Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận cao họcTư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ của Đảng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.98 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục kế thừa và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mác – Lê Nin vào thực tiễn cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt
vấn đề cán bộ và cơng tác cán bộ ở vị trí có tính chất quyết định đối với q
trình thực hiện chính sách của Đảng và Chính Phủ. Người viết “Khi đã có chính
sách đúng, thì sự thành cơng hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ
chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điềm ấy sơ sài
thì chính sách đúng mấy cũng vơ ích”.
Từ nhận thức sâu sắc vị trí, vai trị của của cán bộ trong sự nghiệp cách
mạng, Hồ Chí Minh nhận thấy rằng trong q trình xây dựng Đảng, công tác cán
bộ là một trong những cơng tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trị
quyết định thành cơng tới tồn bộ cơng tác xây dựng lực lượng cách mạng của
Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt cơng tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ
có nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi, và ngược lại. Vì vậy, huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm
vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Với quan điểm đó, cả cuộc đời mình,
Hồ Chí Minh ln ln chú trọng đến cơng tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn,
huấn luyện, thử thách, rèn luyện, sử dụng, đãi ngộ. Người nhấn mạnh rằng:
“phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trộng mõi con người có ích cho cơng việc
chung của chúng ta”.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, một quá trình lâu dài gian khổ bao gồm
nhiều thời kỳ hoạt động bí mật, khi hoạt động công khai, khi đấu tranh vũ trang,
khi đấu tranh chính trị, và trong cùng một lúc có sự kết hợp vô cùng phong phú
nhiều phương thức khác nhau. Công tác cán bộ của Đảng ta là đã xây dựng được
lớp lớp cán bộ theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Trung với Đảng, hiếu
với dân, nhiệm vụ cũng hồn thành, khó khăn cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng”
1



Trong điều kiện điều kiện Đảng nắm chính quyền, sức mạnh và sức chiến
đấu của Đảng không chỉ nằm trong bản thân Đảng, mà cịn chính là biểu hiện ở
hiệu lực và sức mạnh của đội ngũ cán bộ. Đảng nắm chính quyền có nghĩa là
Đảng xây dựng đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng và chất lượng để đáp ứng
yêu cầu và nhiệm vụ mới của đất nước. Chính vì vậy, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơng tác cán bộ của Đảng vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa to lớn đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Vì lẽ đó, người viết chọn “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác cán bộ của Đảng” làm đề tài nghiên cứu cho mình
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ của
Đảng.
3. Mục đích
Làm rõ nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh cơng tác cán bộ của Đảng,
từ đó giúp người thực hiện đề tài có những tri thức cần thiết cho q trình công
tác về sau.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: q trình thực hiện đề tài có sử dụng các duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. phương pháp logic, tổng hợp, phân tích.
4. Kết cấu tiểu luận
Ngồi Mở đầu và Kết luận, Nội dung tiểu luận được kết cấu gồm 3 phần:
I: Cơ sở lí luận chung
II : Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ của Đảng.
III. Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ Đảng
ta hiện nay.

2


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG.

1.1. Khái niệm cán bộ
Từ cán bộ được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc, được dùng phổ biến
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ban đầu danh từ này được dùng nhiều
trong quân đội để phân biệt chiến sĩ và cán bộ. Từ cán bộ dùng để chỉ những
người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở lên, dần dần từ cán bộ dùng để chỉ
tất cả những người hoạt động trong kháng chiến để phân biệt họ với nhân dân.
Trong từ điển Việt - Nhật danh từ cán bộ được dùng với nghĩa là: người ở
hạng cao (trong một đồn thể), là yếu nhân (nhân vật quan trọng).
Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa về cán bộ như sau:
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng
chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những
người đem chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong nhân dân.
Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo
cáo cho Chính phủ rõ để đặt chính sách cho đúng đắng, cán bộ là cái gốc của
mọi cơng việc.
Cịn riêng tơi cho rằng: Cán bộ là một khái niệm chỉ những người có chức vụ,
vai trò, cương vị nòng cốt tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo chỉ huy, quản lý,
điều hành, góp phần định hướng cho sự phát triển.
1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ.
Sau năm 1920, khi đã trở thành người cộng sản, tìm thấy con đường cứu
nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một
trong những nhiệm vụ quan trọng của Hồ Chí Minh là tìm kiếm những thanh
3


niên Việt Nam yêu nước nhằm đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện họ trong tổ chức
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; gửi những người ưu tú hoặc có nhiều
triển vọng tốt vào các trường của Trung Quốc và của Quốc tế Cộng sản. Từ khi

thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 trở đi, Hồ Chí Minh luôn
luôn chú ý huấn luyện và xây dựng lực lượng cán bộ. Chính do như vậy, cho nên
Đảng đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lãnh đạo thắng
lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng CNXH
ở miền Bắc
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ.
Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, suốt cả cuộc
đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đồng thời là một chiến sĩ kiên cường của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc
xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hồn thành sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng. Nhờ đó Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng thành cơng, mang lại
hịa bình, độc lập cho tổ quốc. Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ có ý nghĩa to lớn để
đảng ta xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ tài, đức để thực hiện thắng lợi cơng cuộc
đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
1.2.1. Vị trí của cán bộ:
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, cán bộ là dây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà
nước, đồn thể nhân dân “là những người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho
đúng”. Cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân, làm cho mối lên
hệ đó trở nên khắng khít, hiện thực, mà kết quả là đường lối chính sách của
Đảng, của Chính phủ được thực thi bởi chính đội ngũ cán bộ và nhân dân.
Ngược lại cũng chính cán bộ là người lăn lộn cùng nhân dân, hiểu được nhân
4


dân, đem tâm tư, nguyện vọng của nhân dân phản ánh lại với Đảng và Chính
phủ.

