Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.65 KB, 30 trang )

Bìa 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA/TRUNG TÂM…………………………….

TÊN ĐỀ TÀI: NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
TIẺU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Luật tố tụng Hình sự
Mã phách:………………………………….(Để trống)


Hà Nội – 2021


MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài: Cơ quan tiến hành tố tụng, tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng là những chủ thể của hoạt động tố tụng hình sự. Việc tham gia của những
người này rất quan trọng, bởi thế mà pháp luật tố tụng hình sự của các nước đều
quy định những chủ thể này phải tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự. Nhưng
tùy từng thể chế nhà nước, hệ thống pháp luật mà các chủ thể tham gia tố tụng có
phạm vi, địa vị pháp lý của những người này khác nhau đồng thời mức độ tham gia
tố tụng hình sự khác nhau. Việc cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng có phải và cũng nên coi là người tham gia tố tụng thì hiện nay có nhiều quan
điểm vẫn chưa thống nhất. Việc quy định thời gian tố tụng của những người tham
gia tố tụng suy cho cùng cũng là để bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các tổ chức, các nhân.
Quyền con người trong pháp luật tố tung hình sự được thể hiện dưới nhiều chế
định, trong đó có chế định về người tham gia tố tụng mà trong đó quy định quyền
và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng – nếu được quy định đầy đủ và được
bảo đảm nó sẽ là lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người


nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ những cơ quan tố tụng. Quyền
và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự nước
ta khơng ngừng hồn thiện và bổ sung.
Nghiên cứu về người tham gia tố tụng khơng chỉ có ý nghĩa trong việc tuyên truyền,
phổ biến Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự mà cịn việc xây dựng và hồn thiện
pháp luật.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ lý luận về các quy định pháp luật về những người
tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ lý luận về người tham gia tố tụng: khái niệm, phân
loại người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự; Nghiên cứu các quy định pháp
luật về những người tham gia tố tụng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1


Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về những
người tham tố tụng, một số loại người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Nhóm người tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ liên quan
trực tiếp đến vụ án và nhóm người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho bị hại,
đương sự để làm rõ, bổ sung về những người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự
Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp được sử dụng là phương pháp duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin; ngồi ra cịn có sử dụng các phương pháp
như thu thập thơng tin, tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh,…
Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài: Kết quả nghiên cứu góp phần hồn thiện hệ
thống pháp luật về các quy định về người tham gia tố tụng hình sự.


2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm tố tụng hình sự
Một trong những lĩnh vực được công chúng đặc biệt quan tâm trong những năm đổi
mới và cải cách ở Việt Nam là lĩnh vực hoạt động của các cơ quan tư pháp, trước
hết là hoạt động của các cơ quan tư pháp hình sự. Ban đầu, người ta quan tâm đến
năng lực của Nhà nước, của xã hội trong việc ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm, vì đó
là một trong những điều kiện quan trọng cho việc bảo vệ các thành quả cách mạng,
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,… Về sau, trọng tâm của dư luận
xã hội đã dịch chuyển theo hướng bảo đảm sự công bằng, dân chủ, sự nghiêm minh
của pháp luật, chất lượng và hiệu quả của các hoạt động tư pháp, yêu cầu về phịng
chóng oan sai, tơn trọng và bảo đảm quyền con người trong các hoạt động tư pháp,
bảo đảm quyền tiếp cận cơng lý bình đẳng của cơng dân. Đó cũng chính là những
định hướng và yêu cầu cơ bản đối với các hoạt động tư pháp được đặt ra.
Trong lĩnh vực đấu tranh phịng chống tội phạm có một phạm vi hay lĩnh vực có
những mục đích nhất định với sự hiện diện của những cơ quan, cá nhân mà pháp
luật xác định cho những mức độ thẩm quyền, địa vị pháp lý; với một trình tự,
những thủ tục pháp lý chặt chẽ nhằm hướng tới sự xác định các yếu tố về tội phạm
và hình phạt trong hành vi của cá nhân con người. Lĩnh vực hay phạm vi đó được
gọi là tố tụng hình sự.
1.2 Khái niệm mơ hình tố tụng hình sự và cấu trúc của nó
Từ khái niệm tổng qt về tố tụng hình sự có thể thấy rằng, bất kỳ một hệ thống tố
tụng hình sự nào cũng bao gồm những yếu tố chủ đạo sau đây:
-

