Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Đề tài: “Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.53 KB, 18 trang )



1



Đề tài:
“Mối quan hệ biện chứng giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội”



2
A. MỞ ĐẦU
Những thành tựu và phát triển trong công cuộc đổi mới của nước ta trong
thời gian qua đã tạo ra thế và lực mới cả bên trong và bên ngoài để chúng ta bước
vào một thời kỳ phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho sự phát triển mang
đặc trưng của dân tộc đãđược tạo ra, để giới thiệu và quảng bá cho các dân tộc
khác trên thế giới. Và do đó mối quan hệ của nước ta với các nước khác trên thế
giới được mở rộng hơn bao giờ hết. Khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội
nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Cùng với sự phát triển nhanh của cách
mạng khoa học và công nghệ với trình độ ngày càng cao thì sự phát triển về
nhận thức sẽ làm cho nước ta không bị tụt hậu so vơí thế giới bên ngoài. Vàđiều
đó khiến cho chúng ta có cơ hội phát triển hơn. Tuy nhiên không thể phủ nhận tụt
hậu của các nước chậm phát triển so với các nước phát triển, mà nguyên nhân sâu
xa của nó chính làý thức xã hội của dân tộc đó. Điều đó dẫn đến nguy cơ tụt hậu
xa hơn với kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay
gắt do điểm xuất phát của chúng ta quá thấp, lại đi lên trong một môi trường cạnh
tranh khốc liệt.
Trước tình hình đó cùng với xu thế phát triển của thời đại Đảng và Nhà
nước ta cần liên tục tiến hành vàđẩy mạnh công cuộc đổi mới và toàn diện đất


nước, trong đóđổi mới xã hội chính trịđóng vai trò then chốt và chủđạo mang tính
cấp bách bởi đất nước phát triển thì cần phải có một nền chính trị và xã hội ổn
định thì công cuộc đó mới có khả năng thành công. Nhưng đểđổi mới xã hội thì
việc quan trọng là phải nâng cao tầng nhận thức của người dân. Chính vì vậy tìm
hiểu mối quan hệ giữa tồn tại xã hội vàý thức xã hội sẽ cho phép ta vận dụng vào
thực tiễn của xã hội đất nước ta để cho công cuộc đổi mới của đất nước ta thành
công.
Với nghĩa đó sau một thời gian nghiên cứu và học tập cùng với sự hướng
dẫn nhiệt tình của các thầy cô giáo em đã quyết định chọn đề tài: "Mối quan hệ
biện chứng giữa tồn tại xã hội vàý thức xã hội ". Do thời gian có hạn và kiến


3
thức bản thân em còn nhiều hạn chế do đó bài viết sẽ không tránh khoỉ thiếu sót.
Vậy em kính mong sự chân thành góp ý của các thầy cô giáo và các bạn đọc.


4
B. MỐIQUANHỆGIỮATỒNTẠIXÃHỘI
VÀÝTHỨCXÃHỘI
I. Tồn tại xã hội
1. Định nghĩa tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là cái hiện dùng để chỉđời sống vật chất và những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Khái niệm tồn tại xã hội bao quát lĩnh vực hoạt động vật chất, nó vạch rõ
những quan hệ vật chất cùng với những điều kiện vật chât khác tạo nên hoàn
cảnh xã hội trong hoạt động của con người.
Như thế có thể nói "tồn tại xã hội là một phạm trù triết học". Và với khái
niệm về tồn tại xã hội thì ta có thể nhận thấy tồn tại xã hội là một khái niệm rất
rộng. Nói tồn tại xã hội là một phạm trù triết học tức là ta muốn phân biệt tồn tại

xã hội với tư cách là một phạm trù triết học, là kết quả của sự khái qúat và trừu
tượng, với những quan hệ vật chất cụ thể, với những hạt nhỏ cảm tính. Tồn tại xã
hội bao gồm các yếu tố cơ bản:
PTSX vật chất.
Điều kiện tự nhiên: (hoàn cảnh địa lý)
Điều kiện dân cư: (dân số và mật độ dân số)
Trong đó yếu tố PTSX vật chất đóng vai trò quan trọng nhất chi phối các
yếu tố còn lại. Tồn tại xã hội không đứng một mình mà xong hành với nó làý
thức xã hội, và tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tuy nhiên giữa các trường
phái khác nhau thì sựđánh giá về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội vàý thức xã hội
khác nhau. Trong đó theo các nhà chủ nghĩa duy tâm thì cho rằng tinh thần tư
tưởng là ngọn nguồn của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự phát triển của xã
hội. Nghĩa làý thức xã hội quyết định tồn tại xã hội. Còn theo các nhà chủ nghĩa
duy vật thì ngược lại bởi theo lập luận của họ thì cho rằng tồn tại xã hội là tính


