Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Báo cáo " GIA ĐÌNH, CỘNG ĐỒNG VÀ VỐN XÃ HỘI " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.47 KB, 20 trang )

Families, communities and social capital:
Past and continuing false prophesies in social studies
By Harry Goulbourne
Community, Work & Family, Volume 9, Issue 3 August 2006, pages 235 – 250.

GIA ĐÌNH, CỘNG ĐỒNG VÀ VỐN XÃ HỘI
Quá khứ và những vấn đề hiện tại trong các nghiên cứu xã hội
Bài viết này đặt ra câu hỏi về những thế hệ nghiên cứu xã hội ở Anh trước đây (các nhà
xã hội học, nhân học, khoa học chính trị …) đã làm thế nào để nghiên cứu các đặc tính
văn hoá của các nhóm thiểu số sau chiến tranh khi mà họ đánh giá cao nhóm này nhưng
lại coi nhẹ nhóm khác, và họ đã dùng cách đánh giá đó để đo lường tỉ lệ thành công hoặc
thất bại của các nhóm thiểu số trong việc hoà nhập vào xã hội Anh lúc bấy giờ. Bằng
phương pháp tổng quan và bình luận các nghiên cứu xã hội ở Anh về các yếu tố tác động
trong hơn 4 thập kỷ, bài viết này nhận định rằng các nhà phân tích hiện nay cũng như
trước kia phải đối mặt với những rủi ro trong công việc nghiên cứu, và họ cũng có thể
nhầm lẫn khi nỗ lực ca ngợi hoặc phê phán sự đóng góp của các cộng đồng mới đối với
trật tự xã hội trong giai đoạn đế chế ở nước Anh. Bài viết này hàm ý rằng muốn nghiên
cứu các yếu tố được coi là đại diện cho vốn văn hoá và xã hội như bản sắc dân tộc, gia
đình và mạng lưới thân tôc, đòi hỏi phải dùng cả nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu
lý thuyết với sự nhạy cảm, nghiêm túc và sự chân thực .

Các từ khoá: Thiểu số, cộng đồng, vốn xã hội, giá trị, chủ quan, nhà nghiên cứu và những
người được nghiên cứu, văn hoá, hoà nhập và tách rời.

Dẫn nhập:
Khía cạnh chính của các tranh luận khoa học và đại chúng hiện nay là các cộng
đồng dân tộc thiểu số đang tách biệt xã hội hay là hoà nhập vào xã hội Anh. Mối quan
tâm chính về quá trình này được thể hiện qua việc tìm hiểu số lượng và chất lượng ngày
càng tăng của vốn xã hội mà những cộng đồng thiểu số này chiếm hữu và sử dụng. Một
số nhóm có nhiều vốn xã hội, số khác có ít, có nhóm có vốn xã hội không phù hợp, còn
có nhóm chẳng có tí nào.Những câu hỏi liên quan đến vấn đề này, đuợc xuất hiện gần


đây, tương đối mới đối với sinh viên trong chính sách công hoặc trong các nghiên cứu
khoa học về xã hội hơn bốn thập kỷ qua.
Trong bài viết này, tôi muốn bắt đầu bằng một sự khám phá về những mối quan
tâm trước đây liên quan đến năng lực của các nhóm thiểu số trong việc hoà nhập và cả
những mối quan tâm hiện nay về vốn xã hội. Những nhóm này được cho là nhóm chiếm
hữu trong việc tham gia vào xã hội rộng lớn hơn. Điểm xuất phát cơ bản ở đây là bối
cảnh chung đã và đang dẫn đến sự tranh luận này của xã hội Anh sau đế chế.
Có hai điểm lớn liên quan đến những tranh luận cần phải quan tâm trong bài viết
này. Thứ nhất, một tập hợp các phạm trù liên quan đến con người và thứ hai là nghĩa của
các thuật ngữ được sử dụng như khái niệm về cộng đồng, đặc trưng của dân tộc, chủng
tộc, vốn xã hội và như gia đình. Việc khám phá những khái niệm này rất quan trọng vì
chúng thường xuyên được sử dụng trong thực tế, nhưng vì chúng còn quá trừu tượng nên
việc sử dụng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Đầu tiên, nhất thiết phải làm rõ rằng các cộng đồng dân tộc thiểu số hoặc cộng
đồng chủng tộc chiếm đa số trong bài viết này là những nhóm người Caribbean, ngoài ra
còn những nhóm thuộc gốc Nam Á như Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan và SriLanka. Thêm
vào là các cộng đồng Đông Á, là nhóm có nguồn gốc văn hoá và lịch sử của người Ấn Đô
như Punjab và Gujerat. Khi đến từ nhiều nơi khác nhau, những nhóm này có quan hệ
lỏng lẻo với nhau vì những khác biệt về thuộc địa của họ và sự khác biệt đó tác động đến
việc gắn kết họ với xã hội Anh. Những cộng đồng này đều chia sẻ tính dân tộc chính thức
của nước Anh được ban hành bởi Luật về dân tộc Anh năm 1948, mặc dù mỗi nước
thuộc địa có tính tự chủ riêng và họ trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc và liên tục
là thành viên của Khối cộng đồng chung, nhiều người nhập cư (Jamaicans,
Trinidadians…) đứng trước việc lựa chọn để quyết định có nên trở thành công dân của
các quốc gia mới sau thời kỳ thuộc địa hay là giữ quốc tịch của Anh. Ở giai đoạn đầu di
chuyển đến Anh, có thể tính từ khi hạ cánh của Hoàng đế Windrush ở Tilbury năm 1948
cho đến sự có mặt của những người Malawi châu Á vào năm 1976, đã đánh dấu thập
niên của thời kỳ tan rã thực địa và mở đầu cho sự xuất hiện các quốc gia mới. Cùng với
sự kết thúc của luồng nhập cư từ Khối Thịnh Vượng chung về người da màu theo điều
luật Nhập cư của Khối thịnh vượng chung năm 1962, những người nhập cư sau này chủ

