Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao họcđổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.63 KB, 26 trang )

I - LỜI MỞ ĐẦU.
Từ khi ra đời năm 1930 đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam trên thực
tế đã trở thành lực lượng chính trị độc tơn lãnh đạo cách mạng nước
ta.Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 79 năm qua đều gắn liền
với vai trò lãnh đạo của đảng. Đảng đã được nhân dân suy tôn là người
lãnh đạo của mình bởi nhân dân thấy rõ chỉ có ĐCSVN mới có khả năng
lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, xây dựng cuộc sống ấm no, tự
do,hạnh phúc. Đảng khơng có lợi ích nào khác ngồi lợi ích của nhân
dân.Mục đích, lí tưởng phấn đấu của Đảng cũng là mục đích, nguyện
vọng của nhân dân.
Tuy nhiên, phải từ sau cách mang Tháng Tám năm 1945 trở đi, Đảng
ta mới thực sự trở thành đảng cầm quyền - tức là Đảng nắm quyền lãnh
đạo nhà nước.Và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi,
Đảng đã trở thành đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước, lãnh đạo đất
nước đi lên xây dựng CNXH.
Đảng cầm quyền đánh dấu sự thay đổi về chất trong vị trí, vai trị của
đảng, nhất là trong phương thức lãnh đạo của đảng và trọng trách của
đảng trước vận mệnh của dân tộc, của nhân dân. Đảng cầm quyền tức là
chính quyền về tay nhân dân và chính quyền chịu sự lãnh đạo của Đảng –
nhân dân lao động do đảng làm đại biểu đã có một cơng cụ quyền lực
mạnh mẽ là nhà nước để trấn áp kẻ thù và xây dựng xã hội mới.Thông
qua sự cầm quyền, Đảng thực hiện vai trị lãnh đạo của mình đối với toần
xã hội, chịu trách nhiệm trước toàn xã hội. Điều đó có nghĩa là mọi thành
cơng hay thất bại ưu điểm hay khuyết điểm trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng.
Trong điều kiện đảng cầm quyền làm sao cho đảng khơng rơi vào
tình trạng lạm quyền, lấn áp nhà nước, bao biện, làm thay các công việc
của nhà nước, trái lại phát huy được vai trị quản lí, hiêu lực, hiệu quả của


nhà nước.Mặt khác khơng hạ thấp, bng lỏng vai trị lãnh đạo của đảng


đối với nhà nước. Đây là vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp.Vì vậy, u
cầu cấp thiết đặt ra với Đảng ta đó là phải “đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước Việt Nam”.Nhiệm vụ này đòi hỏi Đảng
phải nhận thức đúng đắn hiện thưc khách quan và vận dụng phù hợp với
điều kiện thực tế ở Việt Nam.Vấn đề này sẽ vẫn ln là nhiệm vụ chính
trị quan trọng nhằm giúp Đảng ngày càng hồn thiện, vững mạnh, góp
phần khơng ngừng nâng cao vị thế của Đảng ta trong hệ thống chính trị.


II - NỘI DUNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC.
1. Lí luận của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1. Về một số khái niệm có liên quan.
1.1.1. Đảng cầm quyền ?
Đảng là tổ chức chính trị của những người cùng chung một lí tưởng.
Đảng chỉ bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của một giai cấp, tự nguyện
tập hợp trong một tổ chức, sinh hoạt và hành động theo những quy tắc,
nguyên tắc nhất định. Đảng đại biểu quyền lợi cho một giai cấp, lãnh đạo
giai cấp đấu tranh và sẵn sang chiến đấu hi sinh để bảo vệ lợi ích giai cấp.
Đảng cầm quyền tức là đảng nắm quyền lãnh đạo nhân dân, lãnh
đạonhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội khác để thực hiện các
mục tiêu chính trị-kinh tế-xã hội mà đảng đã đề ra.
1.1.2. Nhà nước ?
Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lenin, nhà nước xét về
bản chất là một hệ thống kiến trúc thượng tầng tồn tại trên một cơ sở kinh
tế nhất định, là cơng cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với
ggiai cấp khác, là tổ chức quyền lực đặc biệt có bộ máy chuyên trách để
cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lí nhằm bảo vệ lợi ích giai
cấp thống trị trong xã hội có đối kháng giai cấp. Lenin nhấn mạnh: “Nhà
nước là bộ máy đặc biệt phục vụ cho giai cấp này đàn áp giai cấp khác”.

1.1.3. Phương tức lãnh đạo đối với nhà nước ?
Phương thức lãnh đạo đối với nhà nước là các biện pháp, cách thức
tổ chức thực hiện mà giai cấp cầm quyền sử dụng đẻ tác động vào bộ máy
nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế -xã hội.
1.2. Lí luận của C.Mác và Ăngghen.


