rất nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan đến hoạt động
BHTG đã được cơng bố, kết quả nghiên cứu của các tác giả sẽ là nguồn tài liệu quý để
tác giả luận án có thể tham khảo, kế thừa trong q trình hồn thành luận án.
1.1.1.2. Đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến vị trí, vai trị, chức năng
của bảo hiểm tiền gửi
Một là, các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước đã làm rõ các nội dung
liên quan về BHTG như:
Nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của hoạt động BHTG, xuất hiện

đầu tiên với khái niệm là bảo vệ tiền gửi và được sử dụng ở nhiều quốc gia từ khi hoạt động
BHTG công khai chưa xuất hiện, bảo vệ tiền gửi đã được nhiều quốc gia thực hiện dưới các
hình thức “bảo vệ ngầm”. Và BHTG ra đời là xuất phát từ hoạt động “bảo vệ tiền gửi công
khai”. Bảo vệ tiền gửi công khai là chính sách đảm bảo tất cả hoặc một phần tiền gửi cùng
với tiền lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ được thanh toán cho người gửi tiền theo cơ
chế hợp đồng hoặc cam kết công khai. Bảo vệ tiền gửi công khai đầu tiên được thành lập ở
Mỹ với danh hiệu “chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng” được thực hiện ở New
York năm 1829. “Trách nhiệm” được hàm ý trong chương trình này muốn được đề cập đến
tiền gửi ngân hàng và chứng chỉ huy động tiền gửi [57, tr12].
Nghiên cứu về khái niệm, vai trò của bảo hiểm tiền gửi: BHTG là cam kết công
khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG về việc tổ chức BHTG sẽ chi
trả tiền gửi bao gồm phần gốc và lãi cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị
chấm dứt hoạt động và khơng có khả năng thanh tốn cho người gửi tiền. Về thực chất
cam kết cơng khai này hình thành hợp đồng bảo hiểm giữa ba đối tác, tổ chức BHTG, tổ
chức huy động tiền gửi (còn gọi là tổ chức tham gia BHTG) và người gửi tiền. Phát
triển hoạt động BHTG được hiểu là sự mở rộng về quy mô hoạt động và nâng cao hiệu
quả hoạt động nhằm đạt được sự nâng cao về tầm quan trọng, vai trị và vị trí của hoạt
động BHTG của quốc gia trong nền kinh tế của đất nước và trên trường quốc tế.
Vai trò của hoạt động BHTG đối với quốc gia thể hiện trên nhiều góc độ do xuất
phát từ bản chất của hàng hóa mà dịch vụ BHTG cung cấp là loại hàng hóa được mệnh
danh “hàng hóa cơng khơng thuần túy”, có khả năng cung cấp tiện ích cho tất cả các
thành viên trong cộng đồng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Vai trò nổi bật của hoạt
động BHTG là có tác dụng thúc đẩy sự kết hợp hài hòa giữa nổ lực nâng cao chất lượng
hoạt động ngân hàng, hướng tới thu hút được tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
cộng đồng và sự cộng tác tích cực của các thành viên trong mạng xã hội trên cơ sở các
bên cùng có lợi, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế vững chắc.
Hai là, những vấn đề liên quan đến BHTG chưa được đề cập hoặc đã đề cập
nhưng chưa được giải quyết trong các cơng trình khoa học đã công bố và luận án sẽ
12



nghiên cứu làm rõ. Bao gồm:
Khẳng định địa vị pháp lý và mơ hình BHTG phù hợp nhất đối với Việt Nam
hiện nay và trong thời gian tới.
Làm rõ chủ thể trong quan hệ BHTG, cơ sở xác lập và những vấn đề pháp lý liên
quan đến quan hệ BHTG.
Xác định mức phí BHTG: Theo quy định của pháp luật hiện hành, mức phí
BHTG được quy định đối với từng tổ chức tham gia BHTG dựa trên cơ sở kết quả đánh
giá mức độ rủi ro của từng tổ chức tham gia BHTG (phí phân biệt; nghĩa là Luật BHTG
khơng quy định khung phí và mức phí cứng). Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các quy
định của pháp luật về BHTG cho thấy, hiện nay BHTGVN vẫn đang áp dụng phương
pháp tính và thu phí đồng hạng như trước đây, được áp dụng chung cho tất cả các tổ
chức tham gia BHTG, điều này thể hiện sự hạn chế và không đảm bảo nguyên tắc thị
trường, theo hướng tổ chức tín dụng nào có mức độ rủi ro cao thì phải đóng phí cao và
ngược lại. Mức phí BHTG đang được áp dụng hiện nay là 0,15% trên tổng số dư bình
quân tiền gửi được bảo hiểm cho tất cả các tổ chức tham gia BHTG là chưa phù hợp.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu để ban hành quy định về phí BHTG cho
phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Xác định hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi: Trong điều kiện phát triển kinh tế xã
hội hiện nay, mức thu nhập của người dân thay đổi nhanh chóng thì việc quy định một
hạn mức chi trả BHTG trong Luật BHTG sẽ giảm tính linh hoạt và dẫn đến tình trạng
quy định trong Luật không theo kịp sự thay đổi trong thực tiễn. Do vậy, NHNNVN cần
phải linh hoạt áp dụng Luật cho phù hợp trong từng thời kỳ.
Làm rõ quy định về thời điểm phát sinh nghĩa vụ chi trả tiền bảo hiểm cho người
gửi tiền: Quy định này thể hiện sự cam kết của nhà nước trong việc đảm bảo an toàn đối
với tiền gửi của người gửi tiền trong hạn mức BHTG. Luật BHTG quy định thời điểm
phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kể từ thời điểm NHNN có văn bản chấm dứt kiểm
sốt đặc biệt (KSĐB) hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng
thanh toán mà TCTD là tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc
mất khả năng chi trả cho người gửi tiền. Quy định này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của

