Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận học phần IX: phương pháp cách mạng hồ chí minh và phong cách hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.67 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Phương pháp là sự thể hiện của tư tưởng và đường lối trong hành động.
Nhưng khơng phải cứ có tư tưởng đúng, đường lối đúng là tự nhiên có phương
pháp đúng. Phương pháp thuộc phạm trù hành động, nó phụ thuộc trực tiếp vào
chủ thể hành động, nên phương pháp có thể đúng có thể sai. Kinh nghiệm cho
thấy, phong trào cách mạng có khi dẫm chân tại chỗ, thậm chí thất bại nữa, khơng
phải vì thiếu phương hướng và mục tiêu mà chủ yếu là thiếu phương pháp cách
mạng phù hợp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bậc thầy về phương pháp của cách mạng
Việt Nam. Các phương pháp được Hồ Chí Minh vận dụng trong śt quá trình
hoạt động cách mạng của mình là: Phương pháp vận động quần chúng, phương
pháp tuyên truyền giáo dục, phương pháp kế thừa và đổi mới, phương pháp “Dĩ
bất biến ứng vạn biến”… Tùy hoàn cảnh, tùy đối tượng mà Hồ Chí Minh có sự
vận dụng phương pháp một cách linh hoạt, sáng tạo. Nhưng tất cả các phương
pháp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng đều nhằm phục vụ cho một mục đích lớn
lao nhất, đó là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tất cả vì tự do và
hạnh phúc của nhân dân.
Phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là một trong nhiều phương pháp
cách mạng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu phương pháp này không chỉ là để củng cố,
bổ sung kiến thức khi nghiên cứu các phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, mà
còn để hiểu rõ hơn tinh thần biện chứng duy vật trong phương pháp cách mạng
của Người. Từ suy nghĩ đó, tôi chọn đề tài: “Một số nghiên cứu về phương pháp
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh ” làm Tiểu luận hết học
phần của mình.

1


NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG
1.1- Phương pháp và tầm quan trọng của phương pháp


Trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ lao động sản xuất đến
nghiên cứu khoa học hay sáng tạo văn học nghệ thuật, từ những hoạt động chinh
phục tự nhiên đến đấu tranh xã hội, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân
sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục… vấn đề phương pháp bao giờ cũng được đặt ra để
lựa chọn, sử dụng nhằm thực hiện những ý tưởng, những mục tiêu đã định.
Trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới, lồi người đã sáng tạo ra rất
nhiều phương pháp, bởi vì hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới chỉ có thể thực
hiện được bằng những phương pháp nhất định. Và chính q trình nhận thức và cải
tạo ấy lại kiểm nghiệm phương pháp nào là đúng, phương pháp nào là sai. Vì chỉ có
phương pháp đúng đắn mới giúp cho con người có được những tư tưởng đúng đắn
và hiện thực hóa những tư tưởng đúng đắn ấy trong đời sống con người và xã hội,
trong cải tạo thế giới khách quan. Những phương pháp sai lầm sớm muộn sẽ bị loại
bỏ, những phương pháp đúng đắn sẽ được giữ lại, hơn nữa tiếp tục bổ sung, phát
triển, từ đó đem lại sự phát triển không ngừng của khoa học tự nhiên, kỹ thuật và
công nghệ của khoa học xã hội và nhân văn, của cuộc đấu tranh xã hội và chinh
phục thiên nhiên. Phương pháp đúng đắn là công cụ để nhận thức thế giới ngày càng
đúng đắn hơn, sâu sắc hơn và để cải tạo thế giới ngày càng hiệu quả hơn, theo những
quy luật khách quan của nó.
Về tầm quan trọng của phương pháp, P.Bêcơn đã coi phương pháp như “sợi chỉ
dẫn đường”; còn R.Đêcac lại đưa ra một nhận định: Thiếu phương pháp thì người tài
cũng có lỗi. Có phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi thường.
Là người đứng ở đỉnh cao nhất của triết học cổ điển Đức, Hêghen đã xây
dựng lên cả một hệ thống và phương pháp hết sức đồ sộ. Hêghen đã đánh giá rất cao
2


vấn đề phương pháp, đặc biệt là với phương pháp tuyệt đối của ông: Phương pháp là
sức mạnh tuyệt đối, duy nhất, tối cao, vô cùng tận, không một vật nào có thể cưỡng lại
nổi; đó là xu thế của lý tính đi đến chỗ nhận thấy bản thân mình ở trong mọi sự vật.
Hơn nữa, theo ơng thì: tồn bộ triết học thâu tóm vào trong phương pháp.