Hồ Chí Minh đã đặt cán bộ ở một vị trí có tính chất quyết định, cán bộ
không chỉ là yếu tố quyết định chất lượng của chính sách, đường lối, mà cịn
đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc thực thi chính sách đường lối đó, đặc
biệt là vai trị gương mẫu, đầu tàu trong thực hiện. Cán bộ là chủ thể của sự
nghiệp cách mạng do đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là
do Đảng, Nhà nước, đồn thể phân cơng, và quyền lực của cán bộ cũng như
nhiệm vụ của người cán bộ là do nhân dân giao cho.
1.2.2. Vai trò của cán bộ:
Hồ Chí Minh khẳng định rằng “cán bộ là cái gốc của mọi công việc;
muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém” cán bộ có vai
trị cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị, muốn biến đường lối, quan điểm
của Đảng và nhà nước thành hiện thực, cần phải có con người sử dụng lực lượng
thực tiễn - đó là đội ngũ cán bộ cách mạng và cùng với quần chúng cách mạng,
bằng sự nỗ lực của mình để đưa cách mạng đến thành công. “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc” chính là quan điểm về con người với tính chất vừa là chủ
thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Đó là biểu hiện cụ thể của
quan điểm lấy dân làm gốc, để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, mà cả cuộc
đời mình Hồ Chí Minh đã phấn đấu hy sinh để xây dựng.

5


II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ CỦA
ĐẢNG.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của người cán
bộ, đối với sự nghiệp cách mạng của nước nhà, Người cho rằng: “Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc... Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém”. Vì vậy, Người hết sức quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ,
có phẩm chất đạo đức và năng lực phục vụ tổ quốc. Để làm tốt công tác cán bộ
của Đảng, Bác tập trung vào những vấn đề cơ bản sau.

2.1. Hiểu biết cán bộ
Hiểu biết cán bộ là vấn đề đầu tiên của Đảng trong việc dùng người.
Đại hội Đảng XI vừa qua, Đảng ta có 3,6 triệu Đảng viên và hàng vạn cán bộ.
Xuất thân từ các thành phần giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau. Từ đó, Đội
ngũ cán bộ đơng đảo, nó phản ánh tính đa dạng phong phú về mọi mặt: trình độ
nhận thức, học vấn, tính cách cá nhân, sở trường, đa dạng trong quan hệ xã hội,
trong điều kiện sống, làm việc, rồi tâm tư, khát vọng cũng khác nhau… Vì thế,
để đối đãi một cách hợp lý với mọi người là việc cực kỳ khó khăn.
Xưa nay các vĩ nhân, những người anh hùng làm nên sự nghiệp lớn đều
có chung một tư tưởng “Biết mình biết người”, “Biết địch biết ta”. Biết chính là
bí quyết của sự thanh cơng. Có biết người mới dùng được người. Cơng tác cán
bộ của Đảng cũng vậy, chính sự hiểu biết cán bộ một cách đúng đắn, mới dùng
cán bộ một cách hợp lý nhất.
Hồ Chí Minh là Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta về mọi mặt.
Trong công tác cán bộ của Đảng, Hồ Chí Minh dạy rằng muốn hiểu biết cán bộ
thì trước hết phải biết mình. “Đã khơng tự biết mình thì khó mà biết người, vì
vậy muốn biết đúng sự phải trái của người ta, thì trước hết phải biết đúng sự
phải trái của mình. Nếu khơng biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận
rõ người cán bộ tốt hay xấu” [2, t5, tr 277].

6


Bác còn chỉ những căn bệnh cơ bản trong việc làm cơng tác cán bộ do
khơng tự biết mình đó là:
Bệnh cậy thế và kêu ngạo “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi
ngang tang phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận không nghĩ đến
dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy
thế với dân…. Kiêu ngạo – tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh
rồi. Coi khinh nhân gian, nói phơ, cử chỉ lúc nào cũng vác cái mặt quan cách