người gửi tiền vì thời gian KSĐB thường kéo dài [8].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi và
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
1.1.2.1. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi và
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
Trong thời gian qua, các cơng trình, bài viết nghiên cứu về BHTG ở các quốc gia
trên thế giới khá được quan tâm, có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu như:
13


Perbadanan Insurans Deposit Malaysia (PIDM), Summary of the Corporate Plan 2018 2020 - BHTG Malaysia xác định những mục tiêu chiến lược nào cho 3 năm tới?; Will
crashed banks' assets be liquidated in new way in Russia? [101]; Thực trạng hoạt động của
LPS Pays IDR36, 8 Billion in Bank Customer Claim in 2017 [102]; Đánh giá về các hệ
thống bảo hiểm tiền gửi, Báo cáo đánh giá đồng đẳng (Peer review Report) [89];
International Association of Deposit Insures, Xử lý các cuộc khủng hoảng hệ thống [92];
Guide to Intervention for Federally Regulated Deposit-Taking Institutions, 2014 [97].
Xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu đã đem lại nhiều bài học cho
các thành viên của FSB. Hiệu quả các hệ thống BHTG của các quốc gia trong việc bảo
vệ người gửi tiền và duy trì sự ổn định tài chính đã được thử thách, nhiều cải cách cũng
được tiến hành lần lượt để nâng cao chất lượng hệ thống ở những nội dung cần thiết.
Tốc độ áp dụng những biện pháp đặc biệt của các nước thành viên nhằm nâng cao niềm
tin của người gửi tiền là tín hiệu cho thấy tầm quan trọng và sự cần thiết của việc xây
dựng một hệ thống BHTG hiệu quả. Từ đó, nhiệm vụ của BHTG cũng mở rộng hơn, với
nhiều tổ chức BHTG hơn có các trách nhiệm vượt ngồi chức năng chi trả, bao gồm cả
việc tham gia vào quá trình xử lý. BHTG cơng khai có giới hạn trở thành một lựa chọn
thơng dụng của các quốc gia thành viên.
Cơng trình nghiên cứu của Ủy ban Nghiên cứu và Hướng dẫn của Hiệp hội bảo
hiểm tiền gửi quốc tế - IADI thực hiện tháng 7 năm 2012 đã đánh giá các ứng phó đối
với khủng hoảng của các tổ chức BHTG trên thế giới để xử lý rủi ro và khủng hoảng hệ
thống trong giai đoạn khủng hoảng tài chính tồn cầu 2007/2008. Qua đó tìm ra cách

thức để phịng ngừa hiệu quả và vượt qua khủng hoảng trong tương lai. Hơn thế, họ đã
tăng hạn mức được bảo hiểm và giảm thời gian chi trả để bảo vệ người gửi tiền và nâng
cao niềm tin công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng. Dường như cuộc khủng
hoảng này đã nâng cao hiểu biết về tầm quan trọng của hệ thống BHTG như là một bộ
phận của mạng an toàn tài chính. Tài liệu này, dựa trên các khảo sát của thành viên
IADI và EFDI cũng như xem xét lý thuyết về khủng hoảng hệ thống, đã nêu lại vai trò
và trách nhiệm của tổ chức BHTG trong việc xử lý khủng hoảng hệ thống.
Ngoài ra, tài liệu hướng dẫn can thiệp cho các tổ chức tài chính Liên bang của tổ
chức BHTG Canada (CDIC), năm 2014, mục tiêu của q trình can thiệp là cho phép
OSFI (văn phịng Tổng giám đốc các tổ chức tài chính - là cơ quan độc lập của Chính
phủ Canada) và CDIC (nơi các tổ chức thành viên CDIC tham gia) xác định các lĩnh
vực quan tâm ở giai đoạn sớm và can thiệp hiệu quả để giảm thiểu thiệt hại cho người
gửi tiền đối với OSFI và giảm thiểu sự phơi nhiễm của CDIC đối với tổn thất. Quy chế
của các định chế tài chính cung cấp một loạt quyền hạn can thiệp tùy ý cho phép OSFI
14