5
thứ nhất, còn ý thức xã hội là tính thứ hai tuy nhiên họ cũng cho rằng sau khi ý
thức xã hội đã gia đời thì nó có tác động trở lại với tồn tại xã hội. Ta hãy lấy tôn
giáo làm ví dụ ta sẽ thấy rằng: Một số những tư tưởng và quan điểm gia đời từ
thời cổ vẫn có thể tiếp tục tồn tại hàng nghìn năm sau khi những điều kiện đẻ ra
nóđã mất đi. Như thế có nghĩa là ta không nên cứng nhắc phải nói tồn tại xã hội
hay ý thức xã hội là cái có trước mà nên hiểu theo từng hoàn cảnh sự vật, vật chất
cụ thể mới có thể tránh được những sai lầm trong đánh giá khách quan.
2. Yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là một phạm trù triết học rộng lớn nó bao gồm tất cả những
lĩnh vực của hoạt động vật chất vàđược thể hiện qua 3 yếu tố cơ bản.
* Phương thức sản xuất vật chất:
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có không do ai sinh ra, và không thể
tiêu diệt được, nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức của

con người. Vật chất là một thực tại khách quan. Tuy nhiên trong giáo trình triết
học lại có phạm trù phương thức sản xuất vật chất vậy phương thức sản xuất vật
chất là gì.
Phương thức sản xuất vật chất là những phương cách, dụng cụ, công
nghệ… để tạo ra của cải vật chất phục vụđời sống văn hoá tinh thần của chính
bản thân con người. Điều này cũng có nghĩa là phương thức sản xuất chính là yếu
tốđóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với tồn tại xã hội. Mặt khác nếu không có
phương thức sản xuất thì rõ ràng sẽ không thể tồn tại xã hội. Và như thế cũng có
nghĩa phương thức sản xuất sẽ chi phối các yếu tố còn lại của tồn tại xã hội.

* Điều kiện tự nhiên:
Đây là một yếu tố cần vàđủđể hình thành tồn tại xã hội. Vàđể tồn tại xã
hội phát triển ngày càng cao thì yếu tốđiều kiện tự nhiên này rất quan trọng. Nó


6
phải phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho tồn tại xã hội vàđể cóđiều kiện thuận
lợi phát triển thì tồn tại xã hội cần phải có yếu tố thứ ba là.
* Điều kiện dân cư:
Cũng có vai trò giống nhưđiều kiện tự nhiên, nó cũng cóảnh hưởng đến sự
phát triển của tồn tại xã hội. Và nếu cóđược một điều kiện tự nhiên, dân số thuận
lợi cộng với một phương thức sản xuất vật chất hợp lý thì sẽ tạo ra một xã hội tốt
đẹp với mặt tích cực mà nóđang và sẽ cần phải đạt đến.
II. Ý thức xã hội.
1. Khái niệm ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển khác nhau bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống tư tưởng lý luận …
Nói theo nghĩa rộng thìý thức xã hội bao gồm những quan điểm chính trị,
pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… của xã hội , bao gồm tri
thức khoa học (kể cả khoa học tự nhiên ) vàđặc điểm dân tộc về bản chất tâm lý

của các giai cấp xã hội. Nói theo nghĩa tương đối hẹp thìkhái niệm ý thức xã hội
chỉ là tư tưởng, quan điểm và thuyết xã hội phản ánh tồn tại xã hội và chếđộ xã
hội.
Duy vật lịch sử dạy chúng ta rằng ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội
của điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội. Tồn tại xã hội của người ta thế nào, sinh
hoạt vật chất của người ta như thế nào thìý thức xã hội của người ta cũng như
thế.
Ý thức xã hội là một hiện tượng tinh thần, một lĩnh vực của đời sống xã
hội. Nó tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội trong lĩnh vực sản
xuất vật chất. Ở thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ thìý thức xã hội còn ở trình độ
thấp, nghèo nàn về nội dung và hình thức phản ánh. Nhưng càng về sau thì trình
độ kinh tế - xã hội phát triển cả về quy mô, tốc độ và chiều sâu nên ý thức xã hội
với tính cách là phản ánh tồn tại xã hội cũng trở nên phong phú và phức tạp.


