Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Lời Mở Đầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.25 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế đều có quyền tự do kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật. Quyền tự do
kinh doanh và bình đẳng của các doanh nghiệp chỉ thực sự được bảo đảm trên
cơ sở một hệ thống pháp luật hoàn thiện, mà trước hết là hệ thống pháp luật về
tổ chức doanh nghiệp.
Trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, pháp luật kinh tế
nói chung và pháp luật về các hình thức tổ chức kinh doanh nói riêng, được xây
dựng trên nền tảng những đặc thù về chính trị, kinh tế - xã hội, có tính chất giải
pháp tình thế, nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn kinh doanh đặt
ra. Các văn bản pháp luật về doanh nghiệp ngày càng được gia tăng nhanh chóng
cả về số lượng và hình thức văn bản. Tuy nhiên chất lượng của các văn bản này
nhiều khi còn khác nhau.
Với quan điểm xay dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, những năm gần đây Nhà nước ta rất quan tâm xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp. Việc ban hành Luật Doanh nghiệp 1999
được xem như một bước phát triển quan trọng, với những tư duy pháp lý mới
trong xây dựng pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống pháp
luật hiện hành về doanh nghiệp vẫn chưa đạt được mức độ hoàn thiện cần thiết,
chưa đáp ứng được tốt các yêu cầu mà thực tiễn kinh doanh đang đặt ra. Những
vấn đề pháp lý về tổ chức doanh nghiệp được quy định trong nhiều văn bản pháp
luật khác nhau. Nội dung của các văn bản pháp luật này bộc lộ nhiều bất cập cả
về nội dung pháp lý và kỹ thuật lập pháp. Tĩnh phức tạp, mâu thuẫn, chồng chéo
là những biểu hiện không hiếm thấy trong pháp luật hiện hành về doanh nghiệp.
Thực tế này là nguyên nhân khơng nhỏ dẫn đến kìm hãm sự pháp triển của hoạt
động kinh doanh; tạo ra sự phân bổ các nguồn lực không hợp lý, tác động tiêu
cực đến sản xuất kinh doanh và tính cơng bằng trong mơi trường kinh doanh.
Đảng và Nhà nước ta có chủ trương “Đổi mới và hoàn thiện khung pháp
lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động
tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất kinh doanh của mọi
thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau...”. Trên tinh thần đó,


Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đưa Luật Doanh nghiệp


(áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế) vào chương trình
chuẩn bị xây dựng Luật của Quốc hội nhiệm kỳ khóa IX (2002 – 2007).
Pháp luật về doanh nghiệp là một nội dung quan trọng của pháp luật kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, đang được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh
vực khác nhau quan tâm nghiên cứu. Ở phạm vi và mức độ khác nhau, có một số
cơng trình khoa học đã được cơng bố, đề cập đến một vài khía cạnh của pháp luật
về doanh nghiệp. Từ việc đánh giá tình hình nghiên cứu pháp luật về doanh
nghiệp ở Việt Nam, cho phép khẳng định, cho đến nay, chưa có cơng trình nào đi
sâu nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống các vẫn đề lý luận và
thực tiễn về doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp nói chung, để trên cơ sở
đó chỉ ra cơ sở khoa học của việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay. Vì vậy em chọn đề tài này mong muốn tìm hiểu sâu thêm về vấn
đề này ở nước ta.
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ về tổng quan pháp luật Việt Nam về các
loại hình doanh nghiệp. Để thực hiện được mục đích này, đề tài đã phân tích, làm
rõ những vấn đề lý luận về doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp; phân tích
những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp nói chung và về
từng loại hình doanh nghiệp nói riêng từ đó đưa ra những ưu, nhược điểm của
pháp luật Việt Nam về vấn đề này; cuối cùng là đưa ra những quan điểm cá nhân
về định hướng và những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở
Việt Nam hiện nay.
Để làm rõ các về vấn đề nêu trên, đề tài này đã sử dụng rất nhiều các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhua, như phương pháp tổng hợp và
phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp
nghiên cứu lý luận với thực tiễn... Các phương pháp nghiên cứu này được thực
hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; trên cơ
sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Đảng

cộng sản Việt Nam.
Sau đây, chúng ta hãy cũng tìm hiểu tổng quan pháp luật Việt Nam về các
loại hình doanh nghiệp!


NỘI DUNG CHÍNH
I/ Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp:
1/ Khái niệm doanh nghiệp:
Khác với nhiều nước trên thế giới, pháp luật hiện hành Việt Nam có đưa ra
định nghĩa pháp lý về doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp tư nhân (1999), Luật
cơng ty (1990) mà sau đó được thay thế bằng Luật Doanh nghiệp (1999) và mới
đây nhất là Luật Doanh nghiệp (2005) là các văn bản đưa ra định nghĩa chính
thức về doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở
một số văn bản pháp luật khác của Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp được xác
định với nội hàm hẹp hơn như Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam và các văn
bản hướng dẫn thi hành...
Theo điều 4, Luật Doanh nghiệp 2005 thì Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Phù hợp với
quan điểm chung về doanh nghiệp như vậy, các văn bản pháp luật về tổ chức
doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay chỉ quy định rõ tư cách doanh nghiệp cho
các chủ thể kinh doanh là:
 Doanh nghiệp tư nhân (quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005).
 Các loại công ty: công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn (quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005).
 Công ty Nhà nước (quy định trong Luật Doanh nghiệp Nhà nước).
 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (quy định trong Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam).
Có thể thấy, khái niệm doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2005 có nội
hàm hẹp hơn khái niệm chủ thể kinh doanh theo cách hiểu thông thường. Đây

cũng là cơ sở của quan điểm cho rằng: theo suy luận lôgic từ pháp luật hiện hành
thì hiện nay, khơng phải tất cả các đơn vị kinh doanh (chủ thể kinh doanh) được
thành lập “nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh” đều
được coi là doanh nghiệp. Nhận định này là có cơ sở, bởi lẽ có những chủ thể
kinh doanh nhỏ (hộ gia đình, cá nhân) không thỏa mãn các điều kiện theo định
nghĩa pháp lý về doanh nghiệp. Điều này dẫn đến trên thực tế, địa vị pháp lý của
các chủ thể kinh doanh là doanh nghiệp và những chủ thể kinh doanh không phải