yếu theo dạng đoàn tụ gia đình, hợp tác lao động hoặc tị nạn. Điểm quan trọng là những
cộng đồng được đề cập ở đây khi nghiên cứu về sự hợp tác cũng như vốn xã hội là những
người di chuyển theo dạng lao động từ năm 1948 đến những năm sáu mươi, và cả những
người di tản năm 1968 (Kenyan Asians, năm 1971 (Ugandan Asians) và cả những người
Tanzania.
Cho đến hiện nay chưa có các cuộc nghiên cứu xã hội về các nhóm nhỏ hơn trong
các khu vực này cũng như các cộng đồng thiểu số khác. Ví dụ, trong khi có nhiều cuộc
nghiên cứu ở công đồng Cypriot (Oakley, 1979), và Maltese (Dench, 1975), sau những
năm bảy mươi mối quan tâm này giảm dần. Tương tự, trong khi có nhiều nghiên cứu về
châu Phi như Tây Phi và các vùng khác (Fryer, 1984) thì những mối quan tâm khoa học
và chính sách liên quan đến sự xuất hiện của các cộng đồng châu Phi ở Anh X. Bởi vậy
việc tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm về các vấn đề của những cộng đồng thiểu số
này là cần thiết nhằm giúp cho việc lập chính sách liên quan đến chăm sóc trẻ em, dịch
vụ xã hội và một số cộng đồng người châu Phi. Các vấn đề về tội phạm và bạo lực bắt
nguồn từ việc nhập cư của những người Jamaicans vào London và các thành phố khác
cần phải nghiên cứu theo cách tiếp cận trên. Nghịch lý ở đây là trong khi có nhiều tranh
luận hiện nay về những cộng đồng mới thành lập từ những năm sáu mươi- chủ yếu là
người Caribbeans và Nam Á- nhiều vấn đề cũng xuất hiện ngày nay với các cộng đồng
thiểu số xuất hiện về sau. Các vấn đề này cũng đang gây thách thức cho việc lập chính
sách và cả cho các nghiên cứu xã hội. Có thể nói rằng chúng ta không cần phải tìm hiểu
vấn đề quá sâu lý do vì sao có nhiều nghiên cứu tập trung vào cộng đồng Carbbeans và
Nam Á. Tôi đã có bình luận trong (Goulbourne, 1998), đặc trưng của xã hội đa văn hoá ở
Anh từ thập kỷ 70 đến đầu thiên niên kỷ chủ yếu là các cá nhân và cộng đồng Caribbeans
và Nam Á. Nói cách khác, trong khi ở xã hội Anh có nhiều nhóm dân tộc thiểu số từ nửa
sau của thế kỷ 20, những nhóm này chỉ phản ánh một phần của tình trạng đa văn hóa ở
xã hội này. Tóm lại vấn đề đa văn hóa không chỉ là sự hiện diện mà còn phải nhận diện
những đặc điểm như Parekh (2002) gọi là xã hội “đa văn hóa”. Tuy nhiên cách tiếp cận
này nhằm mục đích tìm hiểu về xã hội được coi là “tốt” không chỉ là nhận biết sự khác
biệt về pháp luật mà còn là mối quan hệ tương hỗ giữa những sự khác nhau đó (Jenkins,
1967) cũng như những cố gắng để tìm hiểu bản chất của cái mà ông Swann gọi là “khung

giá trị chung” (Swann, 1985, trang 5).
Cũng có thể nói rằng những vấn đề khó khăn xuất hiện từ các cộng đồng này
được thể hiện bằng thuật ngữ “đa văn hóa” bao gồm sự thoả hiệp của họ khi hoà nhập
vào xã hội chung của Anh và đặt mối quan tâm về họ trong mối quan tâm chung của cả
xã hội. Theo quan điểm của C. Wright Mills (1970), mọi người chuyển những “rắc rối”
của mình thành “vấn đề” và khái quát mối quan tâm đó vào sự rắc rối chung của xã hội.
Có thể cho rằng người Carbbeans và Nam Á đã tìm cách khái quát vấn đề của họ để tạo
ra sự cách biệt với những thành tố chung của xã hội. Có thể những cộng đồng mới khác
như người Trung quốc và những cộng đồng mới hơn như người châu Phi chưa có sự cố
gắng tạo ra sự khác biệt đó. Đây là giả thuyết của tôi và cần những nghiên cứu thực
nghiệm để kiểm chứng giả thuyết này.
Tôi cũng đã có nói về những nhân tố như cộng đồng, bản sắc dân tộc và chủng
tộc, gia đình và vốn xã hội, nhưng cần phải chỉ rõ bản chất các thuật ngữ mà tôi đưa ra.
Theo truyền thống, tổ chức gia đình được coi là đơn vị cơ bản nhất của trật tự xã
hội với chức năng bảo tồn nòi giống cho xã hội. Từ cấu trúc gia đình (gia đình hạt nhân
hay gia đình mở rộng) đến các mối quan hệ thân tộc và các chuỗi mạng lưới xã hội được
liên kết qua yếu tố sinh học cũng như các thiết chế xã hội và luật pháp (luật hôn nhân,
người thực hiện và các tổ chức kiểm soát luật). Có thể có sự thiếu đồng nhất về lĩnh vực
này, trong hai thập niên gần đây đã chứng kiến sự không hài lòng với các tổ chức xã hội
liên quan đến gia đình. Ví dụ các nhân tố của gia đình truyền thống được tạo lập bởi quan
hệ nam nữ rồi đến hôn nhân của hai cá nhân đã trưởng thành và đại diện là “anh và tôi”
(là sự hoà hợp của hai cá nhân khi họ phải bỏ qua nhựng sự riêng tư và cái tôi của họ).
Mối quan hệ này hiện nay được tồn tại dưới dạng “anh, tôi và chúng ta” – ba đơn vị
tương đối khác biệt (Furstenberg, 2005). Sự khác biệt theo ba yếu tố này có nghĩa là mối
quan hệ thân mật trong các giá trị truyền thống được thay thế bằng quan hệ theo chủ
nghĩa cá nhân. Nhưng đối với một số nhà quan sát thì mối quan hệ này còn bao hàm cả
thành tố giới và tình dục (Plummer, 2003; weeks, Holland và Waites, 2003). Hai điểm
cần lưu ý ở đây là: thứ nhất, gia đình được đặt trong bối cảnh rộng hơn bởi những mối
quan hệ thân tộc và đến lượt mình, X những mối quan hệ này lại được cấu trúc và vận
hành trong cộng đồng. Những cộng đồng này được đặt trong một không gian nhất định về