và CDIC can thiệp để giải quyết các mối quan tâm có thể nảy sinh với các tổ chức nhận
tiền gửi do liên bang quản lý. Tất cả các đánh giá được thực hiện trong suốt quá trình
can thiệp đều xem xét các trường hợp duy nhất của tổ chức tài chính bao gồm: tính chất,
phạm vi, độ phức tạp và hồ sơ rủi ro. Vai trò của OSFI và CDIC có trách nhiệm chính
trong việc điều chỉnh và giám sát các tổ chức nhận tiền gửi do liên bang quy định. Khi
thực hiện trách nhiệm này, OSFI thực hiện các đánh giá dựa trên rủi ro về tính an tồn
và chính xác của các tổ chức này.
Hay báo cáo nghiên cứu về chính sách và cơng việc của BHTG để khuyến khích
trao đổi ý tưởng về các vấn đề liên quan đến BHTG nhằm thúc đẩy phát triển hoạt động
BHTG, báo cáo đã đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về BHTG tại các quốc gia trên
thế giới, chỉ ra những hạn chế về nội dung hoạt động BHTG, nghiên cứu này có ý nghĩa
rất lớn trong việc quản lý, xây dựng chính sách về BHTG ở các quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, các cơng trình nghiên cứu về cơ chế chính sách và pháp luật liên

quan đến BHTG đã được quan tâm, nó là cơ sở để ban hành Luật BHTG và hoàn thiện
pháp luật về BHTG trong thời gian tới, như: Bài viết của TS. Đinh Dũng Sỹ: “Bảo hiểm
tiền gửi và vấn đề an tồn tín dụng”, Tạp chí Luật học số tháng 6/2002; “Khái niệm tiền
gửi cá nhân được bảo hiểm nhìn dưới phương diện pháp lý”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
đối tượng tiền được bảo hiểm, tháng 10/2004; “Mơ hình bảo hiểm tiền gửi hiện nay và
những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng Luật bảo hiểm tiền gửi” Tạp chí nghiên cứu
lập pháp số 1/2008; TS. Lê Thị Thu Thủy: Bàn về mơ hình bảo hiểm tiền gửi trong thời
kỳ hội nhập quốc tế, Tạp chí Luật học số 12 năm 2007; Sách chuyên khảo “Pháp luật về
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam”, 2008 [76, 77]; GS.TSKH Đào Trí Úc với bài viết “Bảo
vệ quyền lợi người gửi tiền theo pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam - Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện” [81]; Ngọc Nhi, 2017, với bài viết “Vai trò ổn định
hệ thống ngân hàng của bảo hiểm tiền gửi Đức” [55]; TS. Bùi Tín Nghị, 2017, với bài
viết “Phát huy vai trị chính sách bảo hiểm tiền gửi để năng cao hiệu quả bảo vệ người gửi
tiền” [54]; ThS. Nguyễn Duy Hoàn, 2009, với bài viết “Yêu cầu cấp thiết nâng cao hiệu
quả hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam”; Tác giả TS. Trần Du Lịch, 2013, với bài
viết “Những vấn đề cần quan tâm khi triển khai luật bảo hiểm tiền gửi” [37]; Bài viết của
TS. Nguyễn Mạnh Dũng, 2007, về “Kinh nghiệm xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi tại
Đài Loan” [18].
Các cơng trình nghiên cứu đã tập trung phân tích sâu sắc về bản chất của hoạt
động tín dụng, ngân hàng; tính rủi ro của hoạt động đó; vai trị của BHTG trong đảm
bảo an tồn đối với hoạt động tín dụng, ngân hàng; đưa ra các yêu cầu trong việc thiết
lập các quy định pháp luật về BHTG nhằm bảo đảm sự an tồn đối với hoạt động tín
15


dụng, ngân hàng. Đồng thời khẳng định vai trò của pháp luật về BHTG của Việt Nam
trong vấn đề bảo vệ người gửi tiền; đánh giá những yếu tố kinh tế, xã hội tác động đến
việc hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ người gửi tiền tại các tổ
chức tham gia BHTG.
Các tác giả cũng quan tâm, làm rõ những nội dung chủ yếu của chính sách BHTG và

những hạn chế của chính sách BHTG ở Việt Nam hiện nay, qua đó tác giả đề xuất một số
kiến nghị nhằm nâng cao và phát huy hiệu quả hơn nữa vai trị của chính sách BHTG đối với
việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Từ đó khẳng định vai trị của tổ chức BHTG trong việc
xử lý khủng hoảng tài chính, đưa ra những cơ sở pháp lý để hoàn thiện pháp luật về BHTG ở
Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách BHTG.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực chun mơn thì nghiên cứu về
BHTG còn là đề tài được nhiều cơ sở đào tạo, học viên và nghiên cứu sinh lựa chọn để làm
cơng trình nghiên cứu chun sâu của mình, có thể kể đến các cơng trình tiêu biểu như:
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Oanh, 2004 về “Giải pháp phát triển hoạt
động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” [58]; Luận án tiến sĩ của Đào Văn Tuấn, 2005 về:
“Giải pháp hồn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế” [80]; Luận án tiến sĩ của Bùi Hữu Toàn, 2012, về “Pháp luật về
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế” [78]; Luận án Tiến sĩ
của Lê Việt Nga, 2012, về “Quản lý hoạt động bảo hiểm tiền gửi của tổ chức Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam hiện nay” [48]; Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đăng Quân, 2018,
về “Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam, từ thực tiễn các ngân hàng
thương mại” [62].
Các luận án đã nghiên cứu công phu những điều kiện về kinh tế, xã hội, tài
chính, ngân hàng tác động đến sự hình thành và phát triển của BHTG ở các nước và ở
Việt Nam; đã đề cập đến một số nội dung về hoạt động nghiệp vụ BHTG tại Việt Nam,
đánh giá thực trạng hoạt động BHTG ở Việt Nam; phân tích những phương hướng nâng
cao hoạt động BHTG ở Việt Nam. Từ việc phân tích thực trạng hoạt động BHTG ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế quốc tế, các luận án đã đưa ra
những giải pháp mang tính chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTG ở
Việt Nam trong bối cảnh các tổ chức tín dụng thực sự tham gia vào cuộc cạnh tranh
trong lĩnh vực Ngân hàng.
Luận văn thạc sĩ của Bùi Thu Hương, 2010 về: “Hoàn thiện nghiệp vụ bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”[33]; Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị
Hiển, 2008 về “Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam”[22]; Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Duy Hoàn, 2011, về “Pháp luật về Tổ