Kế thừa những tinh hoa tư tưởng và văn hóa của nhân loại đã có cho đến đầu
thế kỷ XIX và căn cứ vào thực tiễn đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
lúc đó, Mác đã xây dựng nên học thuyết của mình gồm ba bộ phận cấu thành là:
Triết học, Kinh tế học chính trị và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Đặc biệt, Mác đã đảo
ngược phép biện chứng duy tâm của Hêghen, đặt nó đứng trên đôi chân duy vật để
xây dựng lên phép biện chứng duy vật, trở thành linh hồn của toàn bộ học thuyết của
ơng. Đến cuối đời, Ăngghen đã có một đánh giá đặc biệt đáng lưu ý về phương pháp
của Mác: Tồn bộ thế giới quan của Mác khơng phải là một học thuyết, mà là một
phương pháp. Nó khơng đem lại những giáo điều sẵn có, mà đem lại những điểm
xuất phát cho việc tiếp tục nghiên cứu về phương pháp cho sự nghiên cứu đó. Dù
vẫn cịn có nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau về luận điểm này của Ăngghen
nhưng mọi người đều phải thừa nhận giá trị của phương pháp của Mác.
Theo Lênin, chủ nghĩa duy vật là một phương pháp duy nhất khoa học, cịn
chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác thì: khơng bao giờ có tham vọng giải thích tất cả,
mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử;
nó khơng có tham vọng vơ lý cho rằng đã tìm ra cái chìa khóa cho tất cả các ổ khóa
lịch sử. Vậy, phương pháp là gì?
Từ trước đến nay đã có nhiều định nghĩa về phương pháp. Khơng ít người đã
cho rằng phương pháp chỉ là sản phẩm thuần túy của tư duy, xuất phát hoàn toàn từ
ý muốn chủ quan của con người, chỉ những gì thuộc về chủ thể nhận thức và cải tạo
thế giới khách quan. Nhưng phương pháp khơng chỉ có tính chủ quan, mà cịn có
tính khách quan của nó. Phương pháp một mặt mang tính chủ quan, vì do con người
tìm kiếm, lựa chọn, sử dụng, nhưng mặt khác lại mang tính khách quan vì nó gắn với
3


đối tượng, khách thể mà con người muốn tác động bằng hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của mình. Bản thân đối tượng, khách thể mà sự tồn tại và vận động
của nó là do các quy luật khách quan quy định, khơng có vấn đề phương pháp.
Nhưng phương pháp mà con người tìm kiếm, lựa chọn, sử dụng lại nhất thiết phải

xuất phát từ cơ sở khách quan đó chứ khơng thể khác được. Phương pháp được con
người xác định khơng có mục đích tự thân, phương pháp vì phương pháp, mà bao
giờ cũng là nhằm tác động vào những đối tượng, khách thể nhất định. Chính mục
tiêu tác động vào đối tượng, khách thể đã đòi hỏi con người tìm kiếm, lựa chọn, sử
dụng phương pháp đúng đắn, phù hợp. Sự phù hợp của hai mặt chủ quan và khách
quan là điều kiện quyết định để có được phương pháp đúng đắn, khoa học. Phương
pháp sẽ là sai lầm, nếu nó chỉ là kết quả của sự tìm kiếm chủ quan, lựa chọn một
cách duy ý chí, sử dụng phương pháp một cách tùy tiện.
Từ những hoạt động hết sức đa dạng của con người, từ những chỉ dẫn của
các nhà kinh điển Mácxít, từ những kiến giải về phương pháp mà nhiều người đã
đưa ra, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Hoạt động của con người trong bất cứ lĩnh vực nào đều là hoạt động có mục
đích nhất định. Phương pháp chính là cách thức giúp cho con người định hướng và
điều chỉnh hoạt động để đi tới mục đích đó.
Cơ sở và cũng là điểm xuất phát của phương pháp phải là đối tượng, khách
thể mà con người tác động bằng hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm
biến đổi đối tượng, khách thể ấy chứ hoàn toàn khơng phải là tư duy tự biện của
mình. Vì vậy, phải hiểu rõ đối tượng, khách thể với những quy luật khách quan quy
định sự tồn tại và vận động của nó thì con người mới tìm được phương pháp đúng
đắn, thích hợp để tác động vào đối tượng, khách thể có hiệu quả.
Phương pháp là cách thức với tính chất là quy luật vận động nội tại của tư
duy, phản ánh quy luật vận động của đối tượng, khách thể, của thế giới khách quan,

4


được con người sử dụng có ý thức. Có phương pháp đúng đắn và phương pháp sai
lầm; phương pháp đúng đắn còn gọi là phương pháp khoa học.
Theo giáo sư Đặng Xuân kỳ: “Phương pháp là toàn bộ những cách thức với
tính chất là một hệ thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy luật tồn tại và vận