7
2. Kết cấu của ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là một hiện tượng phức tạp, tuỳ theo mục đích, trình độ
phản ánh mà người ta chia ra thành các cấp độ, các bộ phận khác nhau.
* Ý thức thông thường vàý thức lý luận.
- Ý thức thông thường phản ánh cái đời sống vật chất tự nhiên hàng ngày
của chúng ta hình thành trực tiếp trong đời sống xã hội. Nó chưa có tính hệ
thống, tính hợp lý nhưng nó cóđầy đủ chi tiết của cảm giác sống.
Ý thức lý luận là toàn bộ những tư tưởng phản ánh bản chất, tính quy luật
của sự vật và hiện tượng, quan điểm xã hội được hệ thống hoá thành các hệ thống
cụ thể như: Triết học, đạo đức, nghệ thuật…ý thức lý luận có tính hệ thống, tính
hợp lý, tính trừu tượng khái quát.
* Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
- Tâm lý xã hội là một bộ phận ở cấp độý thức thông thường bao gồm:
Tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen của con người được hình thành một

cách tự phát dưới tác động trực tiếp của những điều kiện sống hàng ngày của họ.
Tâm lý xã hội phản ánh bề mặt của tồn tại xã hội, chưa có khả năng vạch ra bản
chất các mối quan hệ vật chất xã hội, nguyên nhân sinh ra các mối quan hệđó
cũng như khuynh hướng biến đổi của chúng. ở tâm lý xã hội những yếu tố trí tuệ
thường đan xen với những yếu tố tình cảm.
Hệ tư tưởng là một bộ phận ở một cấp độý thức lý luận. Đây là những
quan điểm tư tưởng đãđược hệ thống hoá, khái quát hoá thành các học thuyết
phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định. Với tính cách là cái phản ánh tồn tại
xã hội, hệ tư tưởng thể hiện được đánh giá, phân tích các hiện tượng xã hội, các
quan hệ xã hội … Về thực chất nó phản ánh mục đích, nguyện vọng của giai
cấp, vai trò, xứ mệnh của giai cấp trong quan hệ với các giai cấp khác, với toàn
xã hội.


8
Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉđạo
thực tiễn, cải tạo xã hội của giai cấp. Hệ tư tưởng là cái phản ánh tồn tại xã hội
thông qua quan điểm của một giai cấp nên trong thực tế có hệ tư tưởng là khoa
học, có hệ tư tưởng là không khoa học.
Tâm lý xã hội là hệ tư tưởng có chung nguồn gốc nhưng khác nhau về
chất trong trình độ phản ánh. Tuy vậy, giữa chúng có tác động qua lại vàảnh
hưởng lẫn nhau.
* Ý thức xã hội vàý thức cá nhân.
Ý thức xã hội làý thức của con người, tồn tại và phát triển thông qua ý
thức của các cá nhân. Nhưng mỗi con người đều sống trong một xã hội nhất định
nên ý thức cá nhân của mỗi người đều mang những nội dung nhất định của ý
thức xã hội. Tuy vậy giữa ý thức xã hội vàý thức cá nhân không có sựđồng nhất
tuyệt đối.
Ý thức cá nhân làý thức của mỗi con người sống trong xã hội. Nóđược
hình thành và phát triển trên cơ sở môi trường, điều kiện sống của mỗi cá nhân

cụ thể. Do kết quả của sự giáo dục, rèn luỵên, trường đời trải qua… ý thức cá
nhân vươn lên tầm khái quát, phản ánh cái chung, tính quy luật vận động xã hội
khi đóý thức cá nhân chuyển hoá thành ý thức xã hội.
* Tính giai cấp của ý thức xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp cóđịa vị xã hội khác nhau, vai trò xã
hội khác nhau điều kiện sinh sống khác nhau… nên ý thức xã hội mang tính giai
cấp. Tính giai cấp đóđược thể hiện ở tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
* Tính dân tộc của ý thức xã hội.
Mỗi dân tộc có hoàn cảnh sống riêng, truyền thống riêng, lịch sử phát triển
riêng… nên ý thức xã hội mang tính dân tộc. Khi ý thức của một giai cấp phản
ánh được lợi ích dân tộc thì tính giai cấp và tính dân tộc của ý thức xã hội có sự
phù hợp. Trường hợp ngược lại thì không phù hợp, mâu thuẫn.