16


chức Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam” [31]; Nguyễn Cửu Lan Phương, 2012, về “Pháp
luật về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - Thực trạng và hướng
hoàn thiện" [61]; Trần Thị Nguyệt, 2014, “Quyền và nghĩa vụ của cơ quan Bảo hiểm
tiền gửi theo pháp luật Việt Nam” [56].
Các luận văn tập trung nghiên cứu và làm rõ quyền và nghĩa vụ của cơ quan
BHTG theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở phân tích các quy định hiện
hành có sự so sánh với các quy định trước đây cũng như các thông lệ quốc tế và pháp
luật của một số nước trên thế giới về một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơ quan
BHTG, từ đó đưa ra một số nhận xét đánh giá và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về quyền và nghĩa vụ của cơ quan BHTG nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
tổ chức BHTGVN.
Và đề tài nghiên cứu khoa học của Học viện Ngân hàng, 2009 về “Bảo hiểm tiền
gửi trong việc bảo đảm an tồn tài chính quốc gia tại Việt Nam - thực trạng và giải
pháp” đã đưa ra một số vấn đề lý luận về BHTG, vai trị của BHTG trong việc bảo đảm
an tồn tài chính quốc gia, chỉ ra những mặt tích cực của BHTG và những mặt tiêu cực
của BHTG trong việc bảo đảm vai trị đó và ngun nhân của những mặt tiêu cực nói
trên, đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng của BHTG trong việc bảo đảm an toàn
tài chính ở Việt Nam.
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu khá tổng quát và tương đối
đầy đủ về các vấn đề liên quan đến hoạt động BHTG và pháp luật về BHTG của một số
quốc gia trên thế giới. Từ khi BHTG bắt đầu triển khai thực hiện tại Việt Nam đến nay, đã
có rất nhiều bài báo, bài tham luận của các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế, tài
chính - ngân hàng, pháp luật về BHTG được đăng tải trên các tạp chí chun ngành trong
và ngồi nước. Các cơng trình nghiên cứu về BHTG đã xây dựng được một số vấn đề thuộc
hệ thống lý luận về BHTG, đánh giá thực trạng hoạt động của BHTGVN, đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về BHTG nhằm mục đích bảo vệ
quyền và lợi ích của người gửi tiền, góp phần bảo đảm sự phát triển an tồn, lành mạnh cho

hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Kết quả nghiên cứu của các
cơng trình là cơ sở để luận án có thể tham khảo, kế thừa, đánh giá và tiếp tục hoàn thiện các
vấn đề liên quan đến BHTG ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2.2. Đánh giá các cơng trình nghiên cứu về hoạt động bảo hiểm tiền gửi và
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
Các cơng trình nghiên cứu đã làm rõ các vấn đề mà luận án sẽ kế thừa như:
- Khẳng định vai trò của BHTG đối với nền kinh tế;
- Chính sách về hạn mức BHTG là một công cụ quan trọng để bảo vệ người gửi
17


tiền, duy trì niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng và thể hiện cam kết
của tổ chức BHTG đối với khách hàng;
- Chức năng giám sát là một chức năng quan trọng của BHTG, phải được thực
hiện thường xuyên, liên tục nhằm phát hiện và cảnh báo sớm đối với những rủi ro của
hệ thống tài chính ngân hàng.
Luật BHTG đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích
hợp pháp của người gửi tiền, duy trì sự ổn định, phát triển an toàn lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng.
Yêu cầu nâng cao chất lượng của hoạt động BHTG và tổ chức BHTG có ý nghĩa
thiết thực đối với sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng.
Quá trình nghiên cứu, tác giả thấy rằng việc áp dụng các quy định của pháp luật
về BHTG đã mang lại nhiều ý nghĩa về mặt kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, các quy định này
hiện nay cũng đã bộc lộ những bất cập như: hạn mức chi trả tiền gửi quá thấp; mặc dù
Luật BHTG đã quy định về việc thu phí BHTG dựa trên cơ sở kết quả đánh giá và phân
loại đối với các tổ chức tham gia BHTG, tuy nhiên hiện nay phí BHTG vẫn đang được
áp dụng theo cơ chế đồng hạng, điều đó không đảm bảo yếu tố thị trường và công bằng
đối với các tổ chức tham gia BHTG; quy định liên quan đến địa vị pháp lý, mơ hình của
tổ chức BHTGVN chưa đầy đủ; quy định về cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ
quan giám sát tài chính chưa rõ ràng, minh bạch; vai trị của tổ chức BHTGVN trong