Mục đích của tố tụng hình sự


-

Các ngun tắc cơ bản của tố tụng hình sự

-

Các chức năng chủ yếu trong tố tụng hình sự

-

Vị trí pháp lý của các chủ thể hoạt động tố tụng hình sự và quan hệ giữa các
chủ thể đó trong tố tụng hình sự

-

Các giai đoạn tố tụng hình sự

3


-

Phương thức đạt được mục đích của tố tụng hình sự hay là vấn đề chứng cứ
và chứng minh trong tố tụng hình sự.

Các yếu tố này trong tổng thể chính là xương sống của tố tụng hình sự. Những yếu
tố đó hợp thành một hệ thống tố tụng hình sự thống nhất, nhất qn với nhau, trong
đó mục đích của tố tụng hình sự là yếu tố quan trọng nhất, chi phối các yếu tố khác.
1.3 Phân loại những người tham gia tố tụng
Phân loại người tham gia tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đóng

góp về mặt lý luận, xây dựng và hồn thiện các quy định pháp luật. Hiện nay có
nhiều cách phân loại người tham gia tố tụng:
-

Căn cứ vào chức năng tố tụng: Tính chất của tố tụng hình là truy tố tội phạm
và người phạm tội; bào chữa của bị can bị cáo và luật sự của họ, hoạt động
xét xử của Tịa án. Từ đó, ba chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử. Dưới
khía cạnh nghiên cứu của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng có thể
nhóm những người tham gia tố tụng vào các chức năng tương ứng.

-

Căn cứ quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng đối với việc giải quyết
vụ án: Người tham gia tố tụng cố quyền lợi liên quan đến vụ án bao gồm:
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa và người
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

1.4

Những người tham gia tố tụng từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 1988 cho đến khi ban hành BLTTHS 2003
BLTTHS 1988 là BLTTHS đầu tiên của nhà nước ta. Nếu pháp luật tố tụng hình sự
thời kì trước đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự đơn
hành thì việc pháp điển hóa về tố tụng hình sự lần này đánh dấu bước tiến bộ về kỹ
thuật lập pháp tố tụng hình sự nước ta.
BLTTHS 1988 gồm 7 phần, 32 chương và 286 điều. Người tham gia tố tụng được
quy định ở chương III bao gồm 11 diện người sau đó trong lần sử đổi bổ sung
BLTTHS vào năm 1990 đã bổ sung một diện người nữa – “người bảo vệ quyền của

đương sự” thành 12 diện người.
Về mặt nội dung: lần đầu tiên trong BLTTHS đưa định nghĩa pháp lý của khái niệm
bị can, bị cáo và định nghĩa khái niệm người bị tạm giữ và địa vi pháp lý của người

4


bị tạm giữ đã được quy định. Ngoài ra, BLTTHS 1988 còn quy định rõ quyền và
nghĩa vụ của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, điều mà pháp
luật tố tụng hình sự trong thời kì trước chưa quy định.
1.5

Những người tham gia tố tụng từ khi ban hành BLTTHS 2003 cho đến

khi ban hành BLTTHS 2015
BLTTHS 2003 thay thế BLTTHS 1988, là Bộ luật thứ hai về TTHS, Bộ luật này về
cơ bản kế thừa kỹ thuật lập pháp như BLTTHS 1988, lược bỏ những quy định
không còn phù hợp và bổ sung những quy định mới, tiến bộ trong pháp luật tố tụng
hình sự, trong đó có quy định về người tham gia tố tụng.
Về hình thức, BLTTHS 2003 vẫn quy định về người tham gia tố tụng thành một
cương bao gồm 12 diện người.
Về mặt nội dung, BLTTHS 2003 đã quy định đầy đủ, cụ thể, rõ hơn quyền và nghĩa
vụ của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là mở rộng quyền của người bào
chữa và trong việc thu thập chứng cứ, sao chép tài liệu, đồ vật,…Người bào chữ
được tham gia từ thời điểm sớm hơn so với BLTTHS 1988, cụ thể là đối với trường
hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị
truy nã thì người bào chữ tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. BLTTHS
cũng đã tách quy định về bị can, bị cáo thành hai điều luật riêng.
CHƯƠNG 2: NHƯNG NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG
BLTTHS 2015