9
* Tính nhân loại của ý thức xã hội.
Ý thức xã hội còn mang tính nhân loại. ởđây những giá trịđược khẳng
định trong quá trình phát triển của nhân loại. Trong tâm lý thể hiện những đặc
điểm mang tính loài (loài người), trong hệ tư tưởng phản ánh tính hiện thực, xu
hướng phát triển của lịch sử nhân loại.
III. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội vàý thức xã hội.
Đã có không ít những nhận xét , đánh giávề mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội vàý thức xã hội. Có những nhận xét rất chính xác và hoàn chỉnh nhưng bên
cạnh đó không ít những nhận xét sai lầm về mối quan hệ trên màđiển hình là
sựđánh giá của những nhà duy tâm.
Những người duy tâm xuất phát từđiểm: Khi người ta giao thiệp với nhau
thì người ta hoạt động như những thực thể cóý thức, và từđiểm đó họ rút ra kết
luận sai lầm là: Tồn tại xã hội vàý thức xã hội đều ngang nhau. Khi phê phán
quan điểm duy tâm sai lầm, phản khoa học ấy Lênin đã viết:
"Tồn tại xã hội vàý thức xã hội không phải là ngang nhau, cũng không

hoàn toàn giống như tồn tại nói chung vàý thức nói chung không phải là
ngang nhau. Từ sự thật là người ta giao thiệp với nhau như những thực thể
cóý thức, quyết không thể rút ra kết luận rằng ý thức xã hội và tồn tại xã hội
đều ngang nhau. Trong tất cả các hình thái xã hội tương đối phức tạp, đặc
biệt là trong hình thái xã hội TBCN, khi người ta giao thiệp với nhau thì
người ta không hề cóý thức là làm như thế nào sẽ hình thành ra quan hệ xã
hội nào, và quan hệấy phát triển theo quy luật nào… ví dụ khi người nông
dân bán thóc gạo thì có sự giao dịch với những người sản xuất thóc gạo trên
thị trường thế giới, nhưng bản thân người nông dân ấy không hề cóý thức
vềđiểm đó, không hề cóý thức rằng do sự trao đổi đó mà sẽ hình thành quan
hệ xã hội như thế nào".
Lênin: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.


10
Những người duy tâm đi tìm nguồn gốc sinh ra tư tưởng xã hội, học
thuyết chính trị, quan điểm tôn giáo, nghệ thuật và các thứ quan điểm khác trong
lĩnh vực ý thức, trong lĩnh vực tư tưởng, nhà lý luận tức là những người sáng tạo
ra tư tưởng và lý luận đó. Chủ nghĩa duy vật lịch sử dạy chúng ta rằng: Chúng ta
không nên đi tìm nguồn gốc chính để ra tư tưởng xã hội, nguồn gốc thực sự làm
cho sinh hoạt tinh thần xã hội hình thành, trong đầu óc của người ta, mà nên đi
tìm trong điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội. Chỉ cóđứng trên lập trường chủ
nghĩa duy vật, chúng ta mới có thể hiểu được tại sao trong các xã hội khác nhau,
trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử lại có những tư tưởng xã
hội và quan điểm khác nhau, tại sao những quan điểm và tư tưởng ấy lại thay đổi
theo sự thay đổi của điều kiện sinh hoạt của chúng ta.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. ý thức xã hội vĩnh viễn không thể
là cái gì khác, mà chỉ có thể là phản ánh của tồn tại xã hội. Ngay đến cả quan
niệm tôn giáo mơ hồ và hoang đường của người ta tuy phản ánh xuyên tạc nhưng
rút cục cũng là phản ánh của điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội.