là doanh nghiệp được quy định không giống nhau (về các vấn đề chủ yếu như:
lựa chọn ngành nghề kinh doanh, ký kết hợp đồng kinh tế, tham gia quan hệ đầu
tư trực tiếp từ nước ngồi, xử lý tình trạng phá sản...).
Đã có những ý kiến cho rằng hợp tác xã cũng là một doanh nghiệp nhưng
thực chất hợp tác xã là một hình thức kinh doanh tách biệt. Mặc dù thực tiễn điều
chỉnh pháp luật đối với hợp tác xã luôn gắn liền với hệ thống pháp luật về chủ thể
kinh doanh, song về cơ bản hợp tác xã không thể hiện đầy đủ dấu hiệu bản chất
của hình thức tổ chức kinh doanh theo đúng ý nghĩa đích thực của khái niệm
pháp lý này. Lý luận và kinh nghiệm quốc tế về hợp tác xã cho thấy, hợp tác xã
theo quan điểm phổ biến trên thế giới được hiểu là một thiết chế kinh tế - xã hội,
với những đặc điểm đặc thù, khơng hồn tồn mang bản chất của doanh nghiệp
kinh doanh thuần túy, thể hiện cơ bản nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó.
Tiếp thu có chọn lọc những nguyên tắc này, pháp luật hiện hành của Việt Nam
không quy định hợp tác xã là doanh nghiệp mà chỉ khẳng định hợp tác xã hoạt
động “như một loại hình doanh nghiệp” (theo điều 1 Luật hợp tác xã 2003). Hợp
tác xã thường chỉ dừng lại ở các hoạt động kinh tế với mục đích đáp ứng nhu cầu
cuộc sống của các xã viên. Hợp tác xã mặc dù là một thiết chế kinh tế, song vẫn
ln mang tính chất xã hội, cộng đồng sâu sắc. Điều này thể hiện các nhà lập
pháp Việt Nam đã có phần hợp lý khi khơng quy định hợp tác xã là một loại hình
doanh nghiệp, cho dù trong q trình tồn tại, chúng có thể có những hoạt động
như doanh nghiệp.

Như vậy, trên cả bình diện nghiên cứu cũng như pháp luật thực định có thể
thấy, quan niệm hiện nay về doanh nghiệp chưa có sự thống nhất. Sự khơng
thống nhất này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song điều đáng chú ý là
hiện đang tồn tại một sự khác biệt lớn giữa quan điểm của Việt Nam (thể hiện
trong pháp luật hiện hành) với đa số các nước về khái niệm doanh nghiệp. Với
điều kiện đất nước đang tiến vào thời kỳ hội nhập, quan điểm về doanh nghiệp
với ý nghĩa tạo tiền đề lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp cần được tiếp cận phù hợp với xu hướng phổ biến, đáp ứng đòi hỏi
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa. Để thống nhất cách hiểu về doanh nghiệp, chúng
ta cần xem xét khái niệm doanh nghiệp từ hai góc độ: kinh tế - xã hội và pháp lý,
gắn với những yếu tố của kinh tế thị trường.


* Từ góc độ kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp được coi là thành tố cơ bản của hệ
thống kinh tế - xã hội. Bản chất của doanh nghiệp là những thực thể xã hội, sinh
ra với chức năng chủ yếu là hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp được
cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như: cơ sở vật chất (vốn, tài sản), bộ máy
quản lý điều hành, người lao động... Với chức năng kinh doanh, doanh nghiệp sử
dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm, hàng hóa và
dịch vụ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế cũng như toàn xã hội. Sự tồn tại của
doanh nghiệp luôn được đặt trọng môi trường kinh tế - xã hội xác định. Các yếu
tố của môi trường kinh tế - xã hội (cơ chế kinh tế, trình độ phát triển kinh tế, hệ
thống pháp luật, trình độ dân trí, văn hóa kinh doanh...) đều có tác động đến sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp ở những phương diện và mức độ khác
nhau.
Về mặt thực tiễn, sự hình thành doanh nghiệp là hệ quả tất yếu của sự phát
triển hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp không phải hiện tượng riêng có của
nền kinh tế thị trường, nhưng lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, chỉ trong điều
kiện kinh thế thị trường, doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển đúng với ý
nghĩa đích thực của nó.

Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp giữ vai trò trung
tâm trong các hoạt động kinh tế, như có ý kiến đã cho rằng “các doanh nghiệp là
những khối chủ chốt của thị trường, sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ, tạo
thành cơ sở của trao đổi thị trường”.
* Từ góc độ pháp lý, doanh nghiệp được hiểu là một loại chủ thể pháp luật (có tư
cách chủ thể pháp lý độc lập) và có ngành nghề kinh doanh. Trong điều kiện kinh
tế thị trường, doanh nghiệp trở thành đối tượng trung tâm chịu sự điều chỉnh của
hệ thống pháp luật kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp có những
đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là một loại chủ thể pháp luật. Với tư cách là một
loại chủ thể pháp luật, doanh nghiệp có năng lực chủ thể để tham gia vào các
quan hệ pháp luật, trong đó trước hết và chủ yếu là các quan hệ kinh doanh. Tính
chất chủ thể pháp lý độc lập của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có quyền
tự chủ, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong việc tổ chưc hoạt động. Trách
nhiệm pháp lý cơ bản của doanh nghiệp về hoạt động kinh doanh thể hiện ở chỗ
doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, thậm chí vượt