2.1 Những người tham gia tố tụng có quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý liên quan
đến vụ án
2.1.1 Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt (Theo điều 58 BLTTHS
2015)
Đây là người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, tiếp tục
bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra. Việc quy định địa vị pháp lý của những người
này nằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi
tham gia tố tụng, thậm chí ngay cả khi vụ án chưa bị khởi tố.

5


Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội
quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có các quyền nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng, bao gồm: được nghe, nhận lệnh
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người trong
trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã; được biết lý do mình bị giữ, bị bắt; được
thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ; được trình bày lời khai, trình bày ý
kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm
quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá; tự bào chữ, nhờ người bào chữ; khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc
giữ người, bắt người.
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt có nghĩa vụ chấp hành lệnh
giữ người, bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền giữ người, bắt
người theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.1.2 Người bị tạm giữ (Điều 59 BLTTHS 2015)
Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường

hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú,
đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục
phạm tội, tiếp tục bỏ trốn và xác minh sự liên quan của người này với sự việc phạm
tội.
Người bị tạm giữ có 7 quyền:
-

Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia
hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết
định tố tụng khác theo yêu cầu của Bộ luật này;

-

Được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;

-

Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hoặc bược phải nhận mình có tội;

-

Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;

-

Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6



-

Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

-

Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng về việc tạm giữ.

So với Bộ Luật tố tụng hình sự 2003 thì Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 quy định đầy
đủ, cụ thể hơn quyền của người bị tạm giữ như bổ sung quyền nhận quyết định tạm
giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn, quyết định gia hạn tạm giữ
và các quyết định tố tụng khác theo quy định của BLTTHS, làm rõ việc người bị
tạm giữ không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình
có tội. Những quy định này cũng là sự ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền của người bị tạm giữ.
Nghĩa vụ của người bị tạm giữ: Chấp hành quyết định, yêu cầu hướng dẫn của cơ
quan, người có thẩm quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; chấp hành nội quy
của cơ sở giam giữ và các quy định của pháp luật có liên quan.
2.1.3 Bị can (Điều 60 BLTTHS 2015)
Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Một số người tham gia tố
tụng với tư cách bị can từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Bị can tham
gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố
tụng của bị can sẽ chấm dứt khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra; viện kiểm sát,
tồ án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can; hoặc tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự
(bị khởi tố bị can), họ trở thành đối tượng buộc tội trong vụ án, điều đó khơng đồng
nghĩa với việc xác định họ là người có tội.

Quyền của bị can:
Được biết lý do mình bị khởi tố: Bị can cần phải biết tội danh họ bị khởi tố, chỉ khi
họ biết tội danh mà mình đang bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội thì họ mới có thể
đưa ra các chứng chứ, lý lẽ phủ nhận việc buộc tội đó. Bị can phải được giao nhận
quyết định khởi tố bị can.

7


Được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ: Cùng với quyền được biết mình
bị khởi tố về tội gì thì bị can có quyền được thơng báo, giải thích quyền và nghĩa
vụ. Khơng chỉ đơn thuần thơng báo các quyền và nghĩa vụ mà cịn phải giải thích để
bị can có thể hiểu rõ về các quyền và nghĩa vụ của mình.
Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi bổ sung quyết định khởi tố bị
can; quyết định phê chuẩn quyết định khởi tổ bị can;…theo quy định của bộ luật tố
tụng hình sự 2015: Bị can có quyền được nhận các quyết định tố tụng có liên quan
đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho bị can có
thể thực hiện tốt quyền bào chữa cũng như các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của
mình. Đồng thời, quyết định này địi hỏi cơ quan có thẩm quyền tố tụng phải giải
quyết vụ án theo đúng thủ tục pháp luật, các quyết định phải được đưa ra dưới hình
thức văn bản, có căn cứ và đúng pháp luật.
Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính
mình hoặc buộc phải nhận mình có tội: Bị can có quyền trình bày lời khai, trình bày
ý kiến về những vấn đề có liên quan đến vụ án, đây là quyền mà không phải nghĩa
vụ của họ. Họ không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải
nhận mình có tội. Trong trường hợp họ từ chối khai báo hoặc khai gian dối thì họ
cũng khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Ngược lại, thái độ khai
báo thành khẩn của họ lại được coi là tình tiết giảm nhẹ ưách nhiệm hình sự
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu: Bị can có quyền cung cấp những chứng
cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, cơ quan có thẩm quyên điều tra khi nhận