vị trí địa lý và lãnh thổ như là gia đình truyền thống (Bryceson và Vuorela, 2002;
Goulbourne, 2002; Goulbourne và Chamberlain, 2001).
Bởi vậy rất cần thiết khi nghiên cứu sự tác động của cộng đông đến các mô hình
quan hệ xã hội. Tonnies (1955) phân biệt giữa “gemeischaft và gesellschaft” có thể hữu
ích khi tạo ra mối quan hệ giữa gia đình, thân tộc và cộng đồng. Khi mà gemeischaft đại
diện cho cộng đồng dựa trên cơ sở sống chung (ví dụ như quan hệ trong một cuộc hôn
nhân, trong một công ty kinh doanh hoặc là trong một nhóm có cùng mối quan tâm). Phù
hợp với mộtt số nhà lý thuyết thế kỷ 19 như Weber, Tonnies cố gắng tìm hiểu cái gì làm
cho xã hội hiện đại khác với xã hội truyền thống và xác định những cảm nhận sau này về
cộng đồng như là đặc trưng của các xã hội hiện đại. Ngày nay chúng ta đang cố gắng để
tránh sự nhị nguyên này và cuối cùng có ý định xem cộng đồng tự đánh giá họ như thế
nào trong các mối quan hệ thân thiết. Ví dụ như khi mọi người có xu hướng dùng từ “bạn
đời” để mô tả mối quan hệ mật thiết giữa hai cá nhân, có thể cho rằng danh từ xuất phát
từ gesellschaft (quan hệ xã hội) được sử dụng để bao hàm cả mối quan hệ gemeinschaft
(tính cố kết xã hội), bởi vậy đặt câu hỏi về tính nhị nguyên giữa công và tư hoặc là lĩnh
vực của mối quan hệ cá nhân mật thiết hoặc mối quan hệ cộng đồng.
Những dạng của cộng đồng được đề cập trong bài viết này là bản sắc dân tộc hoặc
đặc trưng chủng tộc của các nhóm thiểu số và những bản sắc này khác biệt với bản sắc
của toàn xã hội. Trong khi giả định này đại diện cho một cấp độ thực tế, thì ở một cấp độ
khác nó lại là một sự đại diện nhầm lẫn hoặc là sự lệch lạc của hoàn cảnh. Ở cả hai khía
cạnh khác biệt: chủng tộc (sự khác biệt về mặt hình thể, màu da), dân tộc (giá trị văn hoá,
truyền thống, tập quán…) giữa cộng đồng Nam Á và Caribbeans với phần lớn dân số của
nước này. Những sự khác biệt rõ nét này cũng ẩn chứa sự tương đồng có ý nghĩa và sự
trùng khớp về đặc tính giữa các nhóm. Qua hơn nửa thế kỷ cuối của thế kỷ 20 sự chuyển
đến của các cá nhân và gia đình họ, sự tạo dựng và hoà nhập vào các cộng đồng mới
chưa tạo nên các cộng đồng vì sự thiếu hoà hợp của các hệ thống những giá trị và thiếu
vắng sự hòa hợp chủng tộc ngay cả trong các cộng đồng của Tonnies- trong việc sắp xếp
cuộc sống và cả trong các quan hệ chính thức. Đương nhiên, việc tìm hiểu về đặc trưng
của người châu Á và người Caribbean trong xã hội đương thời Anh là tương đối mới mặc
dù họ cũng có tổ tiên nguồn gốc. Đặt quan điểm về sự biến mất của người châu Á khỏi

châu lục như là người Caribbeans châu Phi khỏi Caribbean vì có sự can thiệp mạnh mẽ
của Anh kể cả giai đoạn thực địa ở Đông Phi và giai đoạn sau thực địa.
Điều đó đã cung cấp một luận điểm quan trọng để đề xuất ý tưởng về vốn xã hội
có thể liên quan đến gia đình, cộng đồng và bản sắc của họ. Có thể giả định rằng gia đình
và cộng đồng- cụ thể là các cộng đồng được xác định bởi đặc trưng dân tộc hoặc là đặc
trưng chủng tộc- là yếu tố tạo ra sự phong phú về vốn xã hội. Nguồn tài liệu phong phú
về vốn xã hội ngày càng tăng- ý nghĩa, sự tiếp cận và sử dụng, sự đo lường- không được
đề cập trong một bài viết này. Tuy nhiên, có thể định nghĩa vốn xã hội là một nguồn tài
nguyên không chạm đến được và không thể đo lường được như là mạng lưới xã hội và
những mối liên hệ xã hội. Mối liên hệ xã hội ở đây có nghĩa là những giá trị của nó được
sử dụng phải quan sát được khi mà cá nhân hoặc là nhóm thu nhập dữ liệu. Hiểu theo
cách này, chúng ta có thể coi vốn xã hội mang tính công cụ, mềm dẻo, thậm chí mơ hồ,
khó nắm giữ, và không phải lúc nào cũng quan sát được. Thực vậy, có thể nói rằng vốn
xã hội được nhận biết thông qua hiệu quả của nó, không giống như vốn vật chất (nhà cửa,
đất đai, khoáng sản, tiền bạc), vốn xã hội là tài sản vô hình, không giống như sức lao
động trong tác phẩm của K. Marx là thứ có thể bán được như hàng hoá, không thể mang
ra chợ để trao đổi như các hàng hoá khác. Điều này không có nghĩa là vốn xã hội là thứ
siêu hình và không quan trọng, ngược lại nó tồn tại thực và hiệu quả của nó có thể quan
sát được.
Cách tiếp cận trên trong các ý tưởng về vốn xã hội được hình thành bởi một sự
bình luận chứ không phải là cái nhìn nghi ngờ. Bởi vì, thứ nhất vốn xã hội là một công cụ
khám phá hữu ích giúp chúng ta có thể hiểu tốt hơn về một vài nhóm người làm thế nào
để thu được những thành công mà chúng ta có thể xác định được là do vốn xã hội. Có
những nhóm được coi là thành công là do họ có nguồn vốn xã hội tốt, trong khi đó một số
nhóm thất bại là vì nghèo nàn về vốn xã hội. Một số bài phê bình quan điểm của K. Marx
về vốn tích luỹ (người Tây Ban Nha và những người đào vàng thế kỷ 17) cho rằng việc
quay đồng vốn tiềm năng không hiệu quả sẽ làm cho nguồn vốn trở nên vô dụng, vì vậy ở
đó vàng phải đuợc thương mại hoá thành đồng tiền để trao đổi trên thị trường. Tôi cũng
nghĩ rằng các nhóm xã hội ( gia đình, mạng lưới thân tộc, cộng đồng dân tộc…) có thể
biến nguồn vốn xã hội trở nên hữu ích, nhưng một số nhóm không sử dụng nguồn vốn