ra khỏi phạm vi những tài sản đó về những cam kết tài chính, nợ nần trong kinh
doanh...
Thứ hai, doanh nghiệp được xác lập tư cách (thành lập và đăng ký kinh
doanh) theo thủ tục do pháp luật quy định. Việc thành lập và đăng ký kinh doanh
là cơ sở để xác định tính chất chủ thể pháp lý độc lập của doanh nghiệp, gắn với
những đặc điểm của hoạt động kinh doanh. Đặc điểm này xuất phát từ yêu cầu
của quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, doanh nghiệp phải có ngành nghề kinh doanh. Đặc điểm này biểu
hiện ở chỗ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện có hệ thống,
một cách độc lập, trên danh nghĩa và trách nhiệm của doanh nghiệp với mục đích
sinh lời và trong điều kiện pháp luật quy định. Tính chất hoạt động kinh doanh có
hệ thống là một dấu hiệu cơ bản để xác định nghề nghiệp kinh doanh của doanh

nghiệp. Ngoài ra, bản thân nghề nghiệp kinh doanh cũng đã quy định mục đích
thu lợi nhuận trong các hoạt động của doanh nghiệp.
2/ Phân loại doanh nghiệp:
Việc phân loại doanh nghiệp nhằm các mục đích khác nhau và được dựa
trên các tiêu chí khác nhau. Từ góc độ nghiên cứu và lập pháp, việc phân loại
doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng cho việc lựa chọn cơ chế điều chỉnh pháp
luật thích hợp đối với doanh nghiệp, cả về quản lý Nhà nước và quản trị doanh
nghiệp. Có nhiều căn cứ để phân loại doanh nghiệp như căn cứ vào tính chất sở
hữu và mục đích hoạt động của doanh nghiệp; phân loại theo cơ cấu nhà đầu tư
và phương thức góp vốn vào doanh nghiệp; phân loại theo tư cách pháp lý của
doanh nghiệp...
Ở hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau thì có sự phân chia các
loại hình doanh nghiệp khác nhau. Ví dụ như ở các nước theo hệ thống Luật án lệ
chia doanh nghiệp ra làm hai nhóm chủ yếu là hãng kinh doanh và công ty; ở các
nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì doanh nghiệp được chia thành
hai nhóm là doanh nghiệp cá nhân và cơng ty; doanh nghiệp theo hệ thống pháp
luật của Trung Quốc gồm: hộ cá thể, doanh nghiệp cá thể (doanh nghiệp tư
nhân), hợp danh, doanh nghiệp tập thể, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi và cơng ty.
Ở Việt Nam, do những điều kiện lịch sử, xã hội đặc thù, doanh nghiệp và
pháp luật về doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều điểm khác biệt lớn so với xu


hướng phổ biến trên thế giới, một trong những khác biệt đó là vấn đề loại hình
doanh nghiệp. Các loại hình doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện hành
bao gồm:
- Một là, doanh nghiệp tư nhân. Theo điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005, doanh
nghiệp tư nhân được định nghĩa là “doanh ghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp”.

- Hai là, công ty. Thep pháp luật hiện hành, cách tiếp cận công ty của Việt Nam
có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của hệ thống pháp luật Châu Âu lục
địa, theo đó cơng ty được chia thành hai nhóm:
 Nhóm cơng ty có tính chất đối nhân: là cơng ty hợp danh. Theo khoản 1
điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005, công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít
nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới
một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngồi các thành viên hợp
danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của cơng ty. Thành
viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của cơng ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào cơng ty.
 Nhóm cơng ty có tính chất đối vốn: là công ty cổ phần và công ty trách
nhiệm hữu hạn, cụ thể là:
Công ty cổ phần theo quy định tại khoản 1 điều 77 là doanh nghiệp, trong
đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đơng có
thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số
lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vị số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đơng
có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp
quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 84 của Luật doanh nghiệp 2005.
Công ty trách nhiệm hữu hạn, theo quy định tại khoản 1 điều 38 Luật
Doanh nghiệp 2005, là doanh nghiệp trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá
nhân, số lượng thành viên không vượt quá 50. Thành viên chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn
cam kết góp vào doanh nghiệp. Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển


nhượng theo quy định tại các điều 43, 44, và 45 của Luật này. Đây là mơ hình tổ
chức kinh doanh phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay.
- Ba là, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Về bản chất, doanh nghiệp có

vốn đầu tư nươc ngồi là công ty, tuy nhiên quy chế pháp lý cho các doanh
nghiệp này khơng giống như các cơng ty có vốn đầu tư trong nước. Nhiều ràng
buộc pháp lý được đặt ra đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Theo pháp luật hiện hành, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm 2 loại
doanh nghiệp:
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp cho hai bên hoặc nhiều bên hợp
tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa
Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt nam và Chính phủ nước ngồi;
hoặc là doanh ngiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với
doanh nghiệp Việt Nam; hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư
nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngồi là doanh nghiệp do nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
- Bốn là, doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước có lịch sử tồn tại khá
lâu đời và hiện đang giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế theo quan điểm kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo điều 1 của Luật
doanh nghiệp Nhà nước 2003, doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà
nước sở hữu tồn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức
dưới hình thức cơng ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
II/ Tổng quan pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp:
1/ Những quy định chung của pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp:
Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp là
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp. Còn theo nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp
là các quan hệ pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, đó là các quan hệ phát sinh
trong các giai đoạn: gia nhập thị trường, quản trị doanh nghiệp, rút khỏi thị
trường.
Những quy định về doanh nghiệp được nêu trong hệ thống văn bản pháp
luật về doanh nghiệp. Nội dung của pháp luật về doanh nghiệp chủ yếu là những
quy phạm ghi nhận và đảm bảo quyền, đồng thời xác định trách nhiệm của nàh