động của đối tượng, khách thể đã được nhận thức, để định hướng và điều chỉnh hoạt
động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người, nhằm tác động vào đối
tượng, khách thể để thực hiện mục đích đã định”1.
1.2- Phương pháp cách mạng
Trong đấu tranh cách mạng, vấn đề phương pháp càng có tầm quan trọng
đặc biệt. Đều này đã được chứng minh bằng những thành công cũng như những thất
bại của các cuộc cách mạng đã diễn ra ở các nước từ trước đến nay. Điều này càng
thấy rất rõ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất là những cuộc
đấu tranh từ cuối thế kỷ XIX đến nay.
Trong bất cứ cuộc cách mạng nào cũng có hai vấn đề được đặt ra, đó là
đường lối cách mạng và phương pháp cách mạng. Đường lối cách mạng bắt nguồn
từ tư tưởng học thuyết, gắn với thực tiễn, với những điều kiện lịch sử nhất định. Còn
phương pháp cách mạng là để thực hiện đường lối cách mạng đã được đặt ra. Phân
tích về mối quan hệ giữa đường lối cách mạng và phương pháp cách mạng, Nguyên
Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết: Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, điều quan trọng
trước hết là phải xác định đúng phương hướng và mục tiêu chiến lược chung cũng
như phương hướng và mục tiêu cụ thể cho mỗi thời kỳ. Song, bằng con đường nào,
với những hình thức và biện pháp gì để thực hiện phương hướng và mục tiêu đã
định, vấn đề này không kém phần quan trọng so với việc định ra bản thân phương
hướng và mục tiêu. Kinh nghiệm cho thấy phong trào cách mạng có khi giẫm chân
tại chỗ, thậm chí thất bại nữa, khơng phải vì thiếu phương hướng và mục tiêu rõ ràng
mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách mạng thích hợp.
1

Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Nxb chính trị quốc gia – tr25

5


Nguyên Tổng Bí thư Trường Chinh cũng chỉ rõ: Lịch sử phát triển cách

mạng thế giới đã cho thấy một phong trào nào đó có khi bế tắc, khơng có lối ra, thậm
chí thất bại, khơng phải vì khơng có mục tiêu và phương hướng rõ ràng, cũng không
phải tổ chức được lực lượng cách mạng, mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách
mạng và hình thức đấu tranh thích hợp.
Những luận điểm trên đây đã làm sáng tỏ định nghĩa về đường lối cách
mạng và phương pháp cách mạng cũng như mối quan hệ giữa chúng với nhau:
Một là, đường lối cách mạng là mục tiêu, phương hướng chiến lược hay là
con đường đi lên của cách mạng với những quan điểm cơ bản nhất được xác định.
Còn phương pháp cách mạng là cách thức tiến hành cách mạng với tính chất là một
hệ thống các nguyên tắc, xuất phát từ các quy luật khách quan của cách mạng trong
những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định nhằm đấu tranh để giành, giữ chính quyền
và xây dựng chế độ mới. Cách thức ấy được thể hiện bằng những hính thức, biện
pháp, bước đi thích hợp để thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng Việt Nam.
Hai là, muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, thì trước hết phải xác định
đường lối cách mạng đúng đắn. Đường lối cách mạng gắn liền với phương pháp
cách mạng; đường lối quyết định phương pháp. Nếu đường lối sai thì khơng thể nói
đến thắng lợi của cách mạng. Cịn đường lối đúng, phương pháp cách mạng sai hoặc
khơng thích hợp thì cũng có thể làm cho cách mạng giẫm chân tại chỗ, hoặc bế tắc,
thậm chí thất bại.
Vì vậy, đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cùng với việc xác định
đường lối cách mạng đúng đắn phải tìm ra được phương pháp cách mạng đúng đắn,
thích hợp để thực hiện đường lối đã định. Nếu chỉ dừng lại ở việc tìm ra đường lối,
xác định đường lối cách mạng đúng đắn, mà khơng tìm được phương pháp cách
mạng đúng đắn thích hợp, thì chắc chắn khơng thể triển khai được việc thực hiện
đường lối, đường lối vẫn chỉ là những mong muốn tốt đẹp, không thể vào cuộc sống,
và như vậy cách mạng không thể giành được thắng lợi.
6