Theo quan điểm của C.Mác thì “Đảng cộng sản là đội tiền phong, là
tổ chức chiến đấu của những người cách mạng, là lãnh tụ chính trị của
giai cấp vơ sản”. Nói về bản chất giai cấp của Đảng hai ông cho rằng
Đảng luôn đứng trên lập trường giai cấp công nhân để xử lý và giải quyết
mọi vấn đề của cách mạng. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng dều phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân.
Mác và Ăngghen khẳng định sự cần thiết phải có Đảng và sự lãnh
đạo của Đảng vơ sản trong hệ thống chính trị vơ sản. Suốt đời hai ông
chăm lo xây dựng nên một chính Đảng vô sản chân chính, thống nhất, có
lý luận khoa học đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ, rèn luyện trong phong
trào quần chúng và được quần chúng tin cậy để Đảng thực hiện sự thống
trị của mình, quyền thống trị của giai cấp công nhân, tức là “sự thống trị
giai cấp”, “hệ thống chính trị vơ sản phải đảm bảo quyền thống trị của
giai cấp vô sản, nghĩa là phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản
mà đại biểu là ĐCS”.
Về sự lãnh đạo của Đảng, hai ông cho rằng: “Đảng lãnh đạo trên cơ
sở khoa học và quyết định của tập thể. Có nghĩa là mọi quyết định của
tập thể phải dựa trên sự phân tích một cách khách quan những quy
luật phát triển của xã hội, phải dựa trên ý chí, nguyện vọng của nhân
dân. Phải kiên quyết chống khuynh hướng cơ hội. Kiên quyết lên án
những người theo chủ nghĩa chủ quan, giáo điều các loại. “Và để làm
được điều này các vị lãnh tụ vô sản phải nghiêm túc học tập khoa học
cách mạng và dựa vào khoa học để làm công tác tư tưởng của mình”.

Mác và Ăng ghen rất chú trọng việc đề bạt và bổ nhiệm cán bộ,
“Kiến thức hàn lâm chưa thể mang lại hàm sỹ quan để có quyền giữ
cương vị thích ứng trong Đảng”. Tổ chức cán bộ là vấn đề quan trọng
góp phần xác định đường lối, chính sách và thực hiện hiệu quả đường lối
chính sách đó. Những định hướng chính trị của Đảng chỉ có thể thực hiện
được thông qua thực tiễn của những tổ chức và những cán bộ Đảng. Bên


cạch đó “Đảng phải kiểm tra hoạt động các vị lãnh tụ của mình, phê
bình những thiếu sót của họ”. Điều này làm được khi có sự lãnh đạo của
tập thể.
Mác và Ăng ghen cho rằng: “Cách mạng thành công, giai cấp vơ sản
thiết lập nền chun chính vơ sản và sử dụng quyền lực chính trị ấy để cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới”. Hai ông chủ trương chỉ có một Đảng
vơ sản lãnh đạo duy nhất; hai ơng cũng cho rằng:“Khuyết điểm chính
của cơng xã Pari đó là nó khơng có một đảng vơ sản thống nhất”.
Theo Mác: “Hệ thống chính trị phải lấy Nhà nước chun chính
vơ sản làm nịng cốt đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân”. Từ đây
thấy được rằng Mác và Ăng ghen nói đến sự cần thiết phải có Nhà nước
chun chính vơ sản và Nhà nước ấy đương nhiên phải đặt dưới sự lãnh
đạo của chính Đảng vơ sản. Mác nói rằng: “Bất cứ một chế độ chính trị
nào, xét về thực chất cũng là chuyên chính của một giai cấp. Chun
chính vơ sản chủ yếu khơng phải là bạo lực, càng không đồng nhất với
bạo lực, mà là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với Nhà nước và
tồn xã hội”.
Nói về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thì hai ơng
chưa có điều kiện nghiên cứu sâu song đã đưa ra những gợi ý về phương
thức thuyết phục Bằng sự đúng đắn của lý luận, đường lối, coi đó là
phương thức cơ bản. Về tổ chức thì lãnh đạo bằng Đảng đồn; về tinh
thần thì lãnh đạo bằng uy tín có được của q trình đấu tranh cách mạng

lâu dài.
1.3. Lí luận của Lenin.
Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo học thuyết của Mác,đặc
biệt là về Đảng kiểu mới. Với những lí luận ban đầu của Mac-Ăngghen,
bằng tài năng và thực tiễn cách mạng của mình, Lênin đã phát triển học
thuyết Mác về đảng kiểu mới hoàn thiện hơn, trong đó ơng đề cập rất
nhiều đến vai trị lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng. Theo