mạng lên. Không biết rằng, thái độ kêu ngạo đó sẽ làm mất lịng tin cậy của
dân, sẽ hại đến oan tín của chính phủ” [ 1, t4, tr 57 – 59]
Tự cao tự đại; Ưa người ta nịnh mình; Do lịng u ghét của mình mà
đối với người. Chính vì những căn bệnh nói trên nên cơ quan đơn vị phát sinh
tình trạng chia rẽ, mất đồn kết. Người làm cơng tác cán bộ khơng cịn “ vị cơng
vong tư” và khách quan trong việc cơng việc. Do mắc những bệnh đó, khơng
hiểu được cái mạnh, cái yếu của chính mình nên không thể hiểu được người
khác, tựa “như mắt đã mang kính có màu, khơng bao giờ hiểu được cái mặt thật
của những cái mình trơng” Vì vây, Hồ Chí Minh dạy rằng “muốn biết rõ cán
bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn các hạng người, trước hết phải sửa ngững
khuyết điểm của mình. Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng
đúng”. [2, t5, tr 278].
Trên cơ sở tự hiểu mình, Bác cịn đưa ra phương pháp xem xét cán bộ,
đó chính là “ứng bất biến dĩ vạn biến”. Đây là cơ sở để xem xét cán bộ một
cách đấu đáo, khơng nên chỉ xét ngồi mặt, chỉ xét một lúc một việc mà xét kỷ
cả tồn bộ cơng việc của cán bộ.
Hồ Chí Minh căn dặn phải nhìn nhận nười cán bộ với con mắt động,
phát triển không nên định kiến, đem cái khuôn khổ nhất định mà áp dụng cho
các hạng người, đem cái quá khứ mà áp dụng vào hiện tại, suy diễn cho tương
lai. “Trong thế giới cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì
vậy, cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất” [2, t5, tr 278]. Khi xem
7


xét cán bộ, khơng phải xem ngồi mặt mà phải xem tính chất của họ, phải soi rõ
cả q trình lịch sử, q trình cơng tác của họ. Và xem xét phải thật sự khoa học,
tránh trường hợp bỏ qua cán bộ tốt, giỏi, để lọt kẻ xấu vào hàng ngũ của Đảng.
Trong công tác cán bộ của Đảng cần hiểu rõ phẩm chất và năng lực của
người cán bộ. Phẩm chất của cán bộ thể hiện tốt hay xấu, năng lực thể hiện làm
được việc, hay không được việc. Đơi khi hai loại cán bộ này khơng hồn tồn

thống nhất, thậm chí cịn trái ngược nhau. Bác cho rằng “ai mà hay khoe cơng,
hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay cơng kích
người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc,
cũng không phải là cán bộ tốt” và “ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe
khoang, ăn nói ngay thẳng, khơng che dấu khuyết điểm của mình, khơng ham
việc dẽ, tránh việc khó, bao giờ cũng cương quyết theo mệnh lệnh của Đảng,
những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt.” [2 ,t5, tr
279 ]. Vì vậy, Bác đưa ra giải pháp cho công cán bộ của Đảng là phải khéo, biết
cách tạo điều kiện cho cán bộ phát huy những mặt tốt, đồng thời cũng khéo chữa
chỗ xấu của người cán bộ.
Ngoài ra, hiểu biết cán bộ còn thể hiện ở nhiều phương diện khác: Tư
cách của người cách mạng, đó chính là cần, kiệm, liêm, chính; Trình độ chun
mơn cũng như lý luận chính trị…. của người cán bộ.
Nhìn chung: Việc xem xét để hiểu cán bộ là cơng tác quan trọng của
Đảng, nó phải thực hiện thường xuyên liên tục, theo sát sự nghiệp cách mạng.
Khi xem xét có khi lại tìm ra được những cán bộ mới tốt và loại bỏ được những
cán bộ có phẩm đạo đức khơng tốt ra khỏi hàng ngũ những người cách mạng.
2.2. Khéo dùng cán bộ.
Cán bộ là người đem đường lối, chủ trương chính sách của Đảng đến
giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành. Vì vậy, cán bộ ví như chiếc cầu nói
giữa Đảng với dân, nên việc dùng cán bộ là một nhiệm vụ thường xun của
Đảng, khơng có cán bộ thì cơng việc không đi tới nơi, tới chốn. Nhưng do mắc
8


những khuyết điểm mà Bác nêu ra trong công tác sử dụng cán bộ, nên thông
thường phạm vào “ba ham”: “1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu
bạn cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót
mình, mà chán ghét những người chính trực. 3. Ham dùng những người tính
tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình khơng hợp với mình” [2, t5,

tr 279]. Chính vì “ba ham” trên đã nảy sinh tình trạng “ơ dù; che chắn; phe cách;
trù dập.”. Tóm lại là “yêu nên tốt ghét nên xấu”. Như thế cố nhiên là hỏng công
việc của Đảng và mất danh giá của công tác cán bộ của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh muốn dùng cán bộ cho đúng thì người làm cơng tác
cán bộ phải có những phẩm chất sau: “Mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có
thể đối với cán bộ một cách chí cơng vơ tư, khơng có thành kiến, khiến cho cán
bộ khỏi bị bỏ rơi. Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người
mình khơng ưa. Phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng
chí cịn kém, giúp cho họ tiến bộ. Phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây,
mà cách xa cán bộ tốt. Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui
lịng gần gũi mình.” [2, t5 tr 68-69]. Muốn làm tốt cơng tác cán bộ và dùng cán
bộ hợp lý, thì trước hết người làm cơng tác cán bộ phải có cái tâm trong sáng và
phải có phương pháp đúng. Ngồi ra, cịn có tri thức để phân biệt được xấu - tốt,
phải - trái, địch - ta. Nếu không rõ được những vấn đề đó, sẽ tạo ra cơ hội tốt
cho bọn xấu luồng lách vào hàng ngũ cán bộ thậm chí trèo cao, chèn ép, dìm cán
bộ trung thực, tung dư luận gây chia rẻ, kéo bè kéo phái để làm hại nhân dân, hại
đến lợi ích quốc gia.
Khéo dùng cán bộ là xuất phát từ việc tập hợp sức mạnh và tài năng
của mọi người vào việc hoàn thành nhiệm vụ chung. Nếu dùng cán bộ mà để họ
hoang mang, sợ hãi, buồn rầu, hoặc công tác không hợp, chắc khơng thành cơng
được. Vì vậy muốn cán bộ làm được việc, phải khiến cho họ yên tâm làm việc,
vui thú làm việc, thì phải thực hành những việc sau:

9


Làm cho cán bộ mạnh dạng dám nghĩ, dám nói, dám đề xuất ý kiến
“Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết cơng
tác của mình tốt hay xấu, khơng gì bằng khun cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý
kiến và phê bình. Như thế, chẳng những khơng phạm gì đến uy tín của người lãnh

đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng. Nếu cán bộ khơng nói năng, khơng
đề ý kiến, khơng phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất
xấu. Vì khơng phải họ khơng có gì nói, nhưng vì họ khơng dám nói, họ sợ. Thế
là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên
những cái máy, trong lịng uất ức, khơng dám nói ra, do uất ức mà hố ra ốn
ghét, chán nản. Như thế mà muốn cán bộ công tác cho giỏi thì sao được?” [2, t5,
tr 280]. Cán bộ phải thật sự là những người dám làm, dám chấp nhận công việc
một cách tự giác và dám chịu trách nhiệm. Dám làm, dám chịu trách nhiệm
nhưng phải trên lợi ích của nhân dân của Tổ quốc chứ không phải là lợi ích bản
thân. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Phải đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có
gan làm việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành cơng. Nếu đào tạo một mớ
cán bộ nhát gan, dễ bảo đập đi, hị đứng, khơng dám phụ trách, nếu như thế là
một việc thất bại cho Đảng.” [2, t5, tr 281].
Làm cho cán bộ có tinh thần chủ động, dám phụ trách trong cơng việc.
Tất nhiên mỗi cán bộ có trình độ và năng lực khác nhau. Song người lãnh đạo
biết cách dìu dắt, giúp đỡ, dạy bảo, cổ vũ động viên thì cán bộ cố gắng vượt trội
để hào thành tốt nhiệm vụ. Bác cho “Năng lực của người khơng phải hồn tồn
do tự nhiên mà có mà một phần lớn do cơng tác, do tập luyện mà có. Lãnh đạo
khéo, tài nhỏ có thể hố ra tài to. Lãnh đạo khơng khéo, tài to cũng hố ra tài
nhỏ.” [2, t5, tr 280]. Phải có lịng tin vào cán bộ, bởi trong cơng việc chung, mỗi
khi cán bộ có tinh thần phụ trách, thì họ sẽ biết tháo gỡ khó khăn, tìm cách vượt
lên để hồn thành tốt cơng việc được giao. Người làm công tác cán bộ của Đảng
phải biết phải biết tạo điều kiện cho cán bộ làm việc chứ không phải là người
bao biện làm thay, cũng khơng phải là khống trắng, ra lệnh, khơng cần biết
10


những khó khăn mà cán bộ đang vấp phải. Người làm tốt công tác là người kiểm
tra, uốn nắn, giúp đỡ cán bộ trong cơng việc.
2.3. Có gan cất nhắc cán bộ.

Trong cơng tác cán bộ thì việc cất nhắc cán bộ xuất phát từ yêu cầu của
công việc, chứ khơng phải chỉ có biết cán bộ rồi dùng cán bộ. Vì vậy, phải cân
nhắc khi bố trí, sắp xếp, đề bạt cán bộ. Sử dụng cán bộ và đặt người phải đúng
việc, vì việc mà đặt người chứ khơng vì người mà định việc. Người nói: “Người
đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người
chữa chỗ dở” và phê phán: “Khơng biết tùy tài mà dùng người... Thợ rèn thì
bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng.
Nếu biết tùy tài mà dùng người, thì hai người đều thành cơng”. Khơng nên vì
lịng u ghét thân thích, nể nang cánh vế, dòng tộc hay đòng hương mà cất nhắc
cán bộ. Làm như thế “nhất định không ai phục, mà gây nên mối quan hệ lơi thơi
trong Đảng. Như thế là có tội với Đảng có tội với đồng bào.” [2, t5, tr 281].
Một người có tài năng đức độ mà khơng được cất nhắt có thể sẽ làm
thui chột tài năng đó, vì khơng có đất dụng võ. Đây là điều thường xảy ra trong
thực tế, có nhiều người giỏi nhưng khơng có quyền hành hoặc có người giỏi
nhưng lại khơng thích làm lãnh đạo,…do đó, việc phát huy khả năng có hạn chế.
Người có tài ở vị trí bình thường sẽ ít có cơ hội để biến các ý tưởng lớn thành
hành động đem lại những lợi ích to lớn cho Đảng, cho Nhà nước. Theo Hồ Chí
Minh có gan cất nhắc nghĩa là người cán bộ được cất nhắc có thể cịn điểm yếu.
Phải biết được khuyết điểm của họ để sau khi căt nhắc tiếp tục giúp đỡ họ. Có
gan cất nhắc là đừng sợ người được cất nhắc sẽ vượt mình, từ đó uy tín, địa vị
của mình bị giảm. Vì vậy, “đối với cán bộ, chẳng những phải xem xét rõ ràng,
trước khi cất nhắc, Mà sau khi cất nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên găng họ, vun
trồng lòng tự tin, tự trọng của họ” [2, t5, tr 282].
Cất nhắc cán bộ là một quy luật của cơng tác cán bộ. Đó là sự địi hỏi
của công tác, khẳng định tài năng cống hiến của từng người, đồng thời cũng để
11