việc xử lý đổ vỡ đối với các TCTD chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực
tiễn của thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam. Cụ thể, những hạn chế này được thể
hiện ở các phương diện sau:
Một là, quy định về hạn mức trả tiền bảo hiểm; xử lý số tiền gửi vượt hạn mức
trả tiền bảo hiểm tại Điều 24, Điều 27 Luật BHTG năm 2012 hiện nay chưa phù hợp.
Do vậy, để đảm bảo tốt hơn quyền lợi người gửi tiền, ổn định tâm lý, tạo dựng niềm tin
công chúng vào các ngân hàng, cần nghiên cứu nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm, hạn
mức chi trả hợp lý hơn.
Hai là, Trên cơ sở khung phí BHTG do Thủ tướng Chính phủ quy định, NHNN
quy định mức phí cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và
phân loại các tổ chức này (nghĩa là thu phí dựa trên cơ sở rủi ro). Tuy nhiên, thực tiễn
thực hiện các quy định của pháp luật về BHTG, hiện nay BHTGVN vẫn đang áp dụng
phương thức tính và thu phí đồng hạng đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG như
trước đây. Cụ thể, mức phí BHTG vẫn đang được áp dụng đồng hạng là 0,15% trên tổng
số dư bình quân tiền gửi được bảo hiểm, hình thức đóng phí này có ưu điểm là không
phải đánh giá, phân loại các TCTD. Tuy nhiên, tỷ lệ phí BHTG đồng hạng quy định
18


theo kiểu cào bằng đối với mọi TCTD, không phân biệt quy mơ, hình thức sở hữu, cũng
như mức độ rủi ro của TCTD tham gia BHTG, mà chưa có sự phân hạng theo mức độ
rủi ro, hoạt động của các TCTD, tạo ra sự ỷ lại, khơng có tác dụng khuyến khích các
TCTD đua nhau thực hiện tốt, an tồn để hưởng phí BHTG thấp, thúc đẩy TCTD chấp
nhận rủi ro cao hơn trong hoạt động của mình.
Ba là, về quyền tiếp cận thông tin của người được BHTG và nghĩa vụ của tổ chức
BHTG chưa được quy định cụ thể, đôi khi ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền.
Bốn là, về bản chất, tổ chức BHTG dù được tổ chức và hoạt động dưới bất kỳ hình
thức nào: là tổ chức tài chính thuộc Chính phủ hay thuộc Quốc hội, là một định chế tài
chính độc lập… thì hoạt động của tổ chức BHTG vẫn cơ bản dựa theo nguyên lý hoạt
động của bảo hiểm nói chung là bù đắp rủi ro theo cơ chế lấy số đơng bù cho số ít. Đây là

hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, do vậy thông thường Nhà nước phải đứng ra thành lập tổ
chức BHTG để bảo vệ quyền lợi của công chúng khi họ gặp rủi ro về tiền gửi. Tuy nhiên,
trong kinh tế hiện đại, BHTG phải thực hiện được vai trò nhất định trong việc tham gia
quản lý rủi ro của các NHTM, các tổ chức tham gia BHTG khác, và hơn nữa là có vai trị
trong giám sát và góp phần bảo đảm an tồn của hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia.
Từ những kết quả nghiên cứu của các cơng trình trong và ngồi nước, luận án sẽ
có những kế thừa trong quá trình nghiên cứu về BHTG và tổ chức BHTG ở Việt Nam,
đồng thời luận án dự kiến sẽ nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề sau:
(1) Làm rõ địa vị pháp lý của tổ chức BHTGVN trong hệ thống tài chính ngân
hàng và đặc biệt là trong mạng an tồn tài chính quốc gia.
(2) Làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về BHTG; tập trung
nghiên cứu thực trạng triển khai chủ trương chính sách và pháp luật về BHTG từ thực
tiễn hoạt động của tổ chức BHTGVN thông qua các hoạt động nghiệp vụ cụ thể như: cơ
sở xác lập quan hệ BHTG, phí và sử dụng phí bảo hiểm tiền gửi, hoạt động kiểm tra,
giám sát, chi trả v.v…
(3) Đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật hiện hành của Việt Nam về
BHTG và tổ chức BHTGVN.
1.2. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
1.2.1. Cơ sở lý thuyết để giải quyết các yêu cầu của luận án
Để triển khai thực hiện đề tài luận án, nghiên cứu sinh dựa trên những cơ sở lý
thuyết sau đây:
- Các lý thuyết về cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các trường
phái như: Lý thuyết cạnh tranh của trường phái cổ điển mà đại diện là lý thuyết cạnh
tranh của Adam Smith, của Jonh Stuart Mill; lý thuyết cạnh tranh tự do, lý thuyết về bảo
19