đầu tư trong việc tổ chức, vận hành doanh nghiệp. Các nhóm quy phạm của pháp
luật Việt Nam về doanh nghiệp bao gồm:
- Một là, các quy định về bản chất pháp lý của loại hình doanh nghiệp. Các quy
định này đưa ra những dấu hiệu pháp lý để xác định loại hình doanh nghiệp. Mỗi
loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý nhất định và cần được xác
định trong luật pháp. Các nhà đầu tư có quyền lựa chọn loại hình doanh nghiệp
phù hợp với nhu cầu và điều kiện của mình, song trong quá trình tổ chức vận
hành doanh nghiệp, phải tuân thủ những quy định vể bản chất của loại hình
doanh nghiệp đã lựa chọn.
- Hai là, các quy định về thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh. Thành
lập doanh nghiệp có ỹ nghĩa xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp. Trong
nền kinh tế thị trường, với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, thành lập
doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư. Tuy nhiên, sự hiện diện
của doanh nghiệp trên thương trường luôn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến những
lợi ích của các chủ thể có liên quan, vì vậy việc thành lập doanh nghiệp phải
được thực hiện trên khuôn khổ pháp luật. Chế định thành lập doanh nghiệp
thường bao gồm những nội dung cơ bản là: đối tượng có quyền thành lập doanh
nghiệp, ngành nghề kinh doanh, thủ tục đăng ký kinh doanh.
- Ba là, các quy định về tổ chức quản lý doanh nghiệp. Với yêu cầu của nguyên
tắc tự do kinh doanh, việc tổ chức quản lý (nội bộ) doanh nghiệp trước hết và chủ
yếu thuộc quyền quyết định của chủ sở hữu các doanh nghiệp. Pháp luật chỉ quy
định ràng buộc những vấn đề cơ bản, mang tính nguyên tắc, xác lập khung pháp
lý cho việc tổ chức quản lý doanh nghiệp. Nội dung của chế định tổ chức quản lý
doanh nghiệp bao gồm các vấn đề là: cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý, thẩm quyền
và thể thức hoạt động của bộ máy quản lý doanh nghiệp, nghĩa vụ của người
quản lý doanh nghiệp, kiểm soát giao dịch tư lợi.
- Bốn là, các quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Vốn là cơ sở vật chất
không thể thiếu cho sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp. Vốn của doanh

nghiệp được quan niệm là vốn kinh doanh, là giá trị của toàn bộ tài sản được đầu
tư vào hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời. Việc xác định cấu
trúc vốn của doanh nghiệp phải tuân thủ những ràng buộc của pháp luật ở các
mức độ khác nhau, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp và lĩnh vực hoạt động
của doanh nghiệp. Nội dung của các quy định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp


bao gồm hai nội dung cơ bản là: cơ sở hình thành, mối quan hệ (tỷ lệ) giữa vốn
chủ sở hữu và vốn tín dụng; và cơ chế điều chỉnh, huy động vốn của doanh
nghiệp trong quá trình hoạt động.
- Năm là, các quy định về tổ chức lại doanh nghiệp. Tổ chức lại doanh nghiệp là
một nhu cầu chính đáng của các nhà đầu tư, nó có thể xuất hiện trong quá trình tự
nhiên của doanh nghiệp. Nội dung của việc tổ chức lại doanh nghiệp chính là sự
biến đổi của doanh nghiệp cho phù hợp với môi trường và điều kiện kinh doanh
cụ thể, nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn. Các biện pháp tổ chức lại
doanh nghiệp về cơ bản bao gồm: chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp và
chuyển đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp. Biện pháp tổ chức lại doanh
nghiệp cho từng loại hình doanh nghiệp khác nhau thì khác nhau.
- Sáu là, các quy định về giải thể doanh nghiệp. Giải thể doanh nghiệp là một
trong những thủ tục pháp lý dẫn đến chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp. Các quy
định pháp luật về giải thể doanh nghiệp bao gồm hai nội dung cơ bản là: các
trường hợp giải thể và thủ tục giải thể. Về nguyên tắc, việc quyết định giải thể
doanh nghiệp thuộc quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh
nghiệp khơng cịn thỏa mãn các điều kiện tồn tại theo quy định của pháp luật
hoặc kinh doanh vi phạm pháp luật thì doanh nghiệp sẽ bị bắt buộc phải giải thể.
Như vậy, phụ thuộc vào các loại hình doanh nghiệp, hệ thống pháp luật về
doanh nghiệp được cấu trúc với những chế định phù hợp với các đặc điểm pháp
lý của từng loại doanh nghiệp.
2/ Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
Trong cơ chế thị trường, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu bắt nguồn

từ chính địi hỏi của các quan hệ kinh tế. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi pháp luật
phải đảm bảo các quy luật, nguyên tắc của thị trường. Trong quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, pháp luật về doanh nghiệp cùng với các chế
định khác của pháp luật kinh tế, là công cụ không thể thiếu để Nhà nước điều tiết
nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với các
nhà đầu tư, pháp luật về doanh nghiệp khơng chỉ có vai trị đảm bảo quyền tự do
và sự bình đẳng mà cịn có vai trị đảm bảo sự an toàn trong đầu tư vốn của họ.
Vai trò của pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở những mặt sau:
- Một là, pháp luật về doanh nghiệp phải đảm bảo quyền tự do của công dân
trong tổ chức hoạt động kinh doanh. Với một xã hội có nhà nước, tự do kinh


doanh chỉ có ý nghĩa hiện thực khi được ghi nhận bởi pháp luật. Vì vây, quyền tự
do kinh doanh không thể được thực hiện hiệu quả trên thực tế nếu thiếu pháp
luật.
Vai trò ghi nhận và đảm bảo quyền tự do kinh doanh của pháp luật về
doanh nghiệp thể hiện ở những nội dung cơ bản là:
 Pháp luật về doanh nghiệp quy định những ngành nghề, lĩnh vực cấm kinh
doanh hoặc hạn chế kinh doanh.
 Pháp luật về doanh nghiệp quy định thủ tục đăng ký kinh doanh cho các
nhà đầu tư.
 Pháp luật về doanh nghiệp quy định các hình thức doanh nghiệp để các
nhà đầu tư lựa chọn.
 Pháp luật về doanh nghiệp quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của nhà
đầu tư trong tổ chức hoạt động của doanh nghiệp như: tổ chức bộ máy
quản lý nội bộ của doanh nghiệp; mở rộng, thu hẹp quy mô kinh doanh;
huy động vốn; chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp...
- Hai là, pháp luật về doanh nghiệp đảm bảo quyền sở hữu vốn và tài sản trong
kinh doanh của các nhà đầu tư. Vốn và tài sản là tiền đề vật chất không thể thiếu
để thực hiện hoạt động kinh doanh. Vì vậy, quyền sở hữu vốn và tài sản cần phải