động viên các cán bộ khác phấn đấu. cho nên, trước khi cất nhắc, đề bạt cán bộ
phải nhận xét rõ ràng, khách quan và toàn diện. Phải xem xét cả cơng tác và

cách sinh hoạt; cách nói, cách viết và việc làm; cách đối xử với mọi người, biết
cả ưu điểm và khuyết điểm của cán bộ. Ðồng thời tránh rụt rè hoặc quá khắt khe,
cũng như tránh vội vàng thiếu nghiên cứu. Và đó là việc cất nhắc cán bộ đúng
trong cơng tác cán bộ của Đảng.
Nhìn chung: khi quyết định cất nhắc một cán bộ nào phải xem xét tồn
diện họ trong q trình hoạt động và cơng tác, từ cách ăn nói, hành động,…Khi
đã cất nhắc rồi phải giúp đỡ họ. Khi họ có sai lầm thì tránh rơi vào trừng hợp cất
nhắc đi cất nhắc lại nhiều lần, và như thế sẽ làm hỏng cán bộ. Vì vậy, “đối với
cán bộ, chẳng những phải xem xét rõ ràng, trước khi cất nhắc, Mà sau khi cất
nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên găng họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của họ”
[2, t5, tr 282]. Bởi vì con người ai cũng có lịng tự trọng, tự ty. Khơng có lịng
tự trọng, tự ty là người vô dụng. Cho nên trong cất nhắc cán bộ người lãnh đạo
phải tơn trọng họ, đừng để họ mất lịng tin sẽ làm cho mất đi tín hăng hái và trở
thành người vô dụng. Cất nhắc cán bộ là công việc thường xuyên và liên tục của
công tác cán bộ, cất nhắc cán bộ phải thật sự đúng và công tâm có như vậy cán
bộ được cất nhắc chẳng những phục vụ cống hiến tốt cho Đảng mà đồng thời
các thế hệ tiếp theo là những người có tài năng thật sự. Còn ngược lại sẽ làm hại
cho Đảng, cho nhân dân.
2.4. Cách đối với cán bộ.
Để lựa chọn cán bộ trước hết phải xác định tiêu chí lựa chọn: “Những
người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh.
Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Ai ln ln
chú ý tới lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và
nhận cán bộ đó làm người lãnh đạo của họ. Những người có thể phụ trách giải
quyết các vấn đề, trong những hồn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và khơng có

12


sáng kiến thì khơng phải người lãnh đạo. Những người luôn luôn giữ đúng kỷ

luật” [2, t5, tr 275].
Tuy đã lựa chọn được cán bộ theo khuôn khổ nhất định, nhưng trong
q trình làm việc, cơng tác ở những chức vụ khác nhau, những vị trí khác nhau
trong những hồn cảnh khác nhau. Nhất định sẽ phát sinh những vấn đề mới. Vì
vậy, cần phải có cách xử sự, quản lý đối với các hạng cán bộ khác nhau. Theo
Hồ Chí Minh có năm cách đối với cán bộ:
Một là chỉ đạo: Tức là trên cơ sở đường lối chính trị chung và những
phương hướng cụ thể đã được hình thành, thì có thể để cho họ cán bộ quyền tự
giải quyết công việc, không can thiệp sâu, cầm tay chỉ việc. Có như vậy mới
phát huy được tài năng của họ.
Hai là nâng cao: Sự nghiệp cách mạng luôn vận động và phát triển theo
thời gian. Người cán bộ cách mạng cũng phải vận động và phát triển theo nếu
khơng sẽ bị tụt hậu lại phía sau. Nâng cao, tức là người cán bộ ln phải có ý
thức học tập, vươn lên để nâng cao trình độ lý luận, trình độ chun mơn và cả
khả năng thích ứng với những diễn biến mới của tình hình.
Ba là kiểm tra: Khơng phải là “bới lơng tìm vết”, mà kiểm tra ở đây là
làm cho cán bộ luôn tự giác vươn lên, kiểm tra quá trình phấn đấu của họ, kiểm
tra là để khen, chê đúng lúc, đúng chổ nhằm phát huy tối đa tính tích cực của
cán bộ. Lãnh đạo mà không kiểm tra coi như không lãnh đạo. Kiểm tra phải tiến
hành thường xuyên, có hệ thống, có tổ chức. Kiểm tra phải được tiến hành theo
hai chiều từ trên xuống và từ dưới lên. Công tác kiểm tra muốn đạt được kết quả
thì quá trình kiểm tra phải được tiến hành do những cán bộ thật sự công tâm và
có uy tín, kết quả kiểm tra phải xử lý đúng lúc và đúng mức.
Bốn là cải tạo: Cán bộ cũng như bao con người khác, mà đã là con
người thì dù có giỏi đến đâu thì cũng có lúc sai lầm. Cải tạo cán bộ tức là làm
cho cán bộ biết mình phạm sai lầm gì và hướng sửa chữa sai lầm đó ra sau. Cải
tạo khơng có nghĩa là một khi cán bộ sai lầm thì khơng cần phải tìm hiểu nguyên
13