Lênin: “Đảng là hạt nhân lãnh đạo chun chính vơ sản”. Trong điều
kiện Đảng cầm quyền theo Lênin: “Đảng cộng sản là lực lượng lãnh
đạo hệ thống chính trị”. Lênin cịn khẳng định: “ Đảng là lực lượng
duy nhất có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực và uy tín để lãnh đạo xã
hội; đủ sức lãnh đạo và tổ chức xã hội mới”.
Nói về vai trị lãnh đạo của Đảng, theo Lênin: “ Đảng là đội tiên
phong cầm quyền trực tiếp của giai cấp vô sản, Đảng là người lãnh
đạo. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo đảm công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công”.
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay công việc của Nhà
nước, không can thiệp vào công việc cụ thể của nhà nước. “ Vấn đề là
vấn đề hết sức quan trọng là ở chỗ: làm sao vừa kết hợp vừa phân rõ
chức năng của Đảng và chức năng của chính quyền Xơ viết, theo
hướng tăng thêm tính chủ động của các cơ quan Xơ viết và cán bộ Xơ
viết. Cịn về phần Đảng thì giành chính quyền lãnh đạo mà không can
thiệp một cách quá nhỏ nhặt, khơng thường xun và khơng chính quy
như hiện nay. Muốn vậy Đảng phải lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà
nước trong sạch, vững mạnh”(Thư gửi Môlôtốp, 3-1920).
Lênin rất coi trọng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước. Theo ơng, Đảng phải có cách lãnh đạo như thế nào đối với Nhà
nước, nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này thì sẽ “phá rối quan hệ

đúng đắn” giữa Đảng và bộ maý Nhà nước, thậm chí đến sự diệt vong
của chế độ. Trong thời kỳ đầu, Lênin luôn nhắc nhở không nên lẫn lộn
chức năng của hai tổ chức này, Đảng không nên can thiệp vào công việc
của bộ máy Nhà nước, “Đảng nói chung và Ban chấp hành trung ương
nói riêng đừng bao giờ can thiệp trực tiếp, đừng làm thay Nhà nước
những công việc cụ thể mang tính chất hành chính chun mơn
nghiệp vụ”


Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng định hướng chính trị. Theo Lênin,
trong điều kiện Đảng cầm quyền thì Đảng cộng sản lãnh đạo bằng cương
lĩnh chính trị, đường lối. Sách lược đúng đắn của mình. Đó là việc hoạch
định cương lĩnh xây dựng đất nước, các chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội, những định hướng về chính sách... Phương thức lãnh đạo này tập
trung trong các nghị quyết của Đảng. Lênin nói: “Trong nước cộng hịa
chúng ta, khơng có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do
một cơ quan Nhà nước giải quyết mà lại khơng có chỉ thị của Ban
chấp hành trung ương Đảng”.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ và công tác cán
bộ. Theo Lênin: “Đảng phải đem những đảng viên có phẩm chất và
năng lực vào bộ máy Nhà nước. Việc bố trí và quản lý cán bộ trong các
cơ quan Nhà nước và các đoàn thể thơng qua Đảng đồn, ban cán sự
Đảng. đối với những chức danh chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước
và tổ chức chính trị thì Đảng phải giới thiệu những cán bộ đảng viên
có đủ tiêu chuẩn để ứng cử vào các cơ quan, tổ chức đó. Đảng tơn
trọng chế độ bầu cử, bổ nhiệm và bãi miễn chức danh cán bộ của cơ
quan Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội”.
Lênin nói đến yếu tố xây dựng bộ máy Nhà nước thì yếu tố cán bộ là
trước tiên, người chỉ rõ: “chúng ta chỉ hiện có... chỉ có hai mà thơi. Một
là: những cơng nhân hăng hái đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội nhưng họ

không biết làm thế nào. Cho đến nay họ chưa được học tập mấy, họ
khơng có trình độ văn hóa cần thiết để làm việc đó. Hai là: những yếu tố
kiến thức, học thức, giáo dục...”. Cịn nói về con người: “muốn thế,
những phần tử ưu tú trong chế độ xã hội của chúng ta tức là trước hết,
những công nhân tiên tiến và sau nữa là phần tử thật sự có học thức mà
người ta có thể tin chắc rằng họ sẽ khơng tin một lời nào, khơng nói một
lời nào trái với lương tâm họ - những phần tử ưu tú ấy phải không sợ thừa
nhận bất cứ một khó khăn nào và khơng lùi bước trước bất cứ một cuộc


đáu tranh nào để đạt được mục đích mà họ tự đặt cho mình một cách
nghiêm chỉnh … phải có những điều kiện qua được một kỳ sát hạch
chứng nhận rằng họ hiểu bộ máy nhà nước chúng ta, họ hiểu lý luận
thường thức về bộ máy Nhà nước của chúng ta, những nguyên tắc của
khoa học quản lý, những giấy tờ sổ sách”. Muốn vậy, theo Lênin: “Phải
làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy tờ hoặc một lời nói
theo mốt nữa, phải làm sao cho học thức ăn sâu vào trí não, hồn tồn và
thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống của chúng ta.
Lênin đòi hỏi bộ máy ấy phải có kiến thức quản lý như bộ máy Nhà nước
Tây Âu nhưng điều quan trọng hơn là bộ máy khác hẳn cái Tây âu tư sản
đòi hỏi, tức là cái gì xứng đáng và thích hợp với một nước đang đặt ra
cho mình nhiệm vụ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa”. Bên cạnh đó
Lênin cịn địi hỏi phải củng cố Ban chấp hành trung ương Đảng, ở rộng
bổ sung ban chấp hành từ những người tiên tiến trong giai cấp công nhân,
chấn chỉnh và và đổi mới quy chế làm việc của Bộ chính Trị và Ban chấp
hành trung ương nhằm làm cho Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương
khỏi phải giải quyết công việc vun vặt.
Về nhiệm vụ của cán bộ đảng viên của Đảng trong bộ máy Nhà nước
Lênin nói: “Các đồng chí là những người cộng sản, các đồng chí là
cơng nhân, là bộ phận giác ngộ của giai cấp vô sản, các đồng chí là