1.3- Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh đã dày cơng nghiên cứu, tìm tịi những phương pháp để tiến hành
cách mạng. Trong những năm tháng bôn ba ở nước ngoài, sau khi tìm và lựa chọn được
đường lối cứu nước đúng đắn cho dân tợc, Hồ Chí Minh đã đem lại cho cách mạng Việt
Nam những phương pháp đảm bảo tiến hành cách mạng thắng lợi. Đối với việc tiến hành
cách mạng, từ việc nhỏ đến việc lớn, trong bất kỳ thời kỳ cách mạng nào, trong bất cứ lĩnh
vực hoạt động nào, với bất cứ đối tượng nào, Hồ Chí Minh cũng tìm ra được những
phương pháp thích hợp. Càng trong những lúc hiểm nghèo, càng ở những thời điểm bước
ngoặt của cách mạng thì lại càng thấy rõ tính sáng tạo độc đáo trong phương pháp cách
mạng Hồ Chí Minh. Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh đã trở thành phương pháp
cách mạng của Đảng, trở thành phương pháp của cách mạng Việt Nam.
Về vấn đề này, nguyên Tổng Bí thư Trường Chinh đã nêu rõ: Lịch sử 50 năm đấu
tranh cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là
một kho tàng kinh nghiệm phong phú về những phương pháp và hình thức đấu tranh mn
hình mn vẻ. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định: Cùng với luận điểm về đường
lối cách mạng, Hồ Chí Minh rất coi trọng phương pháp cách mạng, bao gồm phương tiện,
biện pháp và hình thức đấu tranh thích hợp với từng hoàn cảnh. Liên tục 60 năm, cách
mạng Việt Nam ở trong những tình thế hiểm nghèo, phải vượt qua những thử thách ghê
gớm, phải giải quyết những vấn đề chưa có tiền lệ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh,
cách mạng Việt Nam đã có những đóng góp làm phong phú kho tàng lý luận Mác - Lênin
về phương pháp cách mạng, nhất là trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Nói về phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
khẳng định: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đương nhiên Người có cách tiếp cận và
phân tích thực tiễn, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh và có phương pháp của mình.
Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh là phải nói đến phương pháp Hồ Chí Minh. Bây giờ
chúng ta đặt tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành một nhân tố có tính phát triển, có tính độc
lập. Và như vậy, đương nhiên phải nghiên cứu phương pháp Hồ Chí Minh. Nghiên cứu
7


tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm quan trọng nhưng để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh

thì bí quyết, linh hồn sống của tư tưởng đó chính là phương pháp. Các thế hệ mai sau nếu
nắm được phương pháp Hồ Chí Minh thì mới vận dụng được tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Về phương pháp cách mạng, lúc đầu Hồ Chí Minh chỉ xác định những phương
pháp cụ thể đối với những hoạt động thực tiễn nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể.
Nhưng chính trong q trình ấy đã hình thành những phương pháp chung cho tồn bộ
tiến trình cách mạng Việt Nam. Việc hình thành phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh
ln ln đan xen giữa phương pháp riêng, cụ thể với phương pháp chung. Xuất phát từ
những hoạt động thực tiễn cụ thể nhằm thực hiện một đường lối cụ thể để đạt những
mục tiêu cụ thể địi hỏi phải có những phương pháp cụ thể. Mặt khác từ đường lối cách
mạng chung, Hồ Chí Minh đã xác định một số phương pháp cách mạng chung ngay từ
đầu, nhưng vận dụng phương pháp cách mạng chung lại khơng hồn tồn giống nhau
trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, mà lại biểu hiện bằng những hình thức,
biện pháp thích hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng.
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh hết sức phong phú, đa dạng: đó là các
phương pháp như xác định mục tiêu nhiệm vụ cách mạng; phương pháp xác định lực
lượng cách mạng; phương pháp “ Dĩ bất biến ứng vạn biến”; phương pháp giành độc
lập và bảo vệ nền độc lập; xây dựng chế độ mới. Trong hệ thống phương pháp trên thì
phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh là một phương pháp được
Người sử dụng thành nguyên tắc cụ thể.
II. PHƯƠNG PHÁP “DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN” CỦA HỒ CHÍ MINH
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, trước khi đi Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
với cụ Huỳnh Thúc Kháng: “Tơi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở
nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong cụ “dĩ bất
biến ứng vạn biến”2.

2

Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử. Nxb chính trị quốc gia t3- tr 216