do mà áp dụng ngay lập tức các biện pháp xử lý. Công tác cải tạo phải trên tinh
thần xây dựng là chính, trước hết phải làm cơng tác tư tưởng vận động, một khi
đã khơng thể thì mới tiến hành xử lý theo quy định.
Năm là yêu thương và giúp đỡ cán bộ: Yêu thương là truyền thống lâu
đời của dân tộc, yêu thương là để cho mọi người thông cảm nhau hơn, hiểu nhau
hơn và cùng nhau làm tốt cơng việc. Cán bộ cũng là người, có tình cảm, có lịng
tự trọng, cũng biết u thương. u thương và giũp đỡ cán bộ tức là làm cho cán
bộ ngày càng trưởng thành hơn. u thương khơng có nghĩa là thả cửa cho cán
bộ muốn làm gì thì làm. Khơng có nghĩa là bỏ qua lỗi lầm của cán bộ. Như thế
là làm hại cán bộ và hại cho dân.
2.5. Khéo kết hợp các loại cán bộ.
Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh đã đề cập việc kết hợp cán bộ tại
chỗ với cán bộ do cấp trên điều về. Người phê bình do hẹp hịi mà cán bộ cấp
trên phái đến và cán bộ địa phương không đồn kết chặt chẽ. Hồ Chí Minh cho
rằng, phải chữa cho tiệt nọc bệnh hẹp hòi, khắc phục kèn cựa, mất đoàn kết giữa
cán bộ trên điều về và cán bộ tại chỗ. Người viết: “Phải biết rằng: chỉ có hai
hạng cán bộ đó đồn kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ địa phương ngày càng thêm
nhiều, thì nền tảng của Đảng mới phát triển vững vàng. Cán bộ phái đến, trình
độ thường cao hơn, kinh nghiệm nhiều hơn. Nhưng cán bộ địa phương lại biết
rõ nhân dân, quen thuộc công việc hơn. Hai hạng cán bộ phải giúp đỡ nhau, bồi
đắp nhau, thì cơng việc mới chạy” [2, t5 tr 236]. Theo quan điểm của Người, tốt
nhất là kiếm cán bộ tại chỗ, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng cán bộ tại chỗ;
song nếu khơng có hoặc thiếu thì điều động cán bộ ở nơi khác về. Chúng ta thấy
rằng, đây chính là thực hiện quan điểm coi Đảng ta là một cơ thể sống, đội ngũ
cán bộ là một đội ngũ thống nhất, cán bộ có thể và cần phải được bố trí cơng tác
ở bất cứ địa bàn nào miễn là người cán bộ đó có đủ đức và tài, có tính đến đặc
điểm, yêu cầu của từng vùng, từng lĩnh vực.

14



Người còn lưu ý giải quyết quan hệ giữa cán bộ trẻ và cán bộ già,
Trong q trình cơng tác, thì giữa cán bộ già và cán bộ trẻ là có sự khác biệt
nhau nhiều nhất. Giữa cán bộ già và cán bộ trẻ, mỗi thế hệ cán bộ có ưu thế
riêng, tùy từng thời kỳ lịch sử và sự phát triển của cách mạng. Cán bộ già là
những người có ưu thế về kinh nghiệm về khả năng lãnh đạo. Còn cán bộ trẻ lại
là lực lượng hăng hái, có trình độ về chun mơn và trình độ về khoa học kỹ
thuật. Vì vậy Bác cho rằng phải biết “tơn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn
nhau, đồn kết chặt chẽ với nhau” để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đánh giá về cán bộ già, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Các đồng chí già
là rất quý: là gương bền bỉ đấu tranh…Các đồng chí già đánh Tây. Đánh Tây là
dọn đường. Nhưng không thể nạnh kẹ: Chúng tôi vác cuốc, vác cào làm đường,
già rồi mà chưa được đi xe, các anh mới lớn lên mà được đi xe” [3, t10, tr 463464].
Đánh giá về cán bộ trẻ, Người Viết: “Cán bộ trẻ tuy chưa có một số ưu
điểm như cán bộ già, nhưng họ lại hăng hái, nhạy cảm với cái mới, chịu khó
học tập, cho nên tiến bộ nhanh…Cán bộ trẻ không được kiêu ngạo, phải khiêm
tốn học hỏi các đồng chí già có kinh nghiệm” [4, t12, tr 211].
Trong thực tế trong các tổ chức cơ quan thường xãy ra các bệnh của
cán bộ gìa và cán bộ trẻ. Cái gốc để giải quyết những vấn đề này, để kết hợp hài
hòa các loại cán bộ là phải xác định mục đích của cán bộ là phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Từ đó mà dốc tâm phục vụ bỏ qua lợi ích cá nhân, bỏ qua các
bệnh hẹp hịi, ích kỷ. Xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận cho Đảng là nhiệm vụ của
tồn xã hội, của những người có liên quan tới cơng tác cán bộ, đó là một việc rất
quan trọng, nó thể hiện sự tồn vong của cả một chế độ.
Trong tổ chức thì khơng chỉ có cán bộ già và cán bộ trẻ, mà cịn có cũ,
có mới, tại chổ và nới khác đến, cán bộ địa phương và cán bộ Trung ương, cán
bộ nam và cán bộ nữ. Khéo kết hợp các loại các bộ đó cũng không kém phần
quan trọng. Để kết hợp được các loại cán bộ một cách hợp lý, thì phải xuất phát
15