người đảm nhiệm việc lãnh đạo Nhà nước, các đồng chí hãy làm thế
nào cho Nhà nước mà các đồng chí nắm trong tay phải hoạt động như
các đồng chí mong muốn”(Đại hội Đảng XI, 3-1922).
Đảng lãnh đạo thông qua công tác vận động quần chúng tham gia
quản lý Nhà nước. Theo Lênin, đây là hình thức hết sức quan trọng,
không thể thiếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Bởi vì số phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào lòng tin và
khả năng vận động, tập hợp, giáo dục, thuyết phục quần chúng tin vào
Đảng, đi theo Đảng và tiến hành các hoạt động cách mạng dưới sự lãnh


đạo của Đảng. Ơng nói: “Chỉ có những người tin vào nhân dân, dấn mình
vào nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân mới là người chiến thắng và
giữ được chính quyền”, “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính Đảng
nào có trọng trách đối với thời đại là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy
được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình...”
Từ vị trí và vai trị của quần chúng, Lênin chỉ ra rằng, Đảng phải
giáo dục, thuyết phục và tổ chức cho quần chúng nhân dân tham gia quản
lý Nhà nước. Nếu khơng có sự tham gia giám sát và quản lý của quần
chúng nhân dân thì Đảng khơng thể lãnh đạo được Nhà nước, mà bản
thân bộ máy của Đảng và Nhà nước cũng bị tiêu tan. Người nói: “Trong
quần chúng nhân dân, chúng ta chỉ tựa như giọt nước trong đại
dương và chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân thì
chúng ta mới quản lý Nhà nước được. Nếu không Đảng cộng sản sẽ
không lãnh đạo được giai cấp vô sản, giai cấp vô sản sẽ khơng lơi cuốn
được quần chúng theo mình, và tất cả bộ máy sẽ tan rã”.
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra: Theo Lênin, nội dung kiểm
tra của Đảng đối với Nhà nước là việc quán triệt và tổ chức thực hiện chủ
trương, quan điểm đường lối chỉ đạo của Đảng, hiến pháp và pháp luật
của Nhà nước có đúng không.

Đảng trực tiếp kiểm tra, đồng thời phối hợp kiểm tra Đảng với thanh
tra nhà nước, thanh tra nhân dân và kiểm tra đoàn thể. Đảng thực hiện
chức năng kiểm tra khơng phải bằng những quyền lực hành chính mà
bằng đường lối, chủ trương chính sách đúng, bằng giáo dục, thuyết phục,
bằng công tác tư tưởng, công tác vận động quần chúng, bằng hành động
gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Trong phương thức lãnh đạo cũa Đảng đối với Nhà nước, Lênin
nhấn mạnh: “Cần phân định rõ ràng hơn những nhiệm vụ của Đảng
với nhiệm vụ của chính quyền Xơ viết”, “chừng nào mà ban chấp
hành trung ương Đảng và tồn Đảng cịn tiếp tục làm thay cơng tác


quản lý hành chính, nghĩa là quản lý Nhà nước, thì Đảng khơng thể
gọi là người lãnh đạo được”, “Đảng khơng bao biện, làm thay cơng
việc Nhà nước”.
Tóm lại, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước theo
Lênin có mấy vấn đề sau:
+ Đảng khơng bao biện, làm thay công việc Nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng định hướng chính trị.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua cán bộ và công tác cán bộ của
Đảng.
+ Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra giám sát.
+ Đảng lãnh đạo bằng hình thức vận động quần chúng.
1.4.Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Là người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta, chủ tịch Hồ Chí Minh
rất chú ý đến sự lãnh đạo của Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền.
1.4.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
Người nhấn mạnh: “Đảng ta là Đảng cầm quyền”, nghĩa là Người
khẳng định bước ngoặt vĩ đại đánh dấu sự chuyển biến về chất trong vị

thế của Đảng từ chưa coc chính quyền trở thành có chính quyền; đồng
thời là bước ngoặt trong đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của
Đảng.
Cũng như chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến vai
trị của Đảng cầm quyền: “Lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính
quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Đảng nắm quyền lãnh đạo
đất nước về mọi mặt. Trong điều kiện có chính quyền, bản chất chính
trị của Đảng không thay đổi, nhưng nội dung, phương thức hoạt động,
phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi cho thích hợp với yêu
cầu và nhiệm vụ thời kỳ mới”. Người nhấn mạnh: “Đảng vừa là người


lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đây là sự
khác biệt của Đảng ta so với các Đảng khác.
“Đảng phải xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là Nhà nước kiểu mới, tồn tại và
hoạt động vì lợi ích nhân dân, là bộ máy thể hiện quyềm lực của nhân
dân, do nhân dân xây dựng. Đảng cầm quyền phải biết tìm ra và tuân
theo một quy trình nghiêm nhặt để hoạt động và xây dựng trưởng
thành”
Nhiệm vụ của Đảng cầm quyền là tổ chức quản lí đất nước, bảo vệ
lợi ích cho nhân dân, cụ thể: “Tất cả mọi việc liên quan đến nhân dân, dù
là tương cà mắm muối, cái kim sợi chỉ hàng ngày của dân, Đảng đều phải
có trách nhiệm”...
Trong điều kiện Đảng cầm quyền: “Đảng cần phải có kế hoạch thật
tốt đêt phát triển kinh tế, văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân”, “Đảng phải tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt nhất định, mà nếu vi phạm thì đảng sẽ bị suy yếu và tan rã”,
“Đảng phải có tư cách chân chính cách mạng”.
Đảng cầm quyền phải thường xuyên chăm lo công tác cán bộ, phải

nắm cán bộ. Theo người, thành hay bại của cách mạng đều liên quan đến
vấn đề cán bộ, đều do cán bộ tốt hay kém. Luôn luôn quan tâm giáo dục,
nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất đạo đức, chống những
thói hư tạt xấu, sự thối hóa biến chất trong điều kiện Đảng cầm quyền,
phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư”.
Nói đến nguy cơ Đảng cầm quyền, Người nói đó là nguy cơ tha hóa,
biến chất của Đảng dẫn đến sai lầm về đường lối, đó là chủ nghĩa cá nhân
làm suy yếu Đảng, “Chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh nguy hiểm làm hư
hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên”, “chủ nghĩa cá nhân là vi trùng”. Người
nói thêm, “đề phịng âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động
quốc tế”.


1.4.2.Hồ Chí Minh nói về phương thức lãnh đạo.
Theo Người, muốn có cách lãnh đạo đúng, trước hết phải hiểu lãnh
đạo đúng nghĩa là thế nào, lãnh đạo đúng nghĩa là: “1.Phải quyết định
mọi vấn đề một cách cho đúng. Muốn thế thì nhất định phải so sánh
kinh nghiệm quần chúng, vì dân chúng chính là những người chịu
đựng cái kết quả của sự lãnh đạo”, “2.Phải tổ chức thi hành cho đúng.
Mà muốn vậy, khơng có dân chúng giúp sức thì khơng xong”, “3.Phải
tổ chức sự kiểm sốt cho đúng, mà muốn kiểm sốt đúng thì phải có
quần chúng giúp mới được”(Trích sửa đổi lối làm việc). Qua sự giải
thích của chủ tịch Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo đúng, có thể thấy rõ
Đảng lãnh đạo mọi cơng việc của Đảng, của Nhà nước, của toàn xã hội
trước hết bằng nghị quyết, chỉ thị hay chính sách của Đảng. Đòi hỏi trước
hết của Đảng cầm quyền là phải đề ra được đường lối, chủ trương đúng
đắn. Đường lối phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật, chính
sách của Nhà nước
Trong việc ra quyết định, chính sách trong lãnh đạo, Người nói:
“Đảng và chính phủ điều tra, nghiên cứu cân nhắc cẩn thận nhằm vào

lợi ích chung của nhân dân đặt ra chính sách”. “Người lãnh đạo cách
mạng phải khéo sửa đổi khi có những sai lầm trong tư tưởng, lý luận,
kế hoạch và nghị quyết của mình. Đồng thời khi giai đoạn này phát
triển lên giai đoạn khác thì sự hiểu biết cũa người lãnh đạo và chiến sỹ
cách mạng cũng phải tiến theo. Nghĩa là đề ra nhiệm vụ mới và
phương pháp mới hợp với tình hình mới của cách mạng”.
Trong tổ chức thi hành quyết định,Hồ Chí Minh dạy: “Khi đã định
kế hoạch hẳn hoi rồi thì quả quyết thực hiện cho kỳ được”. “Để thực hiện
chính sách, làm trịn nhiệm vụ, cán bộ chẳng những phải chịu khó giải
thích, tun truyền, cổ động mà còn phải bàn bạc với quần chúng, hỏi han
ý kiến, gom góp ý kiến của quần chúng. Lãnh đạo quần chúng và hoan
nghênh quần chúng phê bình...”


Việc tổ chức kiểm soát, kiểm tra. Theo Bác: “Khi đã có chính sách
đúng thì sự thành cơng hay thất bại của chính sách đó là nơi cách tổ
chức cơng việc, nơi chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ
sài thì chính sách đúng mấy cũng vơ ích”. Hai điều để kiểm sốt tốt là:
một là, việc kiểm sốt phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là, người
kiểm sốt phải là người rất có uy tín. Có hai cách kiểm tra, kiểm sốt là:
“một cách từ trên xuống, tức là người lãnh đạo kiểm sốt kết quả cơng
việc của cán bộ mình. Một cách nũa là từ dưới lên. Tức là cán bộ và quần
chúng kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tổ cái cách sửa
chữa sự sai lầm đó cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”.
Cách lãnh đạo cụ thể một công việc: Người dạy rằng: “Bất kỳ cơng
việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau: một là liên hợp chính
sách chung với chỉ đạo riêng, hai là liên hợp người lãnh đạo với quần
chúng.
2.Vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam từ
khi Đảng trở thành đảng cầm quyền .

Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định phương hướng tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo tính chun chính vơ sản
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Là người sang lập nên ĐCSVN, Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất chú ý đến sự lãnh đạo của Đảng và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện ĐCSVN nắm quyền lãnh
đạo nhà nước. Người khẳng định: “Đảng ta là đảng cầm quyền”, nghĩa
là bên cạnh sự chuyển biến về chất trong vị thế lãnh đạo của Đảng, yêu
cầu Đảng cần có những đổi mới to lớn về nội dung và phương thức lãnh
đạo của mình.
Nội dung cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước bao gồm
những vấn đề cơ bản sau đây:


+ Đảng định hướng chính trị - tức là đề ra cương lĩnh, đường lối,
chính sách lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
đủ năng lực và hoạt động có hiệu quả. Đây là Nhà nước kiểu mới, Nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
+ Đảng đề ra các quan điểm, chủ trương về xây dựng đội ngũ cán bộ
của Đảng.
+Đảng kiểm tra các hoạt động của Nhà nước và các tổ chức trong hệ
thống chính trị.
Theo nội dung trên thì phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm cả
việc xây dựng đường lối nghị quyết. Trong thưc tiễn quá trình lãnh đạo
của Đảng ta thấy ngay từ khi mới thành lập Đảng đã xây dựng cho mình
phương thức lãnh đạo đúng đắn. Điều này thể hiện cụ thể qua cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng tháng 2-1930. Cương lĩnh xác định con đường
cua cách mạng Việt Nam đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh
chỉ rõ: “Đảng không khi nào nhượng một chút lợi ích của công nông

đê đi vào con đường thỏa hiệp”, Đảng là đội tiên phong cuả giai cấp
công nhân, người tổ chức , lãnh đạo cách mạng, đấu tranh giải phóng
cơng nhân, nơng dân, tồn thể đồng bào ta ra khỏi bị đế quốc và phong
kiến áp bức bóc lột, giành lại quyền độc lập tự do. Như vậy, Đảng đã xác
định được những vấn đề căn bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với phong trào cách mạng Việt Nam, đưa phong trào cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.
Từ khi gánh vác sứ mệnh lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo nhân dân, vai
trị, vị trí của Đảng đã có sự thay đổi to lớn. Đảng không chỉ là đại biểu
cho quyền lợi của giai cấp cơng nhân mà cịn là người lãnh đạo nhà nước,
lãnh đạo toàn thể dân tộc thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra. Vì vậy,
yêu cầu cơ bản đối với Đảng trong tình hình mới là Đảng cần thường


xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của mình: Đổi mới để làm tròn sứ
mệnh lịch sử, để phù hợp với điều kiện khách quan, vì mục tiêu nâng cao
hơn nữa vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng. Đổi mới trong phương thức
lãnh đạo của Đảng từ khi Đang trở thành đảng cầm quyền phải nhằm
hoàn thành những mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội trước mắt và lâu
dài; cụ thể và toàn diện. Để tiện trong q trình theo dõi chúng ta có thể
phân chia thành một số giai đoạn cụ thể sau đây:
+ Giai đoan từ 1945 – 1954.
+ Giai đoạn từ 1954 – 1975.
+ Giai đoạn từ 1975 – 1986.
+ Giai đoạn từ 1986 – nay.
2.1. Giai đoạn từ 1945 -1954.
Cách mạng tháng Tám 1945 giành thắng lợi, Đảng trở thành lực
lượng chính trị nắm giữ chính quyền, lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về vai trị của Đảng Cộng Sản
Việt Nam trong tình hình mới như sau: “Lãnh đạo nhân dân đấu tranh

giành chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Đảng nắm quyền
lãnh đạo đất nước về mọi mặt. Trong điều kiện có chính quyền, bản
chất chính trị của Đảng khơng thay đổi, nhưng nội dung, phương thức
hoạt động, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi cho thích
hợp với yêu cầu và nhiệm vụ thời kỳ mới”. Người nhấn mạnh: “Đảng
vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Đây là sự khác biệt của Đảng ta so với các đảng của giai cấp tư sản.
Nhiệm vụ của Đảng cầm quyền là tổ chức quản lí đất nước, bảo vệ
lợi ích cho nhân dân, cụ thể: “Tất cả mọi việc liên quan đến nhân dân, dù
là tương cà mắm muối, cái kim sợi chỉ hàng ngày của dân, Đảng đều phải
có trách nhiệm”...
Sau thắng lợi của cách mạng, đát nước đứng trước những khó khăn
và thử thách to lớn: Đó là “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, chính