được các tài liệu, đồ vật do bị can cung cấp phải tiến hành kiểm tra, đánh giá một
cách khách quan.
Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá.
Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch
thuật: BỊ can có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu
giám định, định giá tài sản về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự,

8


quyền và lợi ích hợp pháp của mình; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
xem xét, giải quyết, nếu không chấp nhận phải trả lời bằng văn bản và nói rõ lí do.
Tự bào chữa và nhờ người bào chữa: Bị can có quyền tự bào chữa, bị can có thể
dùng những lí lẽ và chứng cứ để gỡ tội và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Quyền bào chữa khơng chỉ là một quyền độc lập, tách rời với các quyền khác
của bị can, bị cáo mà có thể hiểu quyền bào chữa là tổng hoà các quyền của bị can.
Bị can có thể nhờ người bào chữa. Trong trường hợp bị can bị khởi tố về tội mà
BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù, tù chung
thân, tử hình; bị can là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất mà
khơng thể tự bào chữa, người có nhược điểm về tâm thần thì cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ. Bị can và đại diện của
họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải tơn trọng và đảm bảo quyền bào chữa của bị can.
Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hoá liên quan đến việc buộc tội,
gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều
tra khi có yêu cầu.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng: Bị can có quyền khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của cơ quan,

người có thẩm quyền tố tụng. Quyền này địi hỏi các chủ thể nói trên phải tn thủ
pháp luật trong khi tiến hành tố tụng, phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can.
Nghĩa vụ của bị can:
Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiên hành tố tụng: Trong trường
hợp bị can được tại ngoại, khi cần triệu tập bị can để tiến hành các hoạt động điều
tra hoặc các hoạt động tố tụng khác, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải triệu tập bị can bằng giấy triệu tập theo đúng thủ tục luật định, trong đó phải
ghi rõ thời gian địa điểm bị can phải có mặt.
Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

9


Bộ trưởng Bộ Cơng an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phịng quy định chi
tiết trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài
liệu được số hoá liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên
quan đến việc bào chữa khi bị can có yêu cầu
2.1.4 Bị cáo (Điều 61 BLTTHS 2015)
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử. Bị cáo tham
gia tố tụng từ khi có quyết định đưa ra vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết
định của tòa án có hiệu lực pháp luật. Cũng như khái niệm bị can, khái niệm bị cáo
cũng là khái niệm mang tính hình thức, căn cứ vào văn kiệt tố tụng được áp dụng
đối với người đó. Một người sẽ trở thành bị cáo khi bị tòa án quyết định đưa ra xét
xử, quyết định đó có thể đúng nhưng cũng có thể sai. Vì vậy, khái niệm bị cáo
khơng đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Trên thực tế bị cáo cũng có
thể khơng phải là chủ thể của tội phạm và ngược lại. Bị cáo cũng không phải là
người có tội, bị cáo chỉ trở thành người có tội nếu xét xử họ bị tịa án ra bản án kết
tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật.