này mà đối xử với nó như là một thứ không quan trọng, thứ yếu. Để làm thức dậy vai trò
của vốn xã hội trong cộng đồng cần phải có sự khởi động, theo cách này vốn xã hội phải
được đề cập trong các bài tập khởi động và luôn được lặp lại. Cái gì làm cho một nhóm
thành công còn nhóm kia thất bại chưa chắc hoàn toàn là do vốn xã hội mà cò có thể do
các yếu tố khác nữa như tài sản, học vấn, quyền lực chính trị hoặc là quân đội. Liên quan
đến các dân tộc thiểu số và các nhóm chủng tộc ở Anh, sự khác biệt về màu da có thể là
nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về kết quả cuộc sống khác nhau chứ không phải là do
tự nhiên hoặc là do số lượng của các mối quan hệ xã hội mà họ nắm giữ. Nếu điều này
đúng, chúng ta cần có nhiều hơn nữa sự bình luận về sự sở hữu vốn xã hội.
Thứ hai, từ bối cảnh này chúng ta nên đặt ra câu hỏi, vốn xã hội của nhóm này có
cùng chức năng ơ’ nhóm khác không? Điều này phụ thuộc vào sự giao lưu chính trị xã
hội, tâm lý của một nhóm cụ thể, một cộng đồng, và nguyên tắc về sự thống trị hay là
quyền lực của nhóm đa số. Ví dụ, xu hướng tập thể của những nhóm người châu Á được
coi là điểm mạnh cho những người nhập cư thuộc nhóm này từ khi họ đặt chân đến và cả
trong quá trình sống ở nước Anh. Trong khi đó xu hướng đề cao tính cá nhân của người
Caribbeans được coi là yếu tố bất lợi cho những người nhập cư thuộc nhóm này trong
giai đoạn đó. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang ở trong thời kỳ mà các nhóm đã có sự
hoàa nhập, khi mà sự hoà nhập và sự thỏa hiệp giữa các nhóm khác nhau là cần thiết thì
nhận thức chung là xu hướng cá nhân được coi như hành trang cho người Caribbeans để
họ hoà nhập vào xã hội lớn hơn là xu hướng tập thể.
Hơn nữa, vốn xã hội trong bối cảnh xã hội này lại không phải như vậy trong bối
cảnh xã hội khác. Ví dụ, người nhập cư Caribbeans hoặc là Punjab xuất thân từ nông thôn
có thể thấy những kỹ năng làm việc nông nghiệp và mạng lưới xã hội mà họ có lại không
có tác dụng trong xã hội đô thị nơi họ đang sống ở Anh. Vì vậy họ cần phải thiết lập các
mạng lưới xã hội mới.
Vốn xã hội, vì vậy không được coi như là một tập hợp các nhân tố mà có thể coi
là sự hòa trộn. Sẽ không có vấn đề về xác định bản chất hoặc là đo lường giữa các nhóm
và cộng đồng xã hội khác nhau. Cụ thể là các công đồng khác nhau về chủng tộc hoặc là
dân tộc có sự khác biệt về các giá trị văn hoá, chuẩn mực và các yếu tố lịch sử xã hội và
tâm lý.

Cuối cùng, nếu không nghi ngờ bài viết của tôi ở đây đang đưa ra những nhận xét
khó hiểu, tôi thấy cần thiết phải đưa ra một số ví dụ về vốn xã hội của các nhóm dân tộc
và chủng tộc được trình bày sai như thế nào khi chúng ta không có sự hiểu biết căn bản
về hành động của những nhóm xã hội này.

Những giả định trong quá khứ và suy đoán
Sự khác biệt về ngôn ngữ, những giả định và suy đoán về sự sở hữu vốn xã hội của người
Caribbeans và người châu Á hiện nay được coi như một truyền thống trong các nghiên
cứu xã hội ở Anh với một khuynh hướng mạnh mẽ và kiên định nhằm mục đích cung cấp
những giá trị văn hóa mang đặc trung riêng biệt của một nhóm. Trong khi về chủ đề này
có rất nhiều tài liệu, có lẽ chưa có nơi nào lại tồn tại một cuộc nghiên cứu mang tính hệ
thống hơn nghiên cứu của Rex, cụ thể là trong tác phẩm “Những người nhập cư thuộc địa
ở một thành phố của nước Anh: một phân tích theo giai cấp” của Rex và Tomlinson
(1979). Như bối cảnh đã mô tả ở trên, không đáng ngạc nhiên khi mối quan tâm đầu tiên
của Rex và Tomlinson là sự hòa nhập. Tiếp theo là mơ ước về hòa bình và tránh các xung
đột dân tộc và chủng tộc. Thứ ba là những vấn đề nảy sinh từ giai đoạn cấp tiến với câu
hỏi về thế giới thứ Ba, chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa tư bản ở phương Tây. Câu hỏi
căn bản mà Rex và Tomlinson đặt ra là người Caribbeans và châu Á có những cơ hội nào
để hòa nhập vào xã hội Anh. Câu trả lời của họ là sự phân biệt chủng tộc đang là rào cản
cho những người nhập cư không thể hòa nhập thành công vào xã hội Anh vì sự khác biệt
về hành trang văn hóa như ngôn ngữ, tín ngưỡng, giá trị, chuẩn mực và quan điểm, cũng
như năng lực của họ để gắn kết với nơi đến. Ngôn từ mà họ và các đồng nghiệp sử dụng
khác với ngôn từ về vốn xã hội được sử dụng hiện nay, nhưng nội dung và ý nghĩa của
chúng lại giống nhau: gia đình và thân tộc, mạng lưới và cộng đồng, giá trị và chuẩn
mực, quan điểm Khi khám phá những vấn đề này, Rex và Tomlinson tập trung một
cách tế nhị vào một vấn đề đặc trưng mà các cộng đồng này gặp phải: nhà ở, giáo dục,
việc làm
Thứ nhất, khi nói về các vấn đề của trẻ em ở trường học và hành trang văn hóa
của trẻ em ở tầng lớp lao động Anh, châu Á và người Anh Điêng mag đến trường, Rex và
Tomlinson tranh luận rằng:

Người Anh Điêng nhận biết rằng họ bị thiệt thòi hơn người châu Á vì sức mạnh của
văn hóa châu Á, và họ cũng ít lợi thế hơn tầng lớp lao động da trắng, mặc dù văn
hóa của trẻ em da trắng khác với thầy cô ở trường. Nhưng họ đang cùng chia sẻ với
thầy cô văn hóa chung của nước Anh.

Trước đó họ cũng cho rằng
Từ tất cả những đứa trẻ trong cuộc nghiên cứu của chúng tôi, việc lựa chọn song
ngữ xảy ra nhiều hơn ở trẻ em nhập cư châu Á. Hầu như tất cả trẻ em châu Á đều
giữ văn hóa ở nhà bao gồm một hệ thống những nét văn hóa riêng biệt như đạo đức,
ngôn ngữ và tín ngưỡng mà những yếu tố này được tạo dựng trong cấu trúc thân
tộc. Bố mẹ và các tổ chức tôn giáo làm tất cả để củng cố văn hóa này. Cho đến hiện
nay, trẻ em Anh cũng được quan tâm đến giáo dục văn hóa ở nhà nhưng họ không
phải lựa chọn như trẻ em châu Á. Họ phải đối mặt với hệ thống trường học như
phân tầng, âm giọng địa phương và một ít phân tầng và văn hóa vùng còn sót lại ở
xã hội đô thị rộng lớn. Những người Anh Điêng có nhiều khó khăn nhất. Lịch sử về
văn hóa của họ được bắt nguồn từ văn hóa châu Phi hoàn tòan bị xóa bỏ bởi chế độ
nô lệ khi mà họ được cấp cho một vị trí thấp kém trong sự đa dạng của văn hóa
Anh, vì thế họ bắt đầu hình thành nên văn hóa riêng để khiêu khích và nổi loạn. Từ
bối cảnh văn hóa ở nhà phức tạp đó của người Anh Điêng, trẻ em của họ phải đối
mặt với nhiều khó khăn về văn hóa ở trường học