quyền cách mạng thì cịn non trẻ.Trên cương vị lãnh đạo đất nước, lãnh
đạo nhân dân, đòi hỏi cấp thiết đối với Đảng là phải đề ra được phương
thức lãnh đạo phù hợp sớm đưa đất nước vượt qua những khó khăn của
lịch sử. Nhận thức rõ vấn đề này Đảng đã đề ra nhiều biện pháp tích cực
như: Tăng gia sản xuất, quỹ độc lập, thành lập nha bình dân học vụ, tăng
cường củng cố quốc phòng… nhờ vậy chỉ trong một thời giann ngắn
những khó khăn trước mắt về cơ bản đã được khắc phục.
Nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh của chính quyền cách mạng,
xây dựng một chính quyền thực sự” của dân, do dân và vì dân” Đảng đề
ra nhiệm vụ cần kíp của chính quyền cách mạng lúc nay là phải tiến hành
tổng tuyển cử nhằm xây dựng một chính quyền hợp pháp có đủ năng lực
lãnh đạo đất nước. Trên tinh thần đó, ngày 6-1-1946, cuộc tổng tuyển cử
bầu quốc hội đã được tiến hành. Tiếp sau đó các địa phương cũng tiến
hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp. Đây là những sự kiện chính trị có
ý nghĩa rất lớn đối với cách mạng Việt Nam.

Trong điều kiện đất nước đang gặp những khó khăn to lớn về kinh
tế-xã hội, lại nằm trong vòng vây của các thế lực xâm lược bên ngồi, vấn
đề tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng trong quần chúng nhân dân cũng
có một ý nghĩa rất quan trọng. Trước yêu cầu mới của cách mạng, tháng
5-1946 Đảng đứng lên thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam(mặt
trận Liên Việt).Cùng với mặt trận Việt Minh, mặt trận Liên Việt góp phần
tăng cường khối đại đồn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục
tiêu do cách mạng đặt ra.
Giữa lúc toàn Đảng, toàn dân đang chung tay góp sức xây dựng nền
kinh tế-xã hội mới thì thực dân Pháp chính thức quay trở lại xâm lược
nước ta. Trước những hành động xâm lược ngang nhiên của kẻ thù, Đảng
đã kịp thời phát động tồn qc kháng chiến và lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc kháng chiến để bảo vệ đất nước, bảo vệ những thành quả của
cách mạng đã đạt được.


Từ ngày 11 đến 19 tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ hai của Đảng họp tại Chiêm Hóa-Tun Quang. Đại hội đã thơng qua
“ báo cáo chính trị” do đồng chí Hồ Chí Minh trình bày và báo cáo “bàn
về cách mạng Việt Nam” do đồng chí Trường Chinh trình bày. Hai bản
báo cáo tiếp tục khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến chống
Pháp và đề ra đường lối, phương hướng cụ thể nhằm đưa cuộc kháng
chiến tới thắng lợi hoàn toàn. Đại hội cũng quyết định đưa Đảng ra hoạt
động công khai với tên mới là Đảng Lao Động Việt Nam. Quyết định đưa
Đảng ra hoạt động công khai thể hiện sự nhạy bén về chính trị của Đảng,
đồng thời góp phần củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước và với cuộc kháng chiến.
Để đáp ứng yêu cầu mới trong công tác xây dựng Đảng, địi hỏi phải
hồn thiện bộ máy lãnh đạo của Đảng từ Trung ương xuống địa phương.
Xuất phát từ yêu câu đó, tháng 3-1951 Trung ương Đảng đã ra Nghị

quyết trung ương lần thứ nhất quy định về lề lối làm viêc và bộ máy của
Trung ương, đề bạt các chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của
Trung ương Đảng. Việc tăng cường đổi mới trong công tác cán bộ góp
phần quan trọng trong việc chỉ đạo kịp thời, sát sao, khoa học của Đảng
đối với cách mạng.
Nhằm thực hiện triệt để nhiệm vụ của cuộc “ cách mạng thổ địa”
được đề ra ngay trong cương lĩnh 1930 của Đảng, Đảng đã tiến hành hội
nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng LĐVN(từ 14 đến 23-11-1953):
“Bàn về nhiệm vụ cải cách ruộng đất”. Theo tinh thần hội nghị, tại
những vùng tự do, vùng giải phóng ở Miền Bắc chình quyền đã tiến hành
cải cách ruộng đất. Cơng cuộc cải cách ruộng đất đã mang lại bộ mặt mới
cho nơng thơn Miền Bắc, góp phần quan trọng trong việc cung cấp sức
người, sức của và là chỗ dựa tinh thần cho cuộc kháng chiến.