hiểm, lý thuyết về thông tin bất cân xứng, lý thuyết quản trị rủi ro… Có thể nói, trong
kinh tế chính trị học thì cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong
nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu

thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh
có thể xảy ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng; giữa người tiêu dùng với
nhau để mua được hàng hóa rẻ hơn; giữa những người sản xuất để có những điều kiện
tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ.
Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi
nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả của q trình cạnh tranh là sự bình
qn hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có
thể giảm đi. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các
doanh nghiệp trên thị trường nhằm giành giật được ưu thế hơn về cùng một loại sản
phẩm hàng hoá dịch vụ, về cùng một loại khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. Như
vậy, trong bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào dù là có quy mơ hoạt động lớn hay quy
mô hoạt động nhỏ, dù là hoạt động đó đứng ở tầm vĩ mơ hay vi mơ thì khơng thể thiếu
vắng sự có mặt của hoạt động cạnh tranh.
Hoạt động của các TCTD trong nền kinh tế cũng mang tính cạnh tranh cao và
chịu nhiều sự tác động từ các yếu tố khách quan. Chính vì vậy, lý thuyết cạnh tranh
được áp dụng để giải quyết những nội dung trong luận án như: phân tích các khái niệm,
đặc điểm, vai trò của BHTG; phân biệt BHTG với một số loại hình bảo hiểm thương mại
khác, đặc biệt quan trọng trong việc phản ánh thực tiễn áp dụng pháp luật về BHTG của tổ
chức BHTGVN.
- Các lý thuyết về phòng ngừa, phân chia, hạn chế rủi ro và quan điểm về vai trò
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được áp dụng để xác định các nội dung như:
xác định vai trò của BHTG, quyền và lợi ích của người gửi tiền, phí BHTG, hạn mức
chi trả BHTG, phương thức xác lập quan hệ BHTG, cách thức, thời gian chi trả tiền bảo
hiểm… tất cả những hoạt động này phải tuân theo quy định của pháp luật, các chuẩn
mực, thông lệ quốc tế và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia.
Nghiên cứu về quản lý rủi ro trong bảo hiểm đã được thực hiện, nghiên cứu áp
dụng cho nhiều loại hình dự án, đối tượng, sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, kỹ
thuật bởi các nhà khoa học trên thế giới đã đạt được kết quả và thành tựu nhất định.
- Lý thuyết về thể chế kinh tế thị trường, lý thuyết về pháp lý: Phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề căn bản của triết lý

phát triển ở Việt Nam. Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết phải “bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Ở Việt Nam
20


hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ xuất phát từ yêu cầu phổ biến
của q trình phát triển kinh tế thị trường, mà cịn xuất phát từ tính đặc thù của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nghiên cứu về lý thuyết về thể chế kinh tế thị
trường là cơ sở để giải quyết những bất cập, hạn chế gặp phải khi thực hiện và áp dụng
pháp luật là căn cứ để kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện cơ chế chính
sách về hoạt động BHTG và tổ chức BHTGVN.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Từ những cơ sở lý thuyết nêu trên, luận án được triển khai với các câu hỏi nghiên
cứu tập trung vào các khía cạnh: Lý luận, thực tiễn pháp lý và các đề xuất kiến nghị:
- Câu hỏi nghiên cứu: Pháp luật về BHTG ở Việt Nam hiện nay đang ở trạng thái
như thế nào và thực tiễn thi hành ở tổ chức BHTGVN có thuận lợi hay khó khăn gì
khơng? cần phải hồn thiện ra sao để nâng cao hiệu quả trong việc điều chỉnh quan hệ
BHTG giữa tổ chức tham gia BHTG với tổ chức BHTG nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi
cho người gửi tiền?
- Giả thuyết nghiên cứu: Quy định của pháp luật về BHTG đã và đang bộc lộ những
hạn chế, bất cập nhất định cần phải được hoàn thiện theo hướng đảm bảo tính hợp lý của
mơ hình BHTG, tính hợp lý của mức phí BHTG và hạn mức chi trả tiền bảo hiểm, đảm bảo
tính hiệu quả trong thực thi chính sách BHTG vì mục đích bảo vệ quyền lợi của người gửi
tiền, từ đó đảm bảo tính ổn định trong hoạt động của các TCTD và nền kinh tế.
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu và giải quyết tốt giả thuyết nghiên cứu trên đây, kết quả
nghiên cứu của luận án sẽ trả lời các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu cụ thể sau đây:
Thứ nhất, về phương diện lý luận, luận án hướng tới giải quyết những câu hỏi
nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Câu hỏi nghiên cứu: Luận án kế thừa các kết quả nghiên cứu của các cơng trình đã
cơng bố về khái niệm BHTG, mục tiêu và vai trò của BHTG, phân loại BHTG. Luận án tập

trung giải quyết các vấn đề chưa được đề cập hoặc chưa được giải quyết cụ thể như: Bản
chất và mơ hình BHTG trên thế giới và mơ hình BHTG ở Việt Nam hiện nay được tổ chức
như thế nào, trong tương lai sẽ phát triển ra sao? Địa vị pháp lý của tổ chức BHTG trong
nền kinh tế như thế vào? Cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật đối với BHTG?
- Giả thuyết nghiên cứu: (i) Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức
BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG về việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi cho người
gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và khơng có khả năng thanh
tốn cho người gửi tiền; (ii) Mơ hình của BHTG được thực hiện theo quy định của pháp
luật hiện nay có những thuận lợi và khó khăn như thế nào? Mục tiêu của BHTG nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ
21