Chủ đề về sự nổi trội của sự gắn kết văn hóa ở người châu Á so với tầng lớp lao
động Anh và người Anh Điêng được đề cập xuyên suốt báo cáo, cũng là vấn đề được tìm
thấy trong Rex (1970). Ví dụ khi nói về khả năng của người Anh Điêng hoặc là lịch sử da
đen và văn hóa trong chương trình giảng dạy ở trường học, ho cho rằng:
Từ lập luận rằng các cộng đồng châu Á chắc chắn là đối tượng ghen tuông của
người Anh Điêng. Các truyền thống văn hóa và tôn giáo cũng như các thiết chế rất
mạnh, thậm chí cả khi con cái họ được tiếp cận với nền giáo dục theo kiểu công cụ,
việc giáo dục thêm các giá trị văn hóa truyền thống khẳng định một nhận thức bản
thân.


Điểm tranh luận trọng tâm của Rex và Tomlinson là sự thấp kém hoặc thiếu vắng
của văn hóa Anh Điêng và nhu cầu “phát minh” văn hóa. Tuy nhiên, Rastafarianism
(giống như Black Islam và Black Power ở Mỹ) sẽ cung cấp cho họ (những người Anh
Điêng) ít nhất cũng là những sự bắt đầu của một văn hoá về sự tự tôn trọng (ibid trang
237). Họ phỏng đoán rằng, trong khi những thanh niên trẻ châu Á và Anh Điêng bị tước
quyền về giáo dục, việc làm và nhà ở, và việc tước quyền này có thể hình thành nên sự
chia sẻ tập thể; tuy nhiên “cùng nhau họ sẽ tạo thành một mẫu hình nhập cư được kế tục,
nếu không được đến lớp học chính thống, họ sẽ lập ra một lớp nhỏ không chính quy để tự
bảo vệ mình” (ibid trang 237). Thế nhưng nếu đưa quan điểm Darwin xã hội vào xem xét
vấn đề này- nhóm này có năng lực để tồn tại trong một xã hội cạnh tranh khắc nghiệt
trong khi nhóm khác lại không- sự khác biệt này dẫn đến sự khác biệt về tương lai của
hai nhóm này, ngắn gọn hơn là do sự khác biệt về hành trang văn hoá:
Nếu người Anh Điêng được trang bị bởi sự thiếu tự tin do sự giáo dục của văn hoá
da trắng do đó họ tìm nét văn hoá mang đặc trưng cá nhân, thì những người châu Á
họ có ngôn ngữ, văn hoá và tín ngưỡng riêng la(m cho họ tự hào và chính những cái
đó có thể chứng minh cho sự hoà nhập và sự đáp ứng của họ với nhu cầu của xã hội
công nghiệp hiện đại. (ibid, trang 237)

Vậy sự tiên đoán sẽ là
Nếu như có thể….giữa những người Anh Điêng điểm rất cơ bản về văn hoá của
họ sẽ là sự tự khẳng định ngược lại với xã hội da trắng và điều này có thể là nhân
tố chính biến cô&ng đồng Anh Điêng thành một dạng “giai cấp tự thân”

Kiểu phân tích xã hội này so sánh với, và cần phải đặt trong cùng bối cảnh của J.
Enoch Powell, người có cùng dự đoán về “những dòng sông có cùng loại máu” ở các
đường phố của Anh như là kết quả của các cộng đồng châu Á và Anh Điêng xuất hiện ở
các thành phố ở Anh. Powell cũng xây dựng một thuyết nhị nguyên về sức mạnh của
người châu Á và sự yếu kém của người Anh Điêng, nhưng trong Rex và Tomlinson dự
đoán về đầu ra của sự hoà nhập của những người châu Á, thì ý tưởng của Powell cho rằng

“người đàn ông da trắng ” nên lo sợ trước thế mạnh của văn hoá châu Á. Khi đề cập đến
làm thế nào để những văn hoá của các công đồng này làm cho họ tham gia vào “xã hội
chủ nhà”, Rex và Tomlinson đề cập nhiều hơn đến tôn giáo, gia đình và quan hệ thân tộc,
tổ chức cộng đồng và hệ giá trị cũng như quan điểm tương ứng. Trong chương “Chủng
tộc, cộng đồng và sự xung đột” bao gồm một tập hợp thú vị về các biểu đồ thể hiện xu
hướng lệch chuẩn của các nhóm khác nhau dựa theo chuẩn của xã hội Anh. Vấn đề này
cũng đã được bình luận phần nào ở (Goullbourne, 1990), ở đây tôi giới hạn sự bình luận
trên bốn điểm về những xu hướng lệch chuẩn của các nhóm cộng đồng:
• Sự đối lập, sự gây hấn và cách mạng da đen
• Rút ra các chiến lược thực tiễn và các ý tưởng duy tâm
• Chủ nghĩa hoà nhập hoặc là tìm kiếm sự cùng tồn tại trong hoà bình (với xã hội
chủ nhà
• Sự tách biệt khỏi chủ nghĩa cấp tiến của da trắng
Bằng quan điểm này độc giả không thể ngạc nhiên khi đọc kết luận mang tính nhị nguyên
từ:
Trong trường hợp của cộng đồng Anh Điêng….cái đáng thú vị hơn là…các phong
trào nhằm khă’ng định bản sắc của người da đen cần phải đặt trong biểu đồ về các
công việc xã hội thực tế, sự rút lui và sự đối lập cũng như gây chiến. Có thể cho
rằng, các phong trào liên quan đến chủ đề này không phải là một hiện tượng quan
trọng nhất của cộng đồng Anh Điêng. (Rex và Tomlinson, 1979, trang 245-246)

Những hoạt động của các nhóm Anh Điêng gần như thể hiện sự rút khỏi các giá
trị xã hội:
Do đó, ví dụ như biểu đồ về tôn giáo của cộng đồng Anh Điêng cũng được thể
hiện trong Rastafarianism ở góc rút lui của Biểu đồ 8.2…nhưng Penticostalism,
mặt khác lại trình bày một dạng rút lui tôn giáo, nhưng cũng có thể nhìn thấy một
dạng của sự hoà nhập. (ibid, trang 247)

Mặt khác
Trong trường hợp của những người châu Á, cái mà làm cho ai đó để ý là các hoạt