Sự chỉ đạo sát sao kịp thời của Đảng đã góp phần làm nên thắng lợi
lịch sử Điện Biên Phủ, bảo vệ những thành quả mà cách mạng tháng Tám
1945 đã giành được.
2.2. Giai đoạn 1954-1975.
Sau năm 1954, Miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng, Miền
Nam cịn nằm dưới ách thống trị tạm thời của đế quốc Mỹ và tay sai.
Trong điều kiện mới yêu cầu Đảng phải tiếp tục giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo cùng một lúc hai nhiệm vụ
chiến lược ở hai miền: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc
và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam.
2.2.1. Đối với cách mạng Miền Bắc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội; vừa củng cố, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, ổn định
đời sống nhân dân, vừa chi viện cho chiến trường Miền Nam và cả hai
nước bạn Lào và Campuchia. Cho đến năm 1954, nền kinh tế Miền Bắc

vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, làm ăn nhỏ lẻ,
manh mún. Đảng đã chỉ đạo việc khôi phục nền kinh tế bằng các kế
hoạch 5 năm 1954-1957 , mà trọng tâm là thực hiện mạnh mẽ công cuộc
cải cách ruộng đất. Năm 1960 tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực
hiện công nghiệp hóa, hợp tác hóa, xây dựng kế hoạch 5 năm 1961-1965.
Đảng đã vận động nhân dân thưc hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ
mà Đảng đề ra nhằm nhanh chóng khơi phục kinh tế hàn gắn vết thương
chiến tranh. Các phong trào thi đua yêu nước do Đảng phát động đã cuốn
hút các tầng lớp nhân dân tham gia: “Thanh niên ba sẵn sàng”, “phụ nữ
ba đảm đang”, “công nhân tay búa, tay súng”, “nông dân tay cày, tay
súng”. Nhờ đó kinh tế Miền Bắc nhanh chóng phục hồi đảm bảo là hậu
phương vững chắc cho cách mạng Miền Nam.
Năm 1964, đế quốc Mỹ ném bom bắn phá Miền Bắc. Miền Bắc vừa
sản xuất, vừa chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến Miền Nam. Mặc dầu


công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc bị đứt quãng, nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng XHCN ở Miền Bắc vẫn thu được
những thành tựu quan trọng, cụ thể là:
+ Miền Bắc đã xác lập một cách phổ biến chế độ sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể, xóa bỏ chế độ người bóc lột người.
+ Thủ tiêu các giai cấp bóc lột. Giai cấp công nhân lớn lên về số
lượng và chất lượng. Giai cấp công nhân đã được tổ chức lại thành một
tập thể. Tầng lớp tri thức XHCN đã phát triển mạnh mẽ, xã hội Miền Bắc
trở thành xã hội của những người lao động làm chủ.
+ Miền Bắc bước đầu đã xây dựng được một số cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội.
2.2.2 Đối với cách mạng Miền Nam.
Sau khi Pháp rút, đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách dựng nên chính quyền
tay sai ở Miền Nam, từng bước thực hiện âm mưu biến Miền Nam Việt

Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Tại hội nghị lần thứ 15 (1959),
Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra quyết định về đường lối cơ bản
cho cách mạng Miền Nam:
+ “ Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở Miền
Nam là khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân”.
+ Thành lập mặt trận dân chủ thật rộng rãi ở Miền Nam phù hợp với
chiến lược của cách mạng Miền Nam nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở Miền Nam, đặc
biệt là ở địa phương.
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo sự sát sao, kịp
thời, chính xác trong việc lãnh đạo cách mạng Miền Nam,Trung ương
Đảng đã quyết định thành lập Trung ương cục Miền Nam đặt dưới sự
lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân Miền Nam đẵ từng bước đánh bại mọi kế hoạch leo thang
chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải tuyên bố rút quân


khỏi Miền Nam Việt Nam (1972) và giải phóng hồn toàn Miền Nam
thống nhất đất nước(1975).
2.3. Giai đoạn 1975-1986.
Sau thắng lợi mùa xuân 1975, đất nước thống nhất, cả nước bước
vào giai đoạn xây dựng CNXH, Đảng ta đã đặt ra yêu cầu đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo. Đại hội IV, Đại hội V của Đảng nêu rõ
yêu cầu phải xác định chức năng, nhiệm vụ và giải quyết tốt mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các đồn thể; chỉ ra tình trạng lẫn lộn chức năng,
nhiệm vụ giữa cơ quan đảng và cơ quan nhà nước; tổ chức đảng bao biện,
làm thay cơng việc chính quyền, xem nhẹ vai trò, trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước và tổ chức kinh tế; xác định cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong hai nhiệm kì khóa IV và V, chủ
trương cụ thể của Đảng đó là:

+ Nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt nhà nước, thiết lập hệ
thống chuyên chính vơ sản trong cả nước và thực hiện nhiều chính sách
nhằm thúc đẩy q trình thống nhất về mọi mặt chính trị-kinh tế-xã hội.
+Đập tan âm mưu lật đổ chống phá chính quyền và chế độ XHCN
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
+Tăng cường quyền làm chủ của nhân dân lao động. Phát triển và cải
tạo kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật.
+ Tăng cường đoàn kết quốc tế, đặc biệt đối với các nước trong khối
XHCN.
2.4. Giai đoạn 1986 đến nay.
Sau mười năm tiến hành khôi phục nền kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh và xây dựng những điều kiện ban đầu cho CNXH, mặc dù
chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể song cũng cịn tồn tại
nhiều khó khăn, thiếu sót cần giải quyết. Vấn đề này địi hỏi Đảng phải
tiếp tục đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo cho phù hợp.



×