Quyền của bị cáo:
Theo khoản 2 điều 61 BLTTHS 2015, bị cáo có những quyền sau:
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết
định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên tịa;
c) Được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch
thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng
khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

10


e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại
chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
i) Đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu
được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tịa;
k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên
tòa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;

o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
So với quy định tại Điều 50 BLTTHS năm 2003, bị cáo có một số quyền mới sau:
Một là, quyền được “Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu
cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Thường thì những
chứng cứ, tài liệu, đồ vật này có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo khơng
phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy,
Hội đồng xét xử khi nhận được các chứng cứ, tài liệu, đồ vật do bị cáo cung cấp thì
phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các chứng cứ, tài liệu, đồ
vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay khơng và giá trị của nó trong việc xác
định sự thật của vụ án.
Hai là, quyền “Đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia
phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa”. Việc đề nghị chủ tọa
phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tịa sẽ làm tăng tính chủ động
cho bị cáo, giúp bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình được tốt hơn, việc hỏi
cũng như đối chất trực tiếp tại phiên tòa sẽ là căn cứ quan trọng làm cho việc xét xử
được khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Ba là, quyền được “Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung
vào biên bản phiên tịa”. Để tránh những thiếu sót trong việc ghi chép diễn biến tại

11


phiên tịa, bị cáo có quyền xem biên bản phiên tòa và yêu cầu ghi những sửa đổi bổ
sung vào biên bản đó, điều này đồng nghĩa với việc bị cáo đồng ý với q trình xét
xử nếu khơng có những yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi khác.
Bốn là, bị cáo cịn có “Các quyền khác theo quy định của pháp luật”. Những quyền
này sẽ được thể hiện rõ sau khi các văn bản hướng dẫn có hiệu lực.
Nghĩa vụ của bị cáo:
 Đi cùng với quyền thì bị cáo cũng có những nghĩa vụ nhất định, căn cứ theo khoản
3 Điều 61 BLTTHS bị cáo có nghĩa vụ:

Có mặt theo giấy triệu tập của Tịa án. Trường hợp vắng mặt khơng vì lý do bất khả
kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị
truy nã;
Chấp hành quyết định, u cầu của Tịa án.
2.1.5 Bị hại (Điều 62 BLTTHS 2015)
Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan,
tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Thể
chất, tinh thần, tài sản của họ phải là đối tượng của tội phạm. Bị hại cũng có thể là
cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe
dọa gây ra; tài sản và uy tín của cơ quan, tổ chức đó phải là đối tượng của tội phạm.
Xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc cơ quan,
tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gât ra
chỉ trở thành bị hại trong tố tụng khi họ được cơ quan có thẩm quyền công nhân là
bị hại (thông qua giấy triệu tập bị hại). Trong trường hợp hành vi phạm tội không bị
phát hiện và xử lý hoặc trường hợp không xác định được người bị thiệt hại mặc dù
trên thực tế có người bị thiệt hại về vật chất, tầi sản do hành vi phạm tội gây ra thì
người đó cũng khơng trở thành bị hại trong vụ án hình sự.
Quyền của bị hại:
Quyền được thơng báo, giải thích quyền và nghĩa
Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Đây là một trong những điểm mới của BLTTHS năm 2015, không chỉ các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có quyền đưa ra các chứng cứ, đồ vật,
tài liệu mà bị hại có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu và đồ vật liên quan đến vụ án

12


để chứng minh có hay khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm
tội, chứng minh những thiệt hại của mình là do hành vi phạm tội gây ra, thậm chí bị
hại có thể chứng minh cả những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết

quyền lợi của mình như việc giải quyết bồi thường thiệt hại và những tình tiết khác
cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá
Đây là một quy định nâng cao sự chủ động của bị hại khi tham gia tố tụng hình sự.
Nếu như trước đây, bị hại trong vụ án hình sự chỉ được đưa ra tài liệu, đồ vật, u
cầu thì theo BLTTHS 2015, bị hại cịn có quyền trình bày ý kiến của mình về chứng
cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án đồng thời có quyền yêu cầu người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá các tài liệu, đồ vật đó.
Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật
BLTTHS 2015 cho phép bị hại cũng như đương sự hoặc người đại diện của họ có
quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những
vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ những trường hợp việc
giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội
(khoản 1 Điều 207 BLTTHS 2015). Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được
đề nghị trưng cầu giám định của bị hại cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải xem xét, ra quyết định trưng cầu giám định (khoản 1 Điều 214 BLTTHS 2015)
Quyền được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án
Trong giai đoạn điều tra, khi cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra
(Điều 229 BLTTHS 2015), quyết định phục hồi điều tra (Điều 235 BLTTHS 2015)
và khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra phải thông báo cho bị hại, đương sự và
người đại diện hợp pháp của họ (Điều 232 BLTTHS 2015).
Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật
Khi có căn cứ để cho rằng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như điều tra viên,
cán bộ điều tra, kiểm sát viên, kiểm tra viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký tồ án
khơng vơ tư trong khi tiến hành tố tụng và người giám định, người định giá tài sản,