Ý thức xã hội của người ta lúc nào cũng phản ánh điều kiện sinh hoạt vật
chất của người ta. còn muốn biết những điều kiện đó phản ánh như thế nào, thì
phải xem trình độ phát triển của lịch sử như thế nào? Phải xem phương thức sản
xuất ra làm sao.
Cùng với thời gian đã qua đi, nhất là từ khi sinh ra phân công xã hội, từ
khi xuất hiện giai cấp vàđấu tranh giai cấp, từ khi lao động tríóc tách rời lao động
chân tay thì toàn bộ sinh hoạt xã hội của người ta gồm cả sinh hoạt tinh thần, dần
dần trở nên phức tạp. Nhà nước gia đời pháp quyền cũng từđó mà xuất hiện. Các
hình thái ý thức xã hội mới sinh ra và phát triển nên: Quan điểm chính trị, quan
điểm pháp quyền, cùng khoa học và triết học xuất hiện; nghệ thuật một yếu tố
của sinh hoạt tinh thần tức văn hoá cũng phát triển lên và phân hoá thành các loại
nghệ thuật.


11
Những người mang tư tưởng duy vật kinh tế tầm thường hoá và giản đơn
hoá chủ nghĩa Mác, định trực tiếp tìm nguồn gốc sinh ra quan điểm triết học, tôn
giáo, đạo đức, nghệ thuật… của người ta trong quá trình sản xuất, dùng trình độ
kỹ thuật để giải thích tính chất và phương hướng phát triển của nghệ thuật, triết
học, đạo đức. Thái độ tầm thường đối với các hiện tượng sinh hoạt tinh thần như
thế làđi ngược lại vàđối địch với chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa duy vật lịch sử dạy
chúng ta rằng ý thức xã hội, hệ thống tư tưởng xã hội và hệ thống tư tưởng của
giai cấp họp thành xã hội là do sự phát triển của sản xuất, do hoạt động sản xuất
của xã hội quy định, nhưng không phải quyết định trực tiếp mà thông qua cơ sở
kinh tế của xã hội, thông qua quan hệ sản xuất. í thức xã hội không phản ánh một
cách trực tiếp và tức khắc sự biến đổi của trình độ phát triển sức sản xuất, mà
phản ánh sau khi kinh tế biến đổi thông qua những chiết quang của những biến
đổi trong sản xuất phản chiếu ra những biến đổi trong chếđộ kinh tế xã hội. Đồng
thời, một số hình thái ý thức xã hội không những trực tiếp chịu ảnh hưởng có tính
quyết định của cơ sở kinh tế mà còn chịu ảnh hưởng của cơ sở kinh tế thông qua

quan hệ chính trị xã hội, thông qua lợi ích giai cấp vàđấu tranh giai cấp, thông
qua những hình thái ý thức xã hội khác gần gũi cơ sở xã hội hơn.
Trong sự phát triển của mọi hình thái kinh tế xã hội (như triết học khoa
học nghệ thuật…), ở mỗi nước (và cùng với sự phát triển của quan hệ quốc tế,
thì cũng là trên toàn thế giới ) đều có truyền thống tư tưởng nhất định, đều có
tính kế thừa nhất định. Ví dụ nhưở Nga, truyền thống của Chủ nghĩa duy vật
khoa học bắt đầu tư Lô-mô-nô-xốp và La-di-xep qua Ghec - xen. Bê- lin- ski đến
Séc - ni- sếp- sky, Đa-bơ-ra-lu-bốp. Chủ nghĩa Lênin ra đời nước Nga, nhưng
không phải chỉ có chỉ do điều kiện kinh tế xã hội ở Nga đẻ ra, mà còn do điều
kiện kinh tế xã hội của quốc tế trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, vàđiều kiện yêu
cầu của phong trào công nhân thế giới đẻ ra. Chủ nghĩa Lênin là chủ nghĩa Mác,
tức là chủ nghĩa Mác được phát triển một cách có sáng tạo trong điều kiện cận
đại. Trong lĩnh vực văn học, cũng có quan hệ kế thừa. Ví dụ như giữa những
sáng tác của Putskin, Gôgông… đều có tính kế thừa. Giữa văn học cổđiển Nga