thống các TCTD, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng;
(iii) Cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với BHTG là cơ chế đặc thù, khơng hồn tồn
dựa trên quan hệ hợp đồng và có sự can thiệp của Nhà nước vào quan hệ BHTG nhằm
bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
- Dự định kết quả nghiên cứu: Làm rõ các vấn đề lý luận về BHTG; địa vị pháp
lý của tổ chức BHTGVN và cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ BHTG trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, về phương diện luật thực định, luận án hướng tới giải quyết những câu
hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Câu hỏi nghiên cứu: Thực trạng pháp luật về BHTG và thực tiễn thi hành tại tổ
chức BHTGVN hiện nay diễn ra như thế nào, các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền
lợi của người gửi tiền và nền kinh tế, có những khó khăn, vướng mắc gì bắt nguồn từ
quy định của pháp luật hoặc trong quá trình tổ chức thực hiện.
- Giả thuyết nghiên cứu: Các quy định về BHTG hiện nay chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn hoạt động BHTG ở Việt
Nam, đặc biệt là các quy định về chủ thể tham gia, đối tượng bảo hiểm, hoạt động kiểm
tra, giám sát…, ngồi ra cịn có sự khơng thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp

luật liên quan đến BHTG như: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Các tổ chức
tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi, Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương
mại… Bên cạnh đó, quá trình tổ chức thực hiện tại các tổ chức tham gia BHTG cũng
gặp những khó khăn, vướng mắc cần được nghiên cứu.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: Chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong q trình thực
thi chính sách BHTG tại tổ chức BHTGVN thời gian qua; đồng thời chỉ rõ những hạn chế,
bất cập của pháp luật hiện hành về BHTG so với thực tiễn hoạt động BHTG ở Việt Nam và
thông lệ quốc tế về BHTG, cần được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện.
Thứ ba, về kiến nghị, đề xuất.
- Câu hỏi nghiên cứu: Cần xây dựng thống nhất, hoàn thiện các quy định pháp
luật về BHTG và tổ chức BHTGVN? Cơ sở khoa học, mục đích, yêu cầu của việc xây
dựng thống nhất, hoàn thiện các quy định của pháp luật về BHTG là gì?
- Giả thuyết nghiên cứu: Xu thế hội nhập và phát triển kinh tế xã hội của Việt
Nam và thế giới những năm qua và trong thời gian tới cần khẳng định đã đến lúc
Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về BHTG vì có nhiều
bất cập, hạn chế.
- Dự kiến kết quả nghiên cứu: (i) Xây dựng được cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật về BHTG. Xác định mục đích, yêu cầu
22


của việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về BHTG; (ii) Trong lĩnh vực lập pháp cần nhanh
chóng sửa đổi một số quy định của pháp luật để thống nhất trong quy định về BHTG: Nghiên
cứu, đề xuất với NHNNVN xem xét, đề xuất Chính phủ sửa đổi các văn bản luật liên quan để
BHTGVN có thể tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu các TCTD yếu kém, nâng hạn
mức trả tiền bảo hiểm phù hợp với yêu cầu thực tế để nâng cao niềm tin công chúng vào các
TCTD và hệ thống tài chính ngân hàng.
Kết luận chƣơng 1
Chương 1, luận án đã tìm hiểu các cơng tình nghiên cứu liên quan đến BHTG,
như bắt đầu từ sự ra đời của định chế tài chính BHTG tại Mỹ đến khi Hiệp hội BHTG

Quốc tế được thành lập và tổ chức BHTG được thành lập ở Việt Nam, điều này đã
khẳng định tầm quan trọng của định chế tài chính BHTG đối với hệ thống tiền tệ ngân
hàng trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Các cơng trình nghiên cứu mà luận án tiếp cận đã nêu, phân tích, đánh giá dưới
nhiều góc độ khác nhau liên quan đến BHTG ở cả trong và ngồi nước. Kết quả nghiên
cứu của các cơng trình nêu trên có ý nghĩa lớn trong việc quản lý, xây dựng chính sách,
pháp luật về BHTG ở các quốc gia trên thế giới và đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay. Do
đó, trong Chương 1, luận án đã tập trung nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề liên quan
đến nội dung nghiên cứu của luận án như: tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước,
các cơng trình nghiên cứu đã nghiên cứu các nội dung cụ thể nào thuộc lĩnh vực BHTG,
luận án đã tìm hiểu, thống kê và đánh giá các cơng trình đã cơng bố để từ đó xác định
nhiệm vụ của luận án sẽ kế thừa và làm mới các nội dung cần nghiên cứu.
Có thể nói, các cơng trình nghiên cứu về BHTG đã xây dựng được một số vấn đề
thuộc hệ thống lý luận về BHTG, khẳng định được vai trò và nhiệm vụ của BHTG trong
việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần bảo đảm sự phát triển
an toàn, lành mạnh cho hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Kết
quả nghiên cứu của các cơng trình là cơ sở để luận án có thể tham khảo, kế thừa, đánh giá
và tiếp tục hoàn thiện các vấn đề liên quan đến BHTG ở Việt Nam hiện nay. Việc tìm hiểu
các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố giúp tác giả luận án có thể đặt ra các câu hỏi nghiên
cứu, đưa ra những giả thuyết nghiên cứu và dự định được kết quả nghiên cứu.
Các nội dung đã được nghiên cứu trong chương 1 là cơ sở cho việc tiếp tục
nghiên cứu trong chương 2, 3, 4 của luận án về pháp luật bảo hiểm tiền gửi, tổ chức
hoạt động của BHTGVN và những kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật BHTG.