8



Đây là lần đầu tiên mọi người được biết đến câu nói bất hủ này của Hồ Chí
Minh. Nhưng tinh thần “Dĩ bất biến ứng vạn biến” không phải chỉ có ý nghĩa trong
một thời gian và hồn cảnh nhất định, mà thực sự đã là một phương pháp cách mạng
được quán triệt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.1- Nội dung phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh
Cái bất biến mà Hồ Chí Minh nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng hồi đó chính là
nền độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân, dù trong
đấu tranh chính trị, ngoại giao ở trong nước hay nước ngồi có khó khăn, phức tạp
và gian khổ đến đâu đi nữa, thì mọi người vẫn phải giữ cái mục tiêu bất biến ấy,
tuyệt đối không thể đem cái bất biến ấy ra mua bán, đổi chác, để Tổ quốc Việt Nam
khơng cịn độc lập, đất nước Việt Nam khơng cịn thống nhất, để nhân dân Việt Nam
lại phải quay trở lại cuộc đời nô lệ, khơng bao giờ có được hạnh phúc tự do, như kẻ
thù của đất nước lúc đó đang rắp tâm thực hiện.
Độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân là mục
đích duy nhất và cũng là “ham muốn tột bậc” của Hồ Chí Minh, là cái bất biến của
Người và của cả dân tộc Việt Nam. Trong thực tiễn hoạt động cách mạng, dĩ bất biến
nhưng phải ứng vạn biến, ứng vạn biến nhưng khơng xa rời, vứt bỏ cái bất biến, đó
chính là tinh thần biện chứng duy vật trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh.
Độc lập thống nhất tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu đấu
tranh của mọi người Việt Nam yêu nước, của cả dân tộc Việt Nam. Mục tiêu đó là
bất biến. Nhưng con đường đi đến mục tiêu đó là con đường dài, đầy khó khăn gian
khổ, địi hỏi sự hy sinh của nhiều lớp người, nhiều thế hệ. Trong mỗi bước đi lên,
cách mạng phải đối phó với mn vàn sự biến đổi, đòi hỏi người cách mạng phải
sáng suốt, tỉnh táo, nhạy bén để thay đổi cách thức đấu tranh cho thích hợp với điều
kiện lịch sử cụ thể mà cuộc đấu tranh lúc này hay lúc khác đặt ra. Nhưng mọi sự ứng
vạn biến trong một thời điểm, một thời kỳ nhất định không được làm tổ hại đến cái
bất biến, tức là mục tiêu lâu dài đã được xác định. Phương pháp “Dĩ bất biến ứng
9



vạn biến” của Hồ Chí Minh là hồn tồn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Trong đấu tranh cách mạng phải giành cho được thắng lợi của từng bước đi
lên, nhưng khơng thể chỉ biết có mục tiêu trước mắt mà quên mục tiêu lâu dài,
không thể hy sinh mục tiêu lâu dài chỉ vì những mục tiêu trước mắt; trong đấu tranh
có thể có những cái cần thỏa hiệp, nhưng thỏa hiệp có nguyên tắc, không được vứt
bỏ nguyên tắc trong khi thương lượng với kẻ thù.
Phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh
tính ngun tắc. Đó chính là cái bất biến đảm bảo tính nguyên tắc cũng chính là
đảm bảo cái bất biến; chính là giữ vững mục tiêu cách mạng. Nhưng để đi đến mục
đích cuối cùng của cách mạng, hay để đảm bảo tính nguyên tắc, giữ vững cái bất
biến thì người cách mạng phải biết ứng vạn biến trong xử lý các tình huống. Muốn
vậy yêu cầu người cách mạng phải giữ vững chủ nghĩa Mác – Lênin; phải nắm chắc
quy luật vận động của đối tượng; phải nhìn nhận vấn đề hồn tồn mang tính biện
chứng; phải hiểu đối tượng, nắm chắc vấn đề để đưa ra phương pháp phù hợp, đảm
bảo không xa rời mục tiêu cách mạng. Theo quan điểm của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác – Lênin, để giữ vững mục tiêu cách mạng, để đảm bảo cho cái bất
biến tùy theo điều kiện, tình thế cách mạng mà có thể thỏa hiệp với kẻ thù. Thỏa
hiệp với kẻ thù để giữ vững cái bất biến, không xa rời cái bất biến nó là một trong
những ứng vạn biến nhưng phải ln đảm bảo tính ngun tắc, khơng được vứt bỏ
nguyên tắc này trong khi thương lượng với kẻ thù.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã vận
dụng phương pháp này khơng phải như một khoa học mà còn là một nghệ thuật.
Chính vì vậy Người đã vượt qua được mọi hiểm nghèo đối với bản thân mình cũng
như đưa cách mạng vượt qua những thời kỳ “ngàn cân treo sợi tóc”; có lúc tiến, lúc
thối, lúc đi thẳng, lúc đi vịng, nhưng cuối cùng đi đến mục tiêu độc lập, thống nhất
hoàn toàn cho Tổ quốc.