12
vĩđại thời xưa và văn học Xô viết cũng có tính kế thừa. Nếu khi dùng quan điểm
cách mạng để phê phán và chiến thắng những quan điểm nghệ thuật, nhận thức
khoa học và hệ thống triết học cũ kỹ, mà không giữ lấy tất cả những cái gì chân
thực và tiến bộ mà nhân loại đãđạt được trong thời kỳ lịch sử trước, thì nghệ
thuật, khoa học, triết học cũng không thể tiếp tục phát triển được. Vì vậy Đảng
cộng sản dạy chúng ta, phải tiếp thu tài sản văn hoá vĩđại thời xưa để lại một
cách có phê phán, nhất là kho tàng quý báu của nghệ thuật cổđiển Nga tiên tiến,
và những kho tàng nghệ thuật tiên tiến quý giá do các dân tộc khác sáng tạo ra.
Nếu nắt bắt tất cả những kho tàng văn hoá tiên tiến do người xưa sáng tạo ra mà
không phê phán, thì không thể sáng tạo được văn hoá mới, tiên tiến, văn hoá xã
hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản. Khi phê phán những kẻ tầm thường hoá chủ
nghĩa Mác gọi là "phái văn hoá vô sản" Lênin đã nói rằng:
"Văn hoá vô sản không phải là trên trời rơi xuống, và cũng không phải

do những người tự xưng là chuyên gia văn hoá vô sản nghĩ ra. Nếu như thế tức
là nói láo. Văn hoá vô sản phải là kết quả phát triển tất nhiên của những kho
tàng tri thức mà loài người sáng tạo ra dưới áp bức của TBXHCN, xã hội địa
chủ, xã hội quan liêu ".
Do đó có thể thấy rằng không nên dùng tư tưởng để giải thích sự phát triển
của triết học, khoa học, nghệ thuật và những hình thái ý thức xã hội khác, không
nên quy sự phát triển ấy thành "quan hệ huyết thống của tư tưởng" như những
người duy tâm đã làm. Phải tìm nguồn gốc tư tưởng ởtồn tại xã hội của người ta,
ở tồn tại giai cấp của người ta vàở nền kinh tế của một xã hội nào đó. Nhưng
đồng thời phải chúýđến mối liên hệ và tính kế thừa trong sự phát triển của các
hình thái kinh tế. KHông nên giản đơn hoá sự vật, không nên đi trực tiếp từ kinh
tế nhất làđi từ quá trình sản xuất để suy luận tất cả những hiện tượng tư tưởng.
Tính độc lập tương đối của sự phát triển các hình thái ý thức xã hội đãđem
lại một nhận thức sai trong đầu óc những nhà tư tưởng duy tâm: Cho rằng quá
trình tư tưởng không lệ thuộc vào điều kiện sinh họat vật chất của xã hội, không
lệ thuộc vào đấu tranh giai cấp. Sở dĩ nhận thức sai lầm ấy được củng cố trong ý


13
thức của họ, là vì hình thái ý thức xã hội tuy là phản ánh của điều kiện sinh hoạt
vật chất nhưng sự phát triển của nó lại đi sau sự biến đổi của sinh hoạt vật chất.
Trước hết tồn tại xã hội biến đổi, rồi sau đóý thức xã hội mới biến đổi theo hoặc
nhanh hoặc chậm.
Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quy định nhưng nó không hoàn toàn
thụđộng mà có tính năng động, có tính độc lập tương đối trong sự phát triển của
mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được biểu hiện ở những mặt sau:
*Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
ý thức xã hội thường tồn tại hơn so với tồn tại xã hội . Về mặt nhận thức ý
thức xã hội là cái phản ánh, đặc biệt là phản ánh các hiện tượng, quy luật xã hội
đòi hỏi phải có thời gian. Do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống. Do

những lực lượng xã hội, giai cấp lỗi thời tìm mọi cách duy trì những tư tưởng lỗi
thời lạc hâụ chống lại ý thức xã hội tiến bộ của những lực lượng cách mạng.
Sở dĩý thức xã hội lạc hậu hơn tồn tại xã hội là vì: Một làý thức là phản
ánh của tồn tại, hai là một số hình thái ý thức nhất định và những tưtưởng bao
gồm trong đó, nhất là những tư tưởng tôn giáo và những quy định vềđạo đức,
những phong tục tập quán… Bị tôn giáo thần thánh hoáđi, đều có tính chất bảo
thủ. Không những tôn giáo và tư tưởng tôn giáo có tính chất bảo thủ mà các hình
thái ý thức xã hội khác cũng có. Các thứ tư tưởng xã hội của những lực lượng xã
hội đã thối nát, vì sức mạnh của tập quán nên được củng cố và bảo tồn về mặt
truyền thống, trở ngại cho sự phát triển của quan điểm mới và tư tưởng mới.
Nguyên nhân thứ ba làm cho ý thức lạc hậu hơn tồn tại xã hội là lực lượng xã hội
thối nát muốn giữ lấy tư tưởng cũ. Thế lực phản động dựa vào những cơ quan mà
chúng nắm giữ, để nâng đỡ cho những tư tưởng phản động cũ kỹ.
Tình trạng lạc hậu lại càng có trong loại ý thức hàng ngày của người ta,
loại ý thức này sinh ra, hình thành và biến đổi một cách tự phát do ảnh hưởng của
điều kiện sinh hoạt xung quanh. ý thức khoa học thì lại khác với ý thức hàng
ngày, nó không phải sinh ra một cách tự phát, mà do những nhà tư tưởng, những