23


CHƢƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI

2.1. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm tiền gửi
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo hiểm tiền gửi
2.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
Về khái niệm bảo hiểm
Để có cái nhìn khoa học về bản chất của BHTG, trước hết cần bắt đầu từ việc
làm rõ khái niệm về bảo hiểm.
Bảo hiểm có nguồn gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời, nhưng do tính đặc thù
của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về bảo
hiểm. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm, như:
Theo Dennis Kessler, “bảo hiểm là sự đóng góp của số đơng vào sự bất hạnh
của số ít”. Cịn theo Monique Gaullier, “bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là
người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong
muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận
được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm.
Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo
các phương pháp của thống kê” [107].
Các định nghĩa trên hoặc quá thiên về góc độ xã hội, hoặc quá thiên về góc độ
kinh tế, kĩ thuật, ít nhiều cũng cịn thiếu sót, chưa phải là một khái niệm bao qt, hồn
chỉnh. Nói một cách chính xác, bảo hiểm là một dịch vụ tài chính, dựa trên cơ sở tính
tốn khoa học, áp dụng biện pháp huy động nhiều người, nhiều đơn vị cùng tham gia
xây dựng quỹ bảo hiểm bằng tiền để bồi thường thiệt hại về tài chính do tài sản hoặc
tính mạng của người được bảo hiểm gặp phải tai nạn rủi ro bất ngờ.
Từ góc nhìn thực tiễn, Tập đoàn bảo hiểm AIG (Mỹ) đưa ra định nghĩa: “Bảo
hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức
chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được
bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả
những người được bảo hiểm”.
Trong khi đó, theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam, thì: “kinh doanh bảo
hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm

đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc
24


bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Điều này có nghĩa hoạt
động kinh doanh bảo hiểm được coi là một hoạt động kinh doanh đặc thù.
Từ kết quả phân tích trên đây về bảo hiểm, theo quan điểm của tác giả luận án,
có thể đưa ra định nghĩa về bảo hiểm như sau:
Bảo hiểm là cam kết giữa người bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm, theo đó
người bảo hiểm chấp nhận các rủi ro có thể xảy ra cho đối tượng được bảo hiểm để trả
tiền bồi thường tổn thất hoặc trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm
nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm như đã cam kết, với điều kiện người tham gia bảo hiểm
phải đóng phí bảo hiểm.
Về khái niệm bảo hiểm tiền gửi
Lịch sử phát triển ngân hàng trên thế giới cho thấy hoạt động BHTG công khai
được thực hiện từ rất sớm tại Mỹ vào năm 1829 nhằm đối phó với tình trạng đổ vỡ
mang tính chất định kỳ của các ngân hàng vào thế kỷ XIX. Hoạt động này nằm trong
chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân hàng nói chung và mục đích của nó là bảo vệ
cộng đồng khi có ngân hàng đổ bể và bảo vệ người gửi tiền cá thể, người giữ các công
cụ huy động tiền gửi cá thể.
Dưới góc độ nghiên cứu, có nhiều quan điểm khác nhau về BHTG và các quan
điểm này thường thể hiện những cách tiếp cận khác nhau về bản chất của BHTG. Theo
hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), BHTG được hiểu là “một hệ thống được thiết lập để
bảo vệ người gửi tiền trước những mất mát có thể xảy ra đối với tiền gửi được bảo hiểm
của họ trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi khơng thể hồn thành các nghĩa vụ nợ
theo cam kết đối với người gửi tiền” [25].
Theo quan điểm của tác giả Carl JohanLindgren, Gilian Garcia thì BHTG được
hiểu là “một cơ chế có giới hạn nhưng chính thức cung cấp sự bảo đảm mang tính pháp
lý cho các khoản gốc (và thường có cả lãi) của các khoản tiền gửi”. Theo tác giả Choi
J.B thì “BHTG là chính sách bảo đảm tất cả hoặc một phần tiền gửi cùng lãi nhập gốc

trên tài khoản tiền gửi sẽ được thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng nhận tiền
gửi bị phá sản hay mất khả năng thanh toán. [97].
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi
cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi
tiền hoặc phá sản”.
Trong pháp luật thực định Việt Nam, khái niệm “bảo hiểm tiền gửi” đã được ghi nhận
và giải thích tại Khoản 1 Điều 4 Luật BHTG năm 2012, theo đó: “Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo
đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ
25


×