10



2.2- Phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, để giữ vững nền độc lập dân tộc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều nhiệm vụ mang tính chất giải pháp để củng cố, giữ vững
chính quyền non trẻ vừa mới ra đời trước sự tấn công của nhiều loại kẻ thù tàn bạo.
Giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền non trẻ là cái bất biến. Những
nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện đó chính là cái vạn biến. Trước diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới cũng như trong nước, trước nguyện vọng và mong muốn của
nhân dân là độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã làm mọi cách để giữ vững nền độc lập dân tộc, đã lấy cái bất biến đó
làm mục tiêu lớn nhất và sử dụng cái vạn biến để giữ vững mục tiêu đó.
Trong thời gian từ 3 tháng 9 năm 1945 đến ngày 19 tháng 12 năm 1946 là quãng
thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta phải xử lý nhiều công việc để giữ vững nền
độc lập dân tộc, thể hiện rõ phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người.
Tại hội nghị Pốt-Xđam tháng 7 năm 1945, bọn phản động Tưởng Giới
Thạch - tay sai của đế quốc Mỹ được đem quân vào miền Bắc Đông Dương cho đến
vĩ tuyến 16 với danh nghĩa tước vũ khí qn Nhật; cịn ở phía Nam - Vĩ tuyến 16 thì
do quân đội của đế quốc Anh. Để ngăn chặn âm mưu của Mỹ mở rộng thế lực ở
Đông Nam Á và để giữ được những thuộc địa cịn lại của mình, đế quốc Anh đã giúp
cho Pháp trở lại Việt Nam, Lào và Campuchia. Đông Dương trở thành nơi tranh
chấp của bọn đế quốc và phản động tay sai. Cách mạng Việt Nam phải đương đầu
với nhiều kẻ thù có lực lượng lớn mạnh và trong những tình huống vơ cùng khó
khăn phức tạp.
Ở miền Bắc, bọn phản động Tưởng Giới Thạch mượn tiếng đồng minh vào
tước vũ khí quân nhật, nhưng dã tâm của chúng là tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt
Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập một
chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9 năm
11



1945, có 200.000 quân Tưởng lũ lượt kéo vào chiếm đóng thủ đơ Hà Nội và hầu hết
các thành phố, thị xã từ biên giới Việt – Trung đến vĩ tuyến 16. Ở miền Nam, quân
đội Anh đến Sài Gòn. Bám gót quân Anh là những đơn vị bộ binh và xe bọc thép
thuộc quân đội viễn chinh Pháp. Ngay sau khi đến Sài Gòn, quân Anh lập tức ra lệnh
cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát trong thành phố và đòi lực lượng vũ trang của
ta phải nộp vũ khí. Có thể nói trên đất nước Việt Nam chưa bao giờ có nhiều kẻ thù
xâm lược như vậy. Bọn phản cách mạng ở trong nước lại càng lộ mặt làm tay sai cho
đế quốc chống lại Tổ quốc và đồng bào ta.
Chính quyền nhân dân lúc này cịn non trẻ, cịn thiếu thốn đủ thứ và gặp khó
khăn chồng chất: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa mới ra đời; nền kinh
tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, nạn đói khủng
khiếp năm 1945 đã làm cho 2 triệu đồng bào bị chết đói... Vận mệnh của cách mạng
Việt Nam đứng trước thử thách vô cùng nghiêm trọng; chính quyền của nhân dân
vừa mới được thành lập có thể bị lật đổ; nền độc lập dân tộc vừa giành được có thể
bị thủ tiêu. Nhân dân ta có nguy cơ bị trở lại cuộc sống nơ lệ. Như vậy cái bất biến
đang đứng trước nguy cơ “ngàn cân treo sợi tóc”; để giữ vững được cái bất biến,
ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại Bắc Bộ Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa phiên
họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặt ra
nhiệm vụ cấp bách: giải quyết nạn đói, nạn dốt; tổ chức tổng tuyển cử; giáo dục tinh
thần nhân dân thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính; bỏ những thứ thuế vơ nhân đạo;
cấm hút thuốc phiện...
Đây là những nhiệm vụ cấp bách để giữ vững nền độc lập, một trong những
cái vạn biến để giữ cho cái bất biến được tồn tại. cùng với việc ra sức ổn định tình
hình, xây dựng củng cố chính quyền cách mạng, đặt cơ sở đầu tiên cho chế độ mới,
Đảng phải lãnh đạo nhân dân cả nước đấu tranh chống thực dân Pháp ở miền Nam
và âm mưu lật đổ chính quyền của bọn Tưởng Giới Thạch và tay sai ở miền Bắc.