từ mục đích chung là lợi ích của Đảng, của dân tộc và trong cơng tác cán bộ phải
biết nhìn nhận đúng các thế mạnh cũng như hạn chế của từng loại cán bộ. Phát
huy thế mạnh, hạn chế mặt yếu, chống các bệnh ích kỷ, hẹp hịi của con người,
kết hợp hài hịa lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân.
Nhìn chung: Trong cơng tác cán bộ, dù bất cứ ở đâu và trong bất cứ cơ
quan nào cũng có nhiều loại cán bộ: cũ, mới, già trẻ, trai gái, tại chổ, chổ khác
đến,..Họ có sự chênh lệch rất khác nhau về độ tuổi, trình độ, về khả năng giải
quyết công việc và về nhiều vấn đề khác. Vấn đề ở đây là trong công tác cán bộ
phải làm sao kết hợp được hài hòa các loại cán bộ đó với nhau một cách hợp lý
nhất để cơng việc được giải quyết hiệu quả nhất. Phải bố trí sao để cán bộ trẻ và
cán bộ già, cán bộ mới và cán bộ cũ có thể đồn kết, bổ sung, giúp nhau cùng
hoàn thành nhiệm vụ chung.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC CÁN
BỘ CỦA ĐẢNG HIỆN NAY.
Thấm nhuần những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ,
ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề công tác cán bộ. Đây
là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Đảng ta đã xác định: cán bộ là
người có nhiệm vụ đem đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng tuyên truyền
giáo dục quần chúng và tổ chức quần chúng thực hiện. Thực tế chứng minh, hơn 50
năm tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ, trải qua q trình hoạt động bí mật và
công khai, hợp pháp và không hợp pháp, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang,
tiến hành vận động các cuộc cách mạng rộng lớn và sâu sắc, gắn liền với phong trào
cách mạng sôi sục của nhân dân. Đảng và Bác Hồ đã đào tạo xây dựng nên một đội
ngũ cán bộ đông đảo, trung thành với sự nghiệp cách mạng, hăng hái nhiệt tình, năng
động và sáng tạo, có như vậy mới có khả năng tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực
hiện thắng lợi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng đã đề ra.

16



Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
đất nước địi hỏi Đảng phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ ngang tầm
với nhiệm vụ. Tại Đại hội VI của Đảng (1986), Đại hội đổi mới toàn diện đất
nước, trên tất cả các lĩnh vực trong đó vấn đề về cơng tác cán bộ được Đảng ta
đặc biệt quan tâm. Tại Đại hội này, Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường sức chiến đấu
và năng lực thực tiễn của mình, Đảng đã đổi mới nhiều mặt: đổi mới tư duy,
trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới
phong cách lãnh đạo và công tác, phải chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức để từ đó tác động quyết định đến sự phát triển của
cách mạng nước ta”. [5, tr 124]. “Đổi mới đội ngũ cán bộ nghĩa là, lựa chọn,
bố trí lại đi đơi với đào tạo,, bồi dưỡng để có đội ngũ cán bộ có đủ tiêu chuẩn
và năng lực để lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm vụ”. [5,tr 132]
Đại hội VI xác định: “Mọi cán bộ đều có nhiệm vụ tham gia với tập thể lựa
chọn, bồi dưỡng đào tạo cán bộ kế tục, cán bộ có tuổi giàu kinh nghiệm, có
nghĩa vụ ủng hộ giúp đỡ cán bộ kế tục. Nhân tài không phải là sản phẩm tự
phát, mà phải phát hiện và bồi dưỡng cơng phu. Nhiều tài năng có thể bị mai
một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng chổ, đúng lúc… Việc luân
chuyển cán bộ theo quy hoạch góp phần tạo ra những cán bộ có tầm nhìn xa,
hiểu rộng, có bản lĩnh và năng lực lãnh đạo”. [5,tr 134]
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VII đã
xác định: “Tình hình nhiệm vụ mới đặt ra yêu cầu cho cơng tác cán bộ, tồn Đảng phải hết
sức chăm lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ kế cận vững vàng, đủ bản
lĩnh về các mặt, sớm xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ mới”. Trên tinh thần đó đến Đại hội
VIII của Đảng đã khẳng định: “Sớm xây dựng chiến lược của thời kỳ mới”. [6, tr 145]
Ngày 6 tháng 2 năm 2001, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đề ra Chỉ thị về
việc tổng kết công tác tổ chức và cán bộ theo tinh thần các Nghị quyết Trung
ương 3 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII và Nghị quyết Trung
ương 6 khóa IX của Đảng đã đánh giá tình hình cán bộ và cơng tác cán bộ qua
thực hiện các Nghị quyết trên, Đảng đã khẳng định: “Nhìn chung, trình độ