14
học giảđã tìm được quy luật phát triển của giới tự nhiên, của xã hội và của sự suy
nghĩ, nghiên cứu ra. Sự suy nghĩ về lý luận nếu nó là khoa học thì trên cơ sở
nhận thức được quy luật phát triển và nhận thức được xu thế dần dần trưởng
thành ra trong sinh hoạt và hiện thực, thì nó có thể làm cho chúng ta dự kiến
được những sự việc nhất định sẽ phát sinh ra sau này. Sau khi tìm ra quy luật
phát triển của xã hội TBCN, Mác đã từng nói trước rằng chủ nghĩa tư bản tất
nhiên bị duyệt vong, chủ nghĩa xã hội tất nhiên thắng lợi. Dự kiến khoa học ấy
đãđược toàn bộ tiến trình phát triển của xã hội chứng thực.
* Tính tổ chức của tư tưởng tiến bộ, khoa học.
Trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt là

những tư tưởng khoa học có thểđóng vai trò tiên phong vượt trước sự phát triển
của tồn tại xã hội, dự kiến được tương lai và có tác dụng tổ chức chỉđạo hoạt
động thực tiễn của con người, hướng hoạt động vào việc giải quyết những nhiệm
vụ mới do sự phát triển của đời sống vật chất của xã hội đạt ra. Nhưng điều này
không có nghĩa ý thức xã hội không bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Vấn đề làở
chỗý thức xã hội đã phát hiện ra khuynh hướng phát triển của tồn tại xã hội và
phản ánh ít nhiều chính xác khuynh hướng đó, đem lại khả năng sử dụng sức
mạnh cải tạo của những tư tưởng xã hội tiên tiến đối với tồn tại xã hội.
* Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội.
Những quan điểm và lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh
đất chống không, màđược tạo ra trên cơ sở những tư liệu lý luận của các thời đại
trước, nghĩa là có quan hệ kế thừa với ý thức tư tưởng của thời đại trước. Tính kế
thừa của ý thức xã hội thể hiện rõ trong tập quán, truyền thống văn hoá của xã
hội. Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội bao giờ cũng gắn
liền với giai cấp của nó. Những giai cấp tiên tiến dựa vào những lý luận do xã hội
cũđể lại, vớt bỏ những tư tưởng lỗi thời không phù hợp với thời đại mình. Còn
các giai cấp, các lực lượng xã hội lỗi thời, phản tiến bộ thì tìm mọi cách làm sống


15
lại những gì có liên quan đến lợi ích của mình, bất kể những tư tưởng đóđã lạc
hậu đến đâu và như thế nào.
* Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự
phát triển của chúng.
Ý thức xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể: ý thức chính trị,
phong tục tập quán đạo đức, triết học, nghệ thuật tôn giáo, khoa học. Mỗi hình
thái ý thức xã hội phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của
tồn tại xã hội nhưng chúng có mối liên hệ, tác động lẫn nhau. Nói cách khác, ý
thức xã hội với tính cách là một chỉnh thể phản ánh tồn tại xã hội dưới những góc
độ khác nhau, nó mang trong mình nhiều yếu tố phức tạp, bởi vậy chúng ta