được ghi nhận bằng pháp luật. Pháp luật về doanh nghiệp góp phần khẳng định
địa vị chủ sở hữu tài sản của các tổ chức, cá nhân khi họ dùng vốn và tài sản để
đầu tư kinh doanh. Với quy định về quyền và nghĩa vụ của người góp vốn vào
doanh nghiệp, pháp luật về doanh nghiệp thể hiện vai trò tiếp tục phát triển các
quy định về sở hữu đối với tài sản trong kinh doanh. Tính đặc thù của các quy
định về sở hữu trong pháp luật về doanh nghiệp thể hiện ở chỗ pháp luật về
doanh nghiệp bảo vệ quyền sở hữu tài sản trong trạng thái vận động, đồng thời
hạn chế những tiêu cực phát sinh do chế độ đa sở hữu trong kinh doanh của cơ
chế thị trường gây ra.
- Ba là, pháp luật về doanh nghiệp là công cụ đảm bảo cho các hoạt động kinh
doanh vận hành theo các quy luật của thị trường. Đối với pháp luật về doanh
nghiệp, việc xác định tư cách chủ thể, xác định địa vị pháp lý của chủ thể kinh
doanh, đảm bảo quyền tự do kinh doanh và quyền bình đẳng của họ có tầm quan
trọng đặc biệt. Đó là cơ sở, sự đảm bảo pháp lý để các chủ thể kinh doanh tiến
hành các hoạt động của mình trên thương trường.


- Bốn là, pháp luật về doanh nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như
phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường... Để đạt được mục tiêu
đặt ra, Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ khác nhau để điều tiết và định
hướng nền kinh tế thị trường, trong đó pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu
nhất. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của pháp luật kinh doanh, pháp luật
về doanh nghiệp góp phần giải quyết các vấn đề xã hội; giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa các lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp và lợi ích của các chủ
thể có quan hệ với doanh nghiệp (chủ nọ, người lao động...) trong tổ chức hoạt
động kinh doanh.
Như vậy có thể thấy rằng vai trị của pháp luật doanh nghiệp là rất to lớn,
nó có ý nghĩa làm hồn thiện hơn nữa các loại hình doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy
nền kinh tế thị trường ngày một phát triển.
III/ Đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp:

Nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp
đã được xây dựng một cách khá đầy đủ, bao trùm được hầu hết các hoạt động
kinh tế, thương mại trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, hệ thống này vẫn cịn có
một số điểm bất cập, sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những thành tựu và hạn
chế của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp trên các khía canh sau:
1/ Đánh giá chung về hệ thống pháp luật doanh nghiệp:
Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp được quy định dựa trên quan điểm của
Nhà nước về đảm bảo quyền tự do bình đẳng trong kinh doanh.
Tuy nhiên hiện nay pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam chưa có thống
nhất và cịn nhiều bất cập. Đơi khi các quy phạm pháp luật còn mâu thuẫn, chồng
chéo lẫn nhau. Số lượng văn bản quá nhiều dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng
trong thực tế.
Thực tiễn cho thấy, việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp
chưa đủ để giải quyết được rào cản đối với sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Biểu hiện của vấn đề này trên thực tế là hiệu lực của Luật doanh nghiệp
có phần bị hạn chế bởi sự khơng đồng bộ, thiếu thống nhất... Chính vì vậy những
vướng mắc, rào cản đối với doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh vẫn cịn nhiều.
Ngồi ra, luật doanh nghiệp hay rộng hơn là toàn bộ hệ thống pháp luật về
doanh nghiệp chưa bao qt được hết các loại hình doanh nghiệp có thể và đang
thực tế tồn tại. Việc đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều


phức tạp gây tốn kém cho các chủ đầu tư khi gia nhập thị trường. Bên cạnh đó,
các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn,
chưa đảm bảo dược sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, chưa có những
biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp mà thực tiễn kinh doanh thời gian qua cho
thấy là cần thiết...
2/ Đánh giá đối với từng loại hình doanh nghiệp:
2.1/ Doanh nghiệp nhà nước:
So với các nước trên thế giới, ở Việt Nam ,doanh nghiệp nhà nước được

pháp luật điều chỉnh khá cụ thể. Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 đã có những
đổi mới đáng kể so với các quy định trước đó về doanh nghiệp nhà nước, trong
đó cơ bản nhất phải kể đến là các tiếp cận khái niệm doanh nghiệp nhà nước dựa
trên tiêu chí quyền chi phối hay kiểm sốt doanh nghiệp của nhà nước. Hình thức
pháp lý của doanh nghiệp nhà nước được quy định rất đa dạng. Luật doanh
nghiệp Nhà nước 2003 có ý nghĩa quan trọng, phù hợp với quan điểm: trong nên
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhà nước vẫn cần duy trì những
doanh nghiệp nhà nước thuần túy, tức là những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà
nước nắm giữ 100% vốn.
Tuy nhiên, pháp luật về doanh nghiệp nhà nước lại thể hiện sự phức tạp
trong nội dung, thể hiện ở đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng của Luật
doanh nghiệp Nhà nước 2003. Những quy định về các loại hình doanh nghiệp
trong luật này chủ yếu mang tính chất bổ sung cho những quy định về công ty
trong Luật doanh nghiệp 2005. Những đổi mới của Luật doanh nghiệp Nhà nước
2003 về cơ bản chỉ dưng lại ở mức độ sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật
doanh nghiệp 2005. Nhìn chung, Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 như là một
giải pháp tình thế nhằm tiếp tục tổ chức, sắp xếp lại, nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
2.2/ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi:
Pháp luật hiện hành về đầu tư ở Việt Nam đang thể hiện sự phân biệt đối
xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việc tổ chức vận hành doanh
nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài (cá nhân, tổ chức nước ngoài) khi đầu tư vào
Việt nam được áp dụng quy chế pháp lý riêng, với nhiều quy định khác với quy
chế pháp lý áp dụng cho các nhà đầu tư trong nước. Đây cũng là điểm bất cập của
hệ thống pháp luật hiện hành về đầu tư tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh


tế quốc tế. Việt Nam là một trong số ít nước ban hành Luật đầu tư nước ngồi và
duy trì hai hệ thống pháp luật khác biệt áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài về thủ tục và điều kiện đầu tư.