12



Thực hiện chủ trương hết sức tránh chiến đấu với nhiều kẻ thù trong cùng
một lúc, lợi dụng mâu thuẫn giữa đế quốc Anh - Pháp; Mỹ - Tưởng trong vấn đề
Đơng Dương, Đảng ta thực hiện sách lược hịa với Tưởng để kháng chiến chống
Pháp xâm lược. Trong tình thế hết sức gay go, phức tạp, Đảng ta đã chủ động đề ra
chủ trương và một số biện pháp nhân nhượng để hồn hỗn với qn Tưởng và bọn
tay sai. Ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng ra tuyên bố “tự giải tán”. Đảng ta tuyên
bố “tự giải tán” nhưng thực chất là Đảng rút vào hoạt đợng bí mật để bảo vệ Đảng và
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đang diễn ra cuộc đấu tranh một mất,
một còn giữa ta và địch. Thực hiện chính sách hồ với Tưởng tại Quốc Hội khóa I
họp kỳ đầu tiên ngày 2 tháng 3 năm 1946, Quốc Hội đã đồng ý dành 70 ghế cho bọn
Việt quốc, Việt cách và dành 4 ghế Bộ trưởng cho bọn chúng, gồm: Bộ Ngoại giao,
Kinh tế, Canh nông, Xã hội).
Sự nhân nhượng trong vấn đề chính quyền là sự nhân nhượng có nguyên tắc,
nguyên tắc căn bản của Đảng đã đề ra và đấu tranh thực hiện thắng lợi là: bất kể tình hình
như thế nào, chính quyền vẫn nằm trong tay nhân dân, quyền lãnh đạo vẫn nằm trong tay
Đảng ta. Sách lược hịa hỗn với qn Tưởng được thực hiện đã đạt mục tiêu đề ra, chính
quyền nhân dân và lực lượng cách mạng được củng cố một bước vững chắc.
Để giữ vững nền độc lập dân tộc, đảm bảo cho cái bất biến tồn tại ngày 6
tháng 3 năm 1946, chính phủ ta ký với đại diện chính phủ Pháp bản hiệp định sơ bộ
đặt cơ sở cho việc đàm phán đi đến một hiệp ước chính thức. Ngày 9 tháng 3 năm
1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị hòa để tiến, vạch rõ lý do phải
hòa với Pháp: “Chúng ta hòa với Pháp để: 1) tránh tình hình bất lợi…,2) bảo tồn
thực lực, giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh
đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào, tóm lại, để
chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới”.3

3


Lịch sử Đảng cộng Sản Việt Nam, Sơ thảo tập I. Nxb ST- 1981 tr 482

13


Ngày 31 tháng 5 năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo lời mời của chính
phủ Pháp, với tư cách là thượng khách của nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
phái đồn của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đi dự cuộc đàm phán chính
thức tại Pa - ri. Để giành thêm thời gian xây dựng lực lượng, chuẩn bị đầy đủ hơn
nữa cho cuộc kháng chiến, để nhân dân Pháp, nhân dân u chuộng hịa bình trên thế
giới thấy rõ hơn nữa thiện chí hịa bình của ta, hiểu rõ hơn nữa dã tâm xâm lược của
thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với chính phủ Pháp bản Tạm ước ngày
14 tháng 9 năm 1946. Tạm ước đã quy định một số điều quan hệ tạm thời về kinh tế
và văn hóa giữa hai nước, đình chỉ chiến sự ở miền Nam và quy định thời gian tiếp
tục cuộc đàm phán Việt – Pháp vào tháng 1 năm 1947.
Ý nghĩa thắng lợi của cuộc đàm phán giữa ta và Pháp là ở chỗ nó nâng cao uy
tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế, vạch trần âm mưu xâm
lược của thực dân Pháp, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân Pháp và nhân dân thế
giới, tận dụng mọi khả năng và thời gian hịa hỗn có thể tận dụng được, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tăng cường lực lượng và chuẩn bị đầy đủ cho cuộc kháng chiến.
Những sự kiện diễn ra từ sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, những nhân nhượng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta đối với Tưởng và đối với thực dân Pháp
là những ứng phó, là ứng vạn biến để giữ vững cái bất biến, đó là nền độc lập dân
tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Tư tưởng, phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức to lớn trong sự nghiệp cách mạng
Việt Nam. Đó là sự đóng góp quan trọng, to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, là cơ sở nền tảng của đường lối đấu tranh cách mạng. Từ phương pháp
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành đường lối đấu
tranh của Đảng làm lên thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam; thực hiện thắng

lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc; thực hiện

14


thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giữ vững, củng cố nền độc lập của
Tổ quốc vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
III. VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ PHƯƠNG PHÁP “DĨ BẤT BIẾN ỨNG
VẠN BIẾN” THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1- Tình hình thế giới và trong nước những năm tới
Theo nhận định của Đảng ta tình hình thế giới và trong nước những năm tới
có những điểm nổi bật sau:
Tình hình thế giới: “Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng
sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng
thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can
thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền
thống, tội phạm cơng nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn
thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan
hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ
quốc tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học – cơng nghệ phát triển mạnh mẽ,
thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế thi thức. Kinh tế thế giới
mắc dầu có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn cịn nhiều khó khăn,
bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các
ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh
tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước
ta, có nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn
tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất
lượng cao… giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an
ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước

biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh,…sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu
tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân sinh,
15


dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc
vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đơng Nam Á, vẫn
sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định;
tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực
lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy cịn nhiều khó khăn, thách thức nhưng
tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.
Ở trong nước: Những thành tựu kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986
– 2011) đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so
với trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng
trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự
do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các
lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước
ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, các động tổng hợp và
diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là
nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến
hịa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”
hịng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa
rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những
diễn biến phức tạp”4.
Nhìn chung, những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ
và thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước.