13



người phiên dịch, người dịch thuật không vô tư trong khi tham gia tố tụng thì bị hại
có quyền đề nghị thay đổi họ (khoản 2 Điều 50 BLTTHS 2015).
Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường
Bị hại có quyền đề nghị hình phạt đối với người phạm tội để các cơ quan tiến hành
tố tụng và người tiến hành tố tụng xem xét sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội và xác định sự thật khách quan của vụ án. Bị hại cũng có
quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại và các biện pháp bảo đảm bồi thường thiệt
hại do tội phạm xâm phạm.
Tham gia phiên tịa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người
khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình; xem biên bản phiên tòa
Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình
BLTTHS năm 2015 chính thức quy định đây là quyền của bị hại để họ có thể lựa
chọn tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình hoặc là nhờ người khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này
Vị trí và vai trị của bị hại khi họ tham gia tố tụng theo BLTTHS 2003 tương đối
mờ nhạt và chủ yếu được thực hiện trong giai đoạn xét xử của toà án. Tuy nhiên
đến BLTTHS 2015 Với quyền được tham gia các hoạt động tố tụng hình sự theo
quy định của BLTHHS 2015 thì vai trị của bị hại đã được chú trọng và nâng cao.
Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích
của mình khi bị đe dọa
Để bảo đảm an toàn cho bị hại, BLTTHS 2015 quy định thêm quyền rất thiết thực
cho bị hại là họ được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực
hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ và người thân của họ khi họ báo cáo
về nguy cơ họ bị xâm hại hoặc có căn cứ cụ thể về những hành vi đe dọa họ nhằm
gây sức ép hoặc cản trở quyền tố tụng của họ.
Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án

Trong trường hợp bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ chết hoặc trong
trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm

14


thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo tồn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo
hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Trong
trường hợp bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan
đến việc bồi thường thiệt hại, thì họ có thể uỷ quyền cho người khác. Người được
uỷ quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn
dân sự.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng
Người bị hại có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình (Điều 469 BLTTHS 2015).
Nghĩa vụ của bị hại:
Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp
cố ý vắng mặt khơng vì lí do bất khả kháng hoặc khơng do trở ngại khách quan thì
có thể bị dẫn giải: Bị hại phải có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
triệu tập để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình và tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giải quyết vụ án. Việc bị hại vắng mặt có thể cản trở hoạt động tố
tụng, vì vậy nếu họ cố ý vắng mặt khơng vì lí do bất khả kháng hoặc khơng do trở
ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:
Bị hại có nghĩa vụ phải khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho việc
làm sáng tỏ sự thật của vụ án và chấp hành quyết định, yêu cầu khác của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì

người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị hại.
Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện
theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ
chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 62 bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015.
2.1.6 Nguyên đơn dân sự (Điều 63 BLTTHS 2015)

15


Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và
có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Khi một tội phạm đã thực hiện, nếu tội phạm đã gây ra thiệt hại về vật chất cho cá
nhân, cơ quan, tổ chức, thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án khơng chỉ có
nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử vụ án, áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
mà còn giải quyết việc bồi thưởng thiệt hại. Điều này xuất phát từ các quy định của
pháp luật: ai gây thiệt hại tới lợi ích được pháp luật bảo vệ thì phải bồi thường thiệt
hại trừ những trường hợp pháp luật quy định khác (các trường hợp ngoại lệ ở đây là
những trường hợp miễn trừ truy cứu trách nhiệm pháp lý).
Nguyên đơn dân sự là cá nhân tức là người bị tội phạm gây nên những thiệt hại về
vật chất và tinh thần. Nếu nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên hoặc người
có nhược điểm về thể chất, tinh thần thì người đại diện hợp pháp có thể thay mặt họ
thực hiện các quyền của nguyên đơn dân sự. Nguyên đơn dân sự là cơ quan, tổ chức
tức là cơ quan, tổ chức bị tội phạm gây nên những thiệt hại.
Để được công nhận là nguyên đơn dân sự thì cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có đơn
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Cá nhân, cơ quan, tổ chức đã được công nhận là
nguyên đơn dân sự là người tham gia tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của họ trong tố tụng hình sự.
Quyền của nguyên đơn dân sự:
Quyền của nguyên đơn dân sự được quy định tại khoản 2 điều 63 BLTTHS 2015.