2.3/ Doanh nghiệp tư nhân:
Doanh nghiệp tư nhân là hình thức tổ chức kinh doanh khá được ưa
chuộng tại Việt Nam hiện nay. Các quy định về doanh nghiệp tư nhân trong Luật
Doanh nghiệp 2005 nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu về tổ chức và hoạt động
của loại hình doanh nghiệp này trong thời gian quá.
Tuy vậy pháp luật về doanh nghiệp tư nhân vẫn còn nhiều điểm bất cập là:
- Một là, việc sử dụng thuật ngữ “doanh nghiệp tư nhân” theo quy định của Luật
doanh nghiệp vẫn chưa rõ ràng, nhất quán. Nhiều vấn đề có thể nảy sinh trong
thực tiễn xuất phát từ sự quy định chưa rõ ràng và thiếu nhất quán này như: vấn
đề xác định tư cách chủ thể hợp đồng, vấn đề xác định nghịa vụ tài sản đối với
các khoản nợ dân sự của chủ doanh nghiệp tư nhân và các khoản nợ trong kinh
doanh phát sinh từ hoạt động của doanh nghiệp.
- Hai là, luật doanh nghiệp chưa quy định rõ ràng, hợp lý về vấn đề bán doanh
nghiệp tư nhân. Đối tượng của quan hệ mua bán là doanh nghiệp tư nhân, bao
gồm cả tài sản và tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định
của Luật doanh nghiệp thì việc mua bán doanh nghiệp tư nhân thực chất chỉ là
mua bán tài sản của doanh nghiệp còn để thực hiện hoạt động kinh doanh, người
mua doanh nghiệp phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh lại, giống như thành lập
một doanh nghiệp mới. Người bán và người mua sẽ gặp phải những rườm rà,
phức tạp về mặt pháp lý, mà có thể cịn khơng đạt được mục đích của mình khi
tham gia quan hệ mua bán doanh nghiệp.
- Ba là, luật doanh nghiệp 2005 chưa có quy định về vấn đề để lại thừa kế, tăng,
cho doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy việc tặng cho hay để lại thừa kế doanh nghiệp
tư nhân cũng sẽ được thực hiện theo quy định của bộ luật Dân sự. Cách làm này
sẽ gây khó khăn, cản trở về mặt pháp lý đối với những người được tặng, cho,
thừa kế doanh nghiệp nếu họ muốn tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp tư nhân đó.


2.4/ Cơng ty hợp danh:

Việc ghi nhận hình thức cơng ty hợp danh là một điểm mới của Luật doanh
nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, Luật quy định về loại hình cơng ty này cịn khá sơ
sài, cụ thể:
- Một là, công ty hợp danh không được thừa nhận là một pháp nhân đã gây ra
hàng loạt vấn đề pháp lý nảy sinh chưa có phương án giải quyết rõ ràng như:
cơng ty hợp danh có thể nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật hay
không? Công ty hợp danh có thể là nguyên đơn hay bị đơn trong các quan hệ
pháp luật tố tụng hay không?..
- Hai là, công ty hợp danh và công ty hợp danh hữu hạn đều được xếp vào loại
hình cơng ty đối nhân song có nhiều đặc điểm khác nhau về tổ chức quản lý.
Điều này gây ra những khó khăn trong giải thích và áp dụng pháp luật. Về mặt
pháp lý, công ty hợp danh và công ty hợp danh hữu hạn có những đặc điểm
chung nhưng đây là hai loại hình doanh nghiệp khác nhau do vậy khơng thể đề
cập đến khái niệm công ty hợp danh bao gồm hai loại công ty này được.
- Ba là, pháp luật về công ty hợp danh chưa xác định về phương thức phân chia
lợi nhuận và rủi ro trong kinh doanh giữa các thành viên hợp danh. Thiếu sót này
là nguy cơ tiềm ẩn làm phát sinh những tranh chấp trong nội bộ công ty, mà về
pháp lý sẽ không dễ dàng giải quyết.
Ngồi ra những bất cập về cơng ty hợp danh còn được thể hiện trong nhiều
quy định khác của Luật doanh nghiệp như quy định về cách thức quản lý và điều
hành hoạt động của công ty chưa rõ ràng; chưa phân định rõ các quan hệ pháp lý
giữa các thành viên với công ty, giữa các thành viên với nhau và giữa các thành
viên với người có giao dịch với công ty...
2.5/ Công ty trách nhiệm hữu hạn:
* Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên:
Việc ghi nhận công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tiến bộ của
Luật doanh nghiệp, có ý nghĩa đa dạng hóa loại hình doanh nghiệp, tạo điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp...
tham gia vao hoạt động kinh doanh. Quy định này cũng giúp các doanh nghiệp dễ
dàng mở rộng quy mô, địa bàn và ngành nghề kinh doanh.



Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập tồn tại như: khơng xác định rõ việc áp
dụng mơ hình ngành, nghề kinh doanh là tùy nghi lựa chọn hay là bắt buộc đối
với các chủ sỏ hữu.
* Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên:
Luật doanh nghiệp Việt Nam đã quy định một cách cụ thể về loại hình
cơng ty này đặc biệt là về vấn đề quản trị, bước đầu đã đảm bảo được hiệu quả
kinh doanh của công ty mà vẫn thể hiện được đặc điểm của công ty này.
Tuy nhiên, pháp luật về cơng ty này vẫn cịn một số hạn chế là: chưa bảo
vệ được tối đa lợi ích của các thành viên, đặc biệt là các thành viên thiểu số trong
công ty; các quy định về quản trị nội bộ của cơng ty cịn chưa rõ ràng, đầy đủ, tư
cách thành viên của cơng ty cịn chưa được phân định rõ...
2.6/ Công ty cổ phần:
Về cơ bản, công ty cổ phần được quy định trong Luật doanh nghiệp 2005
phù hợp với quan điểm phổ biến về loại hình cơng ty này trong pháp luật các
nước trên thế giới. So với trước đây, Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định đầy đủ
hơn các vấn đề pháp lý về tổ chức và hoạt động của loại hình cơng ty này, thẻ
hiện trong các quy định về: bản chất pháp lý của công ty cổ phần, quy chế cổ
đông, vốn và chế độ tài chính... Nhìn chung, Luật này đã tạo được cơ sở pháp lý
cho các nhà đầu tư có thể tổ chức vận hành công ty cổ phần một cách thuân lợi,
từ đó thúc đẩy sự phát triển mạnh của các cơng ty cổ phần trong thời gian qua.
Tuy nhiên, pháp luật về cơng ty cổ phần vẫn cịn những hạn chế cần được
khắc phục là: chưa quy định số lượng cổ đông tối thiểu, bất cập trong quy định về
cổ phần ưu đãi biểu quyết gây bất bình đẳng, làm biến dạng các nguyên tắc pháp
lý cơ bản trong quản trị cơng ty cổ phần... Ngồi ra, Luật doanh nghiệp cịn chưa
xác định rõ một chế độ cung cấp thông tin đầy đủ, định kỳ và thường xuyên cho
các cổ đông. Thiếu những quy định cụ thể về phương thức phát hành cổ phiếu,
trái phiếu...
IV/ Định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiêp

ở Việt Nam:
1/ Định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp:
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp một mặt
nhằm khắc phụ kịp thời những bất cập của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp


đang gây khó khăn cho việc tổ chức vận hành doanh nghiệp, mặt khác phải
hướng tới việc tạo dựng hành lang pháp lý đầy đủ và phù hợp, đáp ứng nhu cầu
phát triển ổn định lâu dài của các loại hình doanh nghiệp. Với cách tiếp cận như
vậy, từ những cơ sở lý luật và thực tiễn ở Việt Nam, việc hoàn thiện pháp luật về
doanh nghiệp cần thực hiện theo những tư tưởng và định hướng chỉ đạo sau:
 Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp phải căn cứ vào những đặc điểm của
nền kinh tế thị trường Việt Nam.
 Pháp luật về doanh nghiệp phải phù hợp với đặc điểm văn hóa kinh doanh
của người Việt.
 Pháp luật về doanh nghiệp phải bảo đảm tiết kiệm chi phí tổ chức vận hành
doanh nghiệp ở mức tối ưu.
 Pháp luật về doanh nghiệp phải đảm bảo tính thống nhất và minh bạch.
 Pháp luật về doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
 Việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp cần được đặt trong giải pháp
tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế.
2/ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp:
2.1/ Giải pháp hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật về doanh nghiệp:
Các loại hình doanh nghiệp được pháp luật quy định là biểu hiện cụ thể
quan điểm của Nhà nước về bảo đảm quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường, loại hình doanh nghiệp địi hỏi phải được pháp luật ghi
nhận một cách đa dạng trên quan điểm không phân biệt tính chất sở hữu và thành
phần kinh tế. Việc phân loại doanh nghiệp cần dựa trên tiêu chí pháp lý chủ yếu
là phương thức góp vốn và tính chất liên kết trong doanh nghiệp. Với tiêu chí xác

định này, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay cần được
hoàn thiện với cấu trúc bao gồm các bộ phận cấu thành cơ bản là:
 Pháp luật về doanh nghiệp cá nhân.
 Pháp luật về công ty hợp danh.
 Pháp luật về công ty hợp danh hữu hạn.
 Pháp luật về công ty cổ phần.
 Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn.
Với cấu trúc hệ thống pháp luật về doanh nghiệp như vậy, việc hồn thiện pháp
luật về doanh nghiệp có nội dung cơ bản là hoàn thiện các quy định về doanh
nghiệp cá nhân và các loại hình cơng ty.


Về phương diện kỹ thuật lập pháp, vấn đề hình thức và cấu trúc văn bản
pháp luật về doanh nghiệp cần được xác định một cách hợp lý. Pháp luật về
doanh nghiệp cần phải đảm bảo tính thống nhất là quan điểm hồn tồn đúng
đắn. Tuy nhiên, tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp cần được tiếp cận
và nhấn mạnh về khía cạnh nội dung, thay vì hình thức và số lượng văn bản.
Về mặt khoa học, cần khẳng định rằng thống nhất pháp luật về doanh
nghiệp là sự sắp xếp các quy định pháp luật về doanh nghiệp thành một chỉnh
thể, với những bộ phận cấu thành tương thích, khơng mâu thuẫn nhau, khơng
chồng chéo lẫn nhau.
2.2/ Giải pháp đối với doanh nghiệp nhà nước:
Như đã phân tích ở trên, khái niệm doanh nghiệp nhà nước và cơ chế điều
chỉnh pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước có những nét khá đặc thù so với
xu hướng phổ biến trên thế giới. Trong điều kiện hiện nay, việc tiếp tục đổi mới
tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang là một nhiệm vụ
quan trọng cần phải giải quyết. Để thực hiện được mục tiêu này, một số giải pháp
đã được đặt ra:
- Một là, xác định rõ ràng và nhất quán về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
mà đại diện là các doanh nghiệp nhà nước. Cần quan niệm rằng, vai trò chủ đạo,

sự chi phối của kinh tế nhà nước không chấp nhận sự lạm dụng mệnh hlệnh hành
chính. Hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước phải đủ
sức cạnh tranh và canh tranh thắng với cuộc đối đầu với các thành phần kinh tế
khác trên cơ sở một mơi trường pháp lý bình đẳng.
- Hai là, đổi mới cơ chế điều chỉnh pháp luật về tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước theo hướng xóa bỏ sự phân biệt trong cơ chế điều chỉnh pháp
luật về tổ chức và hoạt động giữa doanh nghiệp nhà nước và các loại hình cơng ty
có cùng bản chất. Cổ phần hóa cần được đẩy nhanh hơn nhịp độ chậm của những
kế hoạch hiện nay. Cần loại bớt các doanh ngiệp nhà nước yếu kém và khơng bền
vững về tài chính và để các doanh nghiệp nhà nước có thể thể cổ phần hóa mà
vẫn giữ nguyên giá trị cao. Các doanh nghiệp nhà nước cần được đặt trong cùng
một môi trường hoạt động với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để phát triển
một khu vực ngoài quốc doanh mạnh.
Bên cạnh việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp nhà
nước theo cơ chế áp dụng cho các công ty, cần xác định rõ sự tồn tại và hoạt