động nòng cốt và bốn xu hướng lệch lạc được thể hiện trong khung phân tích của
nhóm dựa trên mốt quan hệ mạnh về thân tộc, tôn giáo và tính dân tộc. Sự rút lui,
được coi là sự thay thế, có nghĩa là tính cố kết họ hàng được củng cố như là một
thước đo về sự bảo vệ chống lại sự đe doạ bên ngoài. Sự đối lập đuợc coi là liên
quan khi các nhóm bảo vệ đồng hương hay các nhóm bảo vệ công đồng đuợc đề
xuất. Sự tách rời khỏi tính cấp tiến của người da trắng được thể hiện thông qua
các hội đoàn của những người lao động, họ cũng có thể giao tiếp theo học thuyết
của chủ nghĩa xã hội hay là học thuyết maxist cũng được dựa trên nền tảng của
thân tộc, tôn giáo và cấu trúc dân tộc. Thậm chí sự hoà nhập là một chiến lược
được theo đuổi của cả nhóm và đuợc coi như là một kiểu của những người giàu và
là sự đại diện trong xã hội chủ nhà. (ibid, trang 246)

Còn nhiều thứ để bình luận về các tác phẩm của Rex và Tomlison, nhưng nếu đo lường
tốt hơn thì bất cứ học giả nào với nhiều hay ít kiến thức chung về những nhóm và cộng
đồng được mô tả, những trích dẫn ở đây muốn thể hiện như những bài tập về sự lệch lạc
xã hội và sự lệch lạc này được coi như là kết quả của sự cách biệt xã hội do nhận thức
chung của họ ngược lại với yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên, cần thiết phải nhấn mạnh rằng
có nhiều quan điểm của họ được hình thành bởi các học giả đương thời, và các quan đểim
cần phải đuợc nghiên cứu cẩn thận, rất ngạc nhiên khi bất cứ tiếng nói nào đi ngược lại
quan điểm của Rex đều bị chìm trong yên lặng.
Một ví dụ có ý nghĩa là bài viết của Geoff Dench (1986) “Vấn đề thiểu số trong
xã hội mở: những tù nhân của sự mâu thuẫn”. Bài viết này phản ánh và củng cố thêm
quan điểm của Rex và Tomlison khi cho rằng “sự khác biệt giữa các cộng đồng (như
người Nam Á, Nam Âu, Do thái, Ai-len, Caribbeans và những cộng đồng khác) ở Anh
đang đối đầu với ‘xã hội mở’ theo cách này hay cách khác. Thứ nhất, trong một số cộng
đồng (không phải người Do thái và châu Á) những thủ lĩnh duy trì một sự kiểm soát xã
hội ngoại tại và nội tại bằng cách quản lý các nguồn tài nguyên vật chất và văn hoá, qua
đó họ bảo vệ cộng đồng của họ khỏi những sự công kích từ ‘xã hội mở’, ông ta thể hiện
quan điểm:
Vấn đề này có thể ít gánh nặng cho các cộng đồng Do thái hoặc là những người

châu Á sau chiến tranh. Những cộng đồng này có nguồn tài nguyên về kinh tế và
văn hoá để duy trì một số ảnh hưởng lên các thành viên. Họ có thể thậm chí bằng
lòng với việc tách biệt và vi phạm những lời khuyên về sự hoà nhập. Nhưng
những nhóm ít cố kết, hay nói cách khác là những nhóm không có quyền lựa chọn
mà bị chi phối bởi các quy định của ‘xã hội mở’, và bị ép buộc coi mình như là
một tổ chức tự do, lại bị đặt trong mối nguy hiểm khi họ đuợc coi là có tội trong
cộng đồng. (Dench, 1986 trang 122)

Nhận định này chỉ ra tính mở trong một số nhóm- cụ thể là người Do Thái và người
Caribbeans- là nhóm ít bị chi phối, và những nhóm bị chi phối nhiều bởi thủ lĩnh thì đuợc
coi là mạnh. Từ những phát hiện mang tính thức tỉnh trong tác phẩm “Trào lưu chính
thống của đạo Hồi” được mô tả theo quan điểm cộng đồng và khoa học, cụ thể là việc
đánh bom tự sát vào ngày thứ Năm mồng 7 tháng Bảy năm 2005 trong ‘xã hội mở’, sự
bao vây bởi sự công xã hoá, cái được nhận biết trong giai đoạn hiện nay như là kết quả
của xung đột công xã. Thực vậy, xu hướng lãnh đạo gia trưởng đang được bảo vệ không
những bị thách thức từ bên ngoài bởi các giá trị (từ luật pháp và hệ đạo đức), mà còn từ
bên trong bởi những sự đa dạng xã hội như chủ nghĩa nữ quyền, thanh niên và những ước
mơ chung, những thứ này như là một phần của dòng chảy chung của loài người.
Điều này dẫn đến một vài bình luận chung về khía cạnh tiêu cực của sự phân chia
các giá trị và vô giá trị trong các cộng đồng khác nhau, như đã đề cập trong xã hội học
của Rex. Tôi cũng đã đề cập đâu đó về tính phi lịch sử của xã hội học của Rex
(Goulbourne, 1998), cụ thể là công trình về lý thuyết của ông- mối liên hệ chủng tộc
trong xã hội học (1970), nhưng điều này đuợc thể hiện mạnh mẽ hơn trong những người
nhập cư thuộc địa, đây là công trình lý thuyết nhưng lại bắt nguồn từ các nghiên cứu thực
địa. Cụ thể hơn, trong khi có nhiều nhận định có uy tín về người châu Á và Caribbeans,
chưa có một học giả nào đề cập đến chiều dài lịch sử của vấn đề. Ngược lại, thư mục vắn
tắt của Patterson đề cập cả hai vấn đề cân bằng hơn khi đưa ra nguồn tài liệu phù hợp về
lịch sử và xã hội của Caribbeans. Tác phẩm của Rex cũng được nhấn mạnh, ví dụ ông
nhận định nền kinh tế của người Anh Điêng là những người nhập cư từ một vùng, họ
không thể trở về và để quê hương của minh lại phía sau, nơi mà họ bỏ đi khi kinh tế ở đó