Theo khoản 2 Điều 63 BLTTHS 2015, so với Bộ luật Tổ tụng hình sự năm 2003,
quyền của nguyên đơn dân sự được quy định chi tiết, và mở rộng hơn bao gồm các
quyền:
1. Được thơng báo, giải thích quyền và nghĩa vụ theo quy định;
2. Đưa ra chứng cứ;
3. Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tổ tụng kiểm tra, đánh giá;
4. Được thông báo kết quả giải quyêt vụ án;
5. Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;

16


6. Đề nghị chủ tọa phiễn tòa hỏi người tham gia phiên tòa, xem biên bản phiên
tòa;
7. Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
8. Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Điều này tạo cơ sở cho nguyên đơn dân sự chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của mình, cũng như tham gia kiểm sát hoạt động tố tụng của Tòa án,
quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự:
Để đảm bảo cho hoạt động tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án. Khoản 3 Điều luật quy định nguyên
đơn dân sự cố các nghĩa vụ nhất định như sau:
1. Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
2. Trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại;
3. Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng.
2.1.7 Bị đơn dân sự (Điều 64 BLTTHS 2015)
Bị đơn dân sự trong tố tụng hình sự có thể là cha mẹ, người giám hộ của bị can, bị

cáo là người dưới 18 tuổi hoặc bị can, bị cáo mất năng lực hành vi dân sự. Bệnh
viện, trường học phải liên đới cùng cha mẹ, người giám hộ của bị can, bị cáo dưới
15 tuổi hoặc mất năng lực hành vi dân sự bồi thường những thiệt hại do hành vi
phạm tội của bị can, bị cáo gây ra trong thời gian ở bệnh viện, trường học nếu các
cơ quan này có lỗi trong việc quản lý người đó. 
Quyền của bị đơn dân sự:
Quyền của bị đơn dân sự được quy định tại khoản 2 điều 64 BLTTHS 2015
Theo khoản 2 Điều 64 BLTTHS 2015, so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003,
quyền của bị đơn dân sự được quy định chi tiết, và mở rộng hơn bao gồm các
quyền:
1. Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ theo quy định;
2. Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân
sự;

17


3. Đưa ra chứng cứ;
4. Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
5. Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
6. Được thông báo kết quả giải quyết vụ án có liên quan đến việc đòi bồi
thường thiệt hại;
7. Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa, xem biên bản phiên
tòa;
8. Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
9. Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng cố trách nhiệm bảo
đảm cho bị đơn dân sự thực hiện các quyền của họ.
Đặc biệt, quy định bị đơn dân sự có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc

toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự, cần có hướng dẫn cụ thể về trình tự thủ tục
tiến hành bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn dân sự, các bảo đảm hiệu lực cho quyền
bác bỏ của bị đơn dân sự. Như vậy, sẽ dễ dàng hơn cho bị đơn dân sự chủ động
thực hiện quyền của mình.
Nghĩa vụ của bị đơn dân sự:
Để đảm bảo cho hoạt động tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
Trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại;
Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
2.1.8 Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (Điều 57 BLTTHS 2015)
Người bị tố giác là người bị người khác phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội
phạm với cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Người bị kiến nghị khởi tố là người bị người có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật đề nghị bằng văn bản kèm chứng cứ, tài liệu có liên quan cho cơ quan
điều tra, viện kiểm sát xem xét, xử lý hành vi có dấu hiệu tội phạm.
Quyền của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố:

18



×