17


nhiều mặt của đội ngũ cán bộ sau 15 năm đổi mới được nâng lên rõ rệt, phương
pháp tư duy biện chứng có tiến bộ, năng lực lãnh đạo và quản lý có bước phát
triển”. [7, tr 139].
Hội nghị cịn khẳng định: “Nhìn chung cơng tác đã khắc phục nhiều biểu hiện
mơ hồ về quan điểm nhận thức và hành động, xuất hiện những năm đầu của
chuyển đổi cơ chế, giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý cán bộ” [8,141]. “Hội nghị đưa ra giải pháp về cán bộ và công tác cán
bộ, trong đó đặc biệt quan tâm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý trẻ có thành tích
xuất sắc, những cán bộ xuất thân từ giai cáp công nhân, con em cơng nơng, gia
đình có cơng với cách mạng, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ”. [7, tr 163].
Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng đã thành công tốt đẹp. Ðại
hội đã thảo luận và thông qua những văn kiện rất quan trọng, đề ra phương
hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước và công tác xây dựng đảng trong
những năm tới. Trong đó, nhiệm vụ về cơng tác xây dựng cán bộ và đội ngũ làm
công tác tổ chức cán bộ có trách nhiệm và vai trị rất quan trọng góp phần thực
hiện thắng lợi nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng.
Đại hội XI xác định “Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lí giỏi, đội ngũ chuyên gia quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành
nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn” [8, tr 130]. Và “Xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị,
có năng lực, có tính chun nghiệp cao, tận tụy phục nhân dân” [8, tr 143].
Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ; đổi mới tư duy, cách làm,
thật sự phát huy dân chủ, khách quan, công tâm, khắc phục cho được những yếu
kém, khuyết điểm trong từng khâu của công tác cán bộ, và bản thân cơ quan và
cán bộ làm công tác cán bộ.
Xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách, quy định về phát
hiện, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thật sự trọng


18


dụng những người có đức, có tài, có uy tín và tín nhiệm cao với nhân dân. Làm
tốt cơng tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ, từ quy hoạch đến các chức danh lãnh
đạo chủ chốt của Ðảng, Nhà nước, quy hoạch cán bộ cấp chiến lược tới cán bộ
các cấp, các ngành, các địa phương. Ðánh giá và sử dụng đúng cán bộ phải trên
cơ sở tiêu chuẩn của từng chức danh, lấy hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của
nhân dân, của đơn vị làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ
đức, đủ tài, quan liêu tham nhũng, lãng phí, cơ hội chủ nghĩa, giỏi luồn lách, có
nhiều dư luận xấu trong nhân dân.
Xây dựng quy định, quy trình cho thơi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với
cán bộ lãnh đạo, quản lý; có cơ chế hữu hiệu để kịp thời thay thế những cán bộ
yếu kém về phẩm chất, năng lực, bị nhân dân chê trách, khơng hồn thành
nhiệm vụ, uy tín giảm sút. Có cơ chế phát hiện, xử lý nghiêm và kịp thời những
trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy
huân chương.
Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chú trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia đầu ngành,
cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác quản lý, giáo
dục cán bộ, luân chuyển cán bộ theo quy hoạch, khắc phục tư tưởng cục bộ,
khép kín và tình trạng ln chuyển mang tính hình thức chứ khơng coi đó là
phương thức đào tạo, rèn luyện cán bộ hoặc tăng cường sự lãnh đạo cho cấp
dưới. Nghiên cứu ban hành, thực hiện các chính sách đãi ngộ hợp lý, thỏa đáng
với những cán bộ tài năng, gắn bó với cơng việc, có nhiều đóng góp, cống hiến.
Xây dựng được đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý,
bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển, đáp ứng yêu cầu của Ðảng, của đất
nước trong giai đoạn mới.


19


KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có những luận điểm rất quan trọng về công tác
cán bộ của Đảng ta. Bác đã chỉ ra trong công tác cán bộ đã có những thành tích
nhất định, đồng thời có những điểm ta làm chưa tốt, mà điều đáng chú ý nhất là
khơng phải bao giờ có sự nhất qn giữa lý thuyết với thực hành, giữa nguyên
tắc với việc làm thực tế. Từ việc tuyển chọn, đào tạo, sử dụng bồi dưỡng, cất
nhắc đến việc nhận xét đánh giá cán bộ nói chung chưa phản ánh đúng quan
điểm cơ bản đó là xuất phát từ u cầu chính trị. Chủ yếu là do nguyên nhân của
những căn bệnh xấu vẫn còn tồn động trong tư tưởng của một số người làm cơng
tác cán bộ.
Do đó, cơng tác cán bộ của Đảng phải làm một cách tỉ mỉ, thận trọng chu
đáo. Người làm cơng tác cán bộ phải có trái tim trong sáng, sự gương mẫu đi
đầu, lời nói đi đơi với việc làm, phải biết tổ chức công việc, phải biết chọn lựa
những người có đức và tài, vào làm việc phụng sự tổ quốc. Và cuối cùng là phải
biết kiểm tra đối với cán bộ.
Thấm nhuần và thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác
cán bộ, cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng
lực, xứng đáng là người lãnh đạo và là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân, theo đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để xây dựng nước Việt
Nam giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác của Đảng ta hiện nay,
thì Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng,
coi đó là khâu then chốt, khâu quyết định để tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng. Đồng thời qua đó làm sáng tỏ vai trị của người cán bộ, từ đó khẳng định
tính cấp bách và u cầu phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung và
cán bộ chủ chốt nói riêng. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng, vì cán bộ chính là
20




×