đi xuống. Nhưng đó không phải là thế hệ mạnh mẽ nhất của các nhà kinh tế Caribbeans
viết trong giai đoạn đó (Girvan, 1971; Jefferson, 1972).
Thứ hai, dự đoán của Rex, cố ý hay không cố ý đã tái sản xuất và đưa ra cuộc
sống mới ở Anh và làm thay đổi những khuôn mẫu rập khuôn thuộc địa ở thế kỷ thứ 19.
Điều này có thể mạnh ở người Caribbeans, nơi mà những người châu Phi và châu Á
đang ở thế xung đột khi chế độ thuộc địa đẩy họ vào thế cạnh tranh. Có lẽ khônng có một
ví dụ nào rõ nét hơn về điều này hơn là mô tả của Walter Rodney (1981) về “lính mỹ” (từ
‘swamy’ đáng tôn trọng) và ‘Quashie’ (từ Kwesi). Liên quan đến xã hội Anh hậu đế chế,
rất may mắn là đa số người Caribbeans và châu Á không nhân được sự quan tâm nhiệt
tình của các nhà phân tích xã hội, những người có tiếng nói trong thế giới khoa học và
chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức về Phi-Caribbeans –Á.
Một ví dụ mang sắc thái hơn và dễ nhận thức hơn là đề tài về so sánh các cộng
đồng ở trong công trình của Sheila Patterson (1965). Trong “Những người lạ mặt trong
bóng tối: Một công trình của người Anh Điêng ở Luân Đôn” (Xuất bản lần đầu tiên vào
năm 1963), ý tưởng của Patterson ở đây là người nhập cư từ châu Âu dễ hoà nhập hơn
vào xã hội Anh, còn người Anh Điêng lại bị “đồng hoá”, bà nhấn mạnh:
Những dự báo về các vấn đề này rất nguy hiểm. Với sức mạnh về vật chất và lịch
sử của những người nhập cư trước kia ở đất nước này, tuy nhiên; “Tôi muốn được
chuẩn bị để đưa ra lời dự báo táo bạo rằng, trong những thiên niên kỷ tới ở Anh
những người nhập cư Anh Điêng và con cái của họ sẽ kế tục bước đi của người
Ai-Len; họ sẽ, mặc dù không có sự kiểm tra hoặc là đảo ngược trong tiến trình
này, được chấp nhận như là một thành tố ổn định và bình thường trong lực lượng
lao động địa phương, dần dần sẽ nâng cao mức sống và mở rộng khu vực định cư
của mình. Các nhóm thiểu số sẽ có thể đẩy mình vào tầng lớp những người lao
động có kỹ năng và chuyên môn cao, nơi mà một điểm sáng được chiếu bởi
những người thiểu số ở giai cấp trung và thượng lưu, những người kế tiếp xu
hướng di dân ồ ạt từ Anh Điêng. Sự hoà nhập này là ưu thế sẽ đưa đến các mối
quan hệ gần gũi hơn với người dân địa phương, và có lẽ sẽ làm tăng xu hướng
ngoại hôn giữa các công đồng và ít ra dòng máu của người Anh Điêng sẽ thấm
vào người dân địa phương- như trường hợp của 10.000 nô lệ da màu ở Luân Đôn

thế kỷ 19, và hàng ngàn cựu chiến binh da trắng, lao động theo hợp đồng và người
Anh Điêng bản địa sống ở trên đảo. (Patterson, 1965)

Nhiều dự đoán của Patterson cũng gây tiếng vang trong một số công trình kế tiếp
(xem Cross và Entzinger, 1998; Ward và Jenkins, 1984) và những nghiên cứu này cũng là
trung tâm của các bình luận hiện nay ( ví dụ Berrington, 1996; Goulbourne, 1998; Owen,
1996).

Một số lưu ý mang tính cảnh báo
Nhiều sự phát triển từ cuối những năm 1980 cho rằng Sheila Patterson đã đúng khi cảnh
báo về những nguy hiểm khi dự báo về tương lai, những sự phát triển này cũng đưa ra
nhiều phân tích của Rex về các cộng đồng ở Anh như là những dự đoán sai lầm khi dựa
vào những giả định không được xác minh bởi nền tảng lý thuyết, thực nghiệm và lịch
sử. Ngoài sự thay đổi lớn trong thế giới rộng lớn hơn, những sự phát triển này được nhấn
mạnh bởi Rushdie Affair vào cuối những năm 1980, nhu cầu có một trường phái tách
biệt để nghiên cứu các cộng đồng thực tế (cụ thể là nhóm đạo Hồi), sự xung đột về thê’
chất trên đường phố của các thành phố phía bắc (Bradford, Oldham….) giữa những người
châu Á và những người “bản địa” của Rex, sự phát triển của hậu sự kiện 9/11 của trường
phái đạo Hồi (sự khác biệt giữa đạo Hồi và Thiên chúa giáo), làm tăng mối sợ hãi về an
ninh ở nơi công cộng và các nhận định gần đây hơn về Sikhs gây ra trò chơi ở
Birmingham ở giữa thập niên đầu của thế kỷ 21. Nỗi sợ hãi rằng nhiều quan chức trong
nội thành có cả những người Anh Điêng trẻ vào giai đoạn 1970 và 1980, sẽ trở thành một
nỗi sợ hãi phổ biến của lớp trẻ bởi các con quạ đầu xám- sự xuất hiện của sự tàn sát cùng
trang lứa, và họ cũng đưa nỗi sợ hãi xa hơn nữa là bạo lực (cụ thể thông qua chất gây
nghiện) ở bên trong cộng đồng Caribbeans và cả với cộng đồng bản xứ của Rex.
Rex rất thận trọng khi nhận định về sự “rút lui”, sự thành lập những điều không
tưởng là trung tâm của những sự mong đợi của Rex về việc làm thế nào những người
nhập cư trước đây hoà nhập vào xã hội Anh. Rex đã nhìn thấy người châu Á đã triển lãm
những dấu vết về việc làm thế nào họ hòa nhập vào cộng đồng đa số, trong khi người
Caribbeans lại rút ra và trở nên hằn học và thành lập nên cái mà Rex gọi là “văn hoá của