4

Văn kiện Đại Hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI. Nxb chính trị quốc gia tr 182 - 183

16


3.2- Vận dụng phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” theo tư tưởng
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cái bất biến; để
giữ vững và thực hiện thắng lợi mục tiêu trên, trong thời gian tới Đảng cần phải có
những đường lối đúng, có phương pháp và bước đi phù hợp và phải biết ứng vạn biến
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hợi, ngoại giao, an ninh quốc phịng…để
phát triển đất nước theo đúng mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực kinh tế: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình thức phân phối. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo
vệ tài nguyên môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả, bền
vững, gắn kết chặt chẽ cơng nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ. Xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động, tích cự hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
(tháng 1 năm 2011) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020.
Chiến lược nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ,
kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ
rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của

Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát
triển cao hơn trong giai đoạn sau” 5. Đảng ta chỉ rõ: thực hiện thắng lợi chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân của các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở.
5

Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb chính trị quốc gia tr 103

17


Trên lĩnh vực văn hóa, Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc
tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào
toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan
trọng của phát triển”. Trong quá trình hội nhập với khu vực cũng như trên phạm vi quốc tế
Đảng ta luôn xác định rõ nguyên tắc hội nhập chứ khơng hịa tan; định hướng xã hội chủ
nghĩa là bất biến, song để đưa đất nước đi lên không thể khơng có các hoạt động giao lưu
văn hóa khu vực và trên phạm vi thế giới. Trong quá trình giao lưu đó phải giữ cho được
bản sắc văn hóa dân tộc, giao lưu văn hóa cũng là nhằm mục đích phục vụ cho định hướng
xã hội chủ nghĩa của Đảng. Tuy nhiên trong q trình giao lưu, văn hóa có sự tiếp thu
những tinh hoa văn hóa của các nước trong khu vực cũng như phạm vi thế giới, cho nên
cần phải “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức,
đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn
học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái
lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hố”. Như vậy trong q
trình đi lên chủ nghĩa xã hội, có thể coi văn hóa là một trong nhiều cái vạn biến để giữ
vững cái bất biến đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

 Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Đảng ta chỉ rõ: “Nhiệm vụ của quốc
phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững
hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù
địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”6. Trên lĩnh vực này hiện nay chúng
ta có quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới; tuy nhiên trong quá trình quan hệ phải
6

Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Nxb chính trị quốc gia tr 81 - 82

18


xác định rõ đối tượng cũng như đối tác để có bước đi đúng, phù hợp. Mục tiêu là phải
bảo vệ cho được nền độc lập của Tổ quốc. Đây là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của cơng tác quốc phịng an ninh, nó quyết định và đảm bảo cho việc
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
 Trên lĩnh vực ngoại giao: Có thể nói đây là một trong những lĩnh vực thể
hiện rõ nhất sự ứng vạn biến của Đảng ta trong quá trình hội nhập với khu vực và
trên thế giới. Nhìn lại quá trình hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
chúng ta thấy quan điểm ngoại giao của Đảng có sự phát triển nhận thức theo từng
giai đoạn, theo nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng khác nhau. Điều đó nói lên
cái vạn biến linh hoạt trong công tác ngoại giao của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ
rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và
phát triển; đa phương hố, đa dạng hố quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ

và tiến bộ xã hội trên thế giới. 
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”.
 Như vậy để thực hiện thắng lợi mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, đây là mục
tiêu bất biến mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn cần phải sử dụng nhiều
các biện pháp, cách thức, phương pháp phục vụ nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đó.
Tất cả những cái đó là những cái vạn biến thể hiện trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hợi,
ngoại giao, quốc phịng an ninh…của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
 Những lĩnh vực trên đồng thời cũng là những quan điểm cơ bản của Đảng ta
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là
cái vạn biến để cho cái bất biến luôn luôn được giữ vững.
19


KẾT LUẬN
Phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
phương pháp cách mạng mang tính nguyên tắc trong chỉ đạo thực thi nhiệm vụ
cách mạng. Nguyên tắc là phải giữ vững mục tiêu cách mạng: giữ vững độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu bất biến, không thay đổi.
Để giữ vững được mục tiêu ấy phải thực hiện nhiều biện pháp, nhiều cách thức,
trên mọi lĩnh vực, phù hợp với mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau - ấy là ứng
vạn biến, mục đích cuối cùng là phải giữ vững cái bất biến, trên cơ sở đó, ứng
vạn biến phải phù hợp điều kiện hoàn cảnh nhất định, nhưng cái bất biến không
thay đổi.
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị lý luận
và thực tiễn hết sức to lớn, là sự đóng góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin về đường lối đấu tranh cách mạng, là nền tảng tư tưởng lý luận của
Đảng, là cơ sở để Đảng hoạch định đường lối đấu tranh cách mạng. Tư tưởng “Dĩ
bất biến ứng vạn biến” không chỉ có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà còn nguyên giá trị trong giai đoạn hiện nay

cũng như mai sau./.

20



×