không thể giải thích một cách đơn tuyến, trực tiếp tính chất của một hình thái ý
thức xã hội từ tồn tại xã hội được.
Ở mỗi thời đại tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà thường có
hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu. ở chúng biểu hiện tập trung ý
thức của thời đại và tác động mạnh đến hình thái ý thức xã hội khác.
* Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Các nhà xã hội học tư sản vu khống chủ nghĩa duy vật lịch sử là bỏ qua
tác dụng của ý thức, tức là "nhân tố tư tưởng" trong sự phát triển của xã hội, hơn
nữa còn trách những người Mác xít quy kết toàn bộ sự phát triển của xã hội thành
sự vận động tựđộng của kinh tế. Những lời trách móc đó nếu không phải là kết
quả của sự mê muội của các nhà xã hội học tư sản thì là kết quả của việc họ cốý
xuyên tạc quan điểm của chủ nghĩa Mác.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử vốn thừa nhận, và ngày nay vẫn thừa nhận tác
dụng to lớn của tư tưởng xã hội trong sự phát triển xã hội. Chính vì vậy mà Mác
vàĂngghen, Lênin và Sta-lin mới suốt đời biến cả sức lực mình cho việc nghiên
cứu toàn diện lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, hệ thống tư tưởng tư sản, và
giáo dục tinh thần ý thức xã hội chủ nghĩa cho giai cấp vô sản. Cũng chính vì thế
mà tất cả những chính Đảng theo chủ nghĩa Mác mới đặc biệt chúýđến cuộc đấu


16
tranh tư tưởng và lý luận với hệ thống tư tưởng tư sản thù ghét giai cấp công
nhân. Ngay từ năm 1843 Mác đã viết:
"Vũ khí phê bình đương nhiên không thể thay thế cho việc phê bình bằng
vũ khí, lực lượng vật chất thì cần phải dùng lực lượng vật chất để lật đổ, nhưng
một khi lý luận đã nắn được quần chúng nhân dân thì lập tức biến thành lực
lượng vật chất".
Mác: Phê phán triết học pháp quyền Hêghen.
Khi đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, Mác vàĂng ghen không thể không
tập trung lực lượng chủ yếu để giải thích những nguyên lý cơ bản về lý luận xã

hội của mình bị kẻ thù phủ nhận, những nguyên lýđó là : Điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội có tác dụng quyết định, nó là nguồn gốc phát sinh và biến đổi của
tư tưởng quan điểm, lý luận, chếđộ chính trị, chếđộ pháp quyền của xã hội. Còn
nói đến vấn đề tác dụng tích cực trở lại của tư tưởng đối với sự phát triển của
sinh hoạt vật chất xã hội thì Mác vàĂng ghen cũng đã trở lời dứt khoát trên
nguyên tắc trong những tác phẩm của mình đặc biệt là trong những tác phẩm về
lịch sử, còn những tác phẩm triết học của Mác vàĂng ghen thì vì hoàn cảnh lịch
sử nên trọng tâm đều đạt vào việc bảo vệ và giải thích nguyên tắc chủ yếu của
chủ nghĩa duy vật lịch sử là : Điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội có tác dụng
quyết định, đặt vào việc giải thích nguyên nhân làm cho tư tưởng, lý luận, quan
điểm biến đổi. Vềđiểm này, năm 1890 Ăng ghen đã viết:
" Các bạn thanh niên! (những người theo chủ nghĩa Mác- Công-stăng-
tinốp) có lúc đã quá coi nặng mặt kinh tế, vềđiểm này Mác và tôi cũng phải chịu
một phần trách nhiệm. Chúng tôi vì phải chống lại kẻ thù, nên không thể không
nhấn mạnh nguyên tắc chủ yếu mà chúng phủ nhận, do đó không cóđủ thời gian,
địa điểm và cơ hội để làm cho những yếu tố tác động lẫn nhau khác có một địa
vị xứng đáng. Song một khi phải giải thích một thời kỳ lịch sử nào đó, cũng có
nghĩa là phải thực tếáp dụng (phương pháp duy vật lịch sử - Công stăng- tinốp)
thì tình hình lại khác, lúc ấy không thể có một chút sai lầm nào nữa ".


17
Mác thư gưỉ cho Bơ-rốt- sô (21-9-1890).


18
C. KẾTLUẬN
Tóm lại, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và nhận thức xã hội là mối quan
hệ biện chứng, ý thức xã hội do tồn tại xã hội, do điều kiện sinh hoạt vật chất xã
hội đẻ ra nhưng nó có tính độc lập tương đối nếu chỉ thấy tồn tại xã hội quyết

định ý thức xã hội một cách đơn giản, máy móc sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm
thường, còn nếu tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội không thấy vai trò của
quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Chính vì vậy, tìm hiểu mối quan hệ giữa tồn tại xã hội vàý thức xã hội sẽ
giúp ta nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội vàý thức
xã hội. Điều đó cóý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.


×