động của các tổ chức kinh tế cơng ích của nhà nước thay bằng quy chế pháp lý
riêng biệt. Khi xây dựng các quy định về tổ chức kinh tế cơng ích, cần xem xét
tạo điều kiện và khuyến khích cách thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham
gia các hoạt động cơng ích ở các mức độ, phạm vi nhất định.
- Ba là, đổi mới Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 theo hướng luật này chỉ quy
định vấn đề đầu tư vốn nhà nước vào các doanh nghiệp. Vốn của nhà nước chỉ
nên chủ yếu tập trung đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh thiết yếu
của nền kinh tế quốc dân mà các thành phần kinh tế khác khơng muốn hoặc
khơng có khả năng đầu tư.
- Bốn là, đổi mới tổ chức và hoạt động của tổng cơng ty nhà nước theo mơ hình
tập đồn kinh doanh (nhóm cơng ty). Cần quan niệm các tổng cơng ty nhà nước
có bản chất tập đồn kinh doanh, hay nhóm cơng ty theo xu hướng phổ biến trên
thế giới hiện nay. Với quan niệm này, mối quan hệ giữa tổng công ty và các

doanh nghiệp thành viên sẽ được xác định trên cơ sở quan hệ tài chính thay vì
nặng nề về hành chính như hiện nay. Việc xây dựng tập đoàn kinh tế cần được
xác định rõ về nguyên tắc tổ chức hoạt động và cơ sở pháp lý.
2.3/ Giải pháp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Như đã nhận định, pháp luật hiện hành về đầu tư ở Việt Nam đang thể hiện
sự phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngồi. Vì vậy, cần
phải từng bước giảm dần sự khác biệt và tiến tới thống nhất về hình thức, thủ tục
và điều kiện đầu tư giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngồi phù hợp với
thơng lệ quốc tế.
Cần quy định quyền chọn lựa loại hình doanh nghiệp cũng như các vấn đề
pháp lý về tổ chức doanh nghiệp theo quan điểm khơng có sự phân biệt giữa nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngồi. Bên cạnh đó, quyền kinh doanh của
các nhà đầu tư nước ngoài cũng cần được mở rộng phù hợp với các yêu cầu và
lộ trình cam kết quốc tế, nhất là các quy định của WTO; cần giảm bớt các hạn
chế, mở rộng các lĩnh vực đầu tư và đa dạng hóa các hình thức đầu tư nước
ngồi. Giảm tối đa những hạn chế về ngành, nghề kinh doanh và phạm vi tham
gia góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp.
2.4/ Giải pháp hồn thiện pháp luật về cơng ty, doanh nghiệp tư nhân:
* Về loại hình doanh nghiệp: Tự do kinh doanh bao gồm cả tự do lựa chọn hình
thức pháp lý của tổ chức kinh doanh. Vì vậy, việc thừa nhận càng nhiều loại hình


doanh nghiệp thì khả năng lựa chọn của các nhà đầu tư càng dễ dàng hơn và vì
thế, quyền tự do kinh doanh được đảm bảo tốt hơn. Như vậy, cần xem xét để tiếp
tục mở rộng các loại hình doanh nghiệp theo hướng phù hợp với xu hướng phổ
biến trên thế giới và đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh ở Việt Nam, trước mắt cần
phân biệt rõ hai loại hình: cơng ty hợp danh và cơng ty hợp danh hữu hạn.
* Về gia nhập thị trường: Các quy định về gia nhập thị trường gồm:
- Một là, các đối tượng có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp và đối tượng
có quyền góp vốn vào doanh nghiệp. Luật Việt Nam quy định đối tượng có

quyền này theo phương pháp loại trừ. Tuy vậy, vấn đề cần bàn là việc tước quyền
quản lý doanh nghiệp của một số đối tượng có quyền góp vốn là hợp lý hay
khơng. Theo em, cần quy định cơ chế những người có quyền góp vốn vào doanh
nghiệp có thể ủy quyền cho người khác thay mình thực hiện quyền quản lý.
- Hai là, thủ tục đăng lý kinh doanh theo Luạt Doanh nghiệp 2005 tuy đã được
cải cách, đơn giản hóa rất nhiều so với trước đây nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý,
và chỉ ở mức trung bình so với thế giới. Với yêu cầu của hoạt động kinh doanh
hiện nay, cần tiếp tục cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp theo hướng giảm
bớt và rút gọn thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian và chi phí gia nhập thị
trường cho các nhà đầu tư.
- Ba là, hoạt động tổ chức lại doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh
nghiệp 2005 cũng được quy định trong pháp luật về doanh nghiệp của hầu hết
các nước trên thế giới. Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn nhiều bất cập như
đã đánh giá ở trên. Vì vậy, cần sửa đổi các quy định này theo hướng cho phép các
công ty khơng cùng loại hình có thể sáp nhập, hợp nhất với nhau, một cơng ty khi
chia hoặc tách cũng có thể hình thành các cơng ty mới khơng cùng loại hình với
cơng ty bị chia hoặc bị tách. Bên cạnh đó, cần xem xét, nghiên cứu để bơ sung
những biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp được thừa nhận phổ biến ở các nước
trên thế giới mà Việt Nam chưa có.
* Về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp: Nhà nước thực hiện việc quản lý
đối với các hoạt động kinh doanh chủ yếu thông qua việc giám sát sự tuân thủ
pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh
doanh, tuy nhiên vẫn cịn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng này, nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, cần phải xây dựng được cơ
chế hậu kiểm phù hợp, trong đó nội dung cơ bản là: tăng cường cơ chế giám sát



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×