sự hạn chế”. Dấu vết này thể hiện rất mạnh trong trong 3 lĩnh vực cuộc sống của xã hội
Anh: tôn giáo, chính trị và văn hoá đại chúng. Những phát triển theo chiều hướng ngược
lại trong nửa thế kỷ qua (từ những năm 1960) đã chứng minh làm thế nào để các phân
tích xã hội có thể được coi không là gì mà chỉ là sự tái sản xuất không phê phán (đẩy
mạnh cuộc sống) của những định kiến thuộc địa và đế quốc trong qua khứ bắt nguồn từ ý
thức hệ của sự thống trị về chủng tộc và dân tộc và sự bá chủ. Ở khía cạnh cuộc sống của
người Caribbeans ở Anh hơn nửa thế kỷ qua, câu hỏi đặt ra là có phải bất kỳ nhà bình
luận xã hội nào có thể nói một cách nghiêm túc rằng các tổ chức và thực tế xã hội, những
thứ mà khi gặp sự hằn thù và rút lui lại không thương lượng để được tiếp nhận vào dòng
chảy chung của trật tự xã hội.
Xin minh hoạ điều này mà không cần nhiều công sức: sự tồn tại ngôn ngữ bản địa ở
trên đường phố, tác phong và hình thức, ca nhạc, thể thao, các mô hình của Thiên chúa
giáo về thờ phụng và ngôn ngữ chung của đa số dân chúng cũng như là những nhóm
thiểu số khác bị ảnh hưởng và định hướng bởi người Caribbeans. Điều đáng ngưỡng mộ
là điều này xảy ra không có kế hoạch và được hỗ trợ bởi sự nổi trội về văn hóa của người
Mỹ da đen ở Alantic. Tuy nhiên, sẽ khó nếu chúng ta muốn tìm các lý do quan trọng
riêng biệt để lý giải điều này hơn là các sự kiện của Caribbeans- của tất cả các kiến thức
về chủng tộc và dân tộc- sẽ gây ra sự xúc phạm đến hệ tư tưởng về chủng tộc và dân tộc,
nói ngắn gọn là do những giá trị nền tảng nhất của con người từ một vùng như:
• Sự chấp nhận nhau giữa các cá nhân
• Sự chấp nhận về sự bình đẳng của tất cả các nhóm ở nơi mà mọi người tìm thấy
bản sắc riêng
• Khả năng để cho phép mọi người từ cộng đồng khác tiếp cận được với cộng đồng
Caribbeans.
• Sự thiếu vắng một cách rõ rệt về biên giới chủng tộc và dân tộc và lỗ thủng của
các biên giới này
• Thực tế về một chủ nghĩa thực dụng không biên giới
Những giá trị này không phải là trừu tượng- thưc vậy, không thể tìm thấy được một
trình bày bằng ngôn ngữ nói rõ ràng ở bất cứ nơi nào- nhưng nó lại được thể hiện mạnh
mẽ ở trong các dạng hoạt động sống hàng ngày: gia đình và các thành viên của các mối

quan hệ thân tộc, thành viên của các tổ chức cộng đồng, các hội tôn giáo và sự tham gia
vào các đảng phái chính trị, tán thành và xung đột về hệ tư tưởng (không cần thiết phải là
bạo lực về thể chất). Cũng thú vị khi sự lỏng lẻo, sự vắng bóng của phân định rõ ràng các
biên giới, sự từ chối việc kiểm soát khắt khe của trật tự xã hội gia trưởng, tất cả được coi
như là sự thiếu vắng của các giá trị văn hoá và sự yếu kém của văn hóa, và điều này làm
rối thêm và bắt buộc xã hội phải tạo dựng một xã hội đa văn hoá. Bắt nguồn từ một hệ
thống các giá trị như vậy, chẳng có gì là ngạc nhiên khi cho rằng người Caribbeans không
có nhu cầu độc quyền nhằm xây dựng một trật tự xã hội Anh giống trong lịch sử. Như
tôi đã tranh luận ở đâu đó (Goulbourne, 1991a, 1991b), người Caribbeans đã tồn tại trên
một nền tảng vững chắc về giá trị, những giá trị này là đặc trưng cho xã hội hiện đại (ở
Anh và các nước Alantic khác), được xây dựng bởi hệ thống các giá trị chung hoặc là cơ
sở cho việc thành lập một trật tự công bằng hậu thuộc địa ở Anh: các cá nhân được đối xử
như các cá nhân, biên giới giữa các nhóm được chọc thủng, và trên tất cả sự khác biệt
giữa các cá nhân và các nhóm xã hội được tiếp nhận mở hơn và mang tính liên doanh.
Bởi vậy, trong lĩnh vực chính trị cũng như trong tôn giáo, trong nghệ thuật cũng như
trong gia đình, từ tất cả các nhóm ở Anh, người Caribbeans là những người có nhiều khả
năng nhất để tham gia vào xã hội mở. Với vai trò là những người tiên phong trong việc
xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn nơi mà các cá nhân được đối xử như là cá nhân hơn là
thành viên của một cộng đồng hoặc một nhóm, đúng như nhận định của Rex: sự chỉ trích
sẽ làm mất đi giá trị về những gì mà họ có.
Trong khi đó những cá nhân và cộng đồng châu Á và người Caribbeans phải đối mặt
với những sự phân biệt chủng tộc và sự tách biệt xã hội ở Anh, không thể từ chối rằng,
luật pháp áp dụng trong xã hội đa số góp phần làm tăng cường sự biến đổi xã hội trong
các lĩnh vực chính như nhà ở, giáo dục, việc làm … vì thế, những sự khắc nghiệt do phân
biệt chủng tộc phổ biến cho đến những năm 1980, lại xuất hiện mờ nhạt hơn sau đó. Ý
nghĩa hơn là các tồn tại về phân biệt chủng tộc và dân tộc mà Rex và các nhà ủng hộ
đương thời của ông cho rằng nguyên nhân dẫn đến các giai cấp thấp kém lại không được
hiện thực hoá; chắc chắn rằng các thành tố của các cộng đồng thiểu số mới được nắm lấy
trong chy kỳ của sự tước đoạt, điều đó làm cho chúng ta đôi lúc nhớ rằng các giai cấp
thấp kém được mô tả trong các thành phố ở Mỹ, và một vài thủ lĩnh đạo Hồi dựa vào điều

này để biện hộ cho hành động tàn bạo ở Luân Đôn ngày 7/7/2005. Nhưng mà điểm quan
trọng ở đây là có một sự di động xã hội lên mạnh mẽ; trong trường hợp của người
Caribbeans điều đó lại song hành cùng với xu hướng di động xã hội xuống. Nhưng cái đó
có thể do sự tách biệt vì phân biệt chủng tộc cũng như sự thiếu khả năng di động vốn xã
hội của họ để đạt được kết thúc mong muốn. Nói cách khác, bối cảnh này phức tạp hơn
nhiều so với sự đương đầu. Trong sự phức tạp này có nhiều không gian xã hội để thay đổi
theo ý muốn hơn là những gì đã dự đoán.
Bởi vậy, chúng ta có thể hỏi có hay là không các chính sách xã hội hiện hành và các
mối quan tâm khoa học tốt hơn trước kia, và có hay không các câu hỏi nghiên cứu có di
động song song cùng với những sự biến đổi đang xảy ra ở xã hội Anh. Về mặt tiếp cận,
đã có một vài thay đổi. Đầu tiên, không có một cách tiếp cận toàn diện, cần phải lưu ý
đến số lượng của một tập hợp đa dạng các vấn đề (ví dụ như giáo dục, việc làm, nhà ở,
luật pháp và trật tự…) liên quan đến một cộng đồng địa phương đặc biệt và cuộc sống tập
thể mà họ mong đợi. Thay vào đó, cùng với một vài ngoại lệ, như Baumann (1996), có
nhiều miêu tả từng phần về các khía cạnh riêng biệt của đời sống xã hội của các nhóm xã
hội cụ thể bên trong một xã hội lớn. Trong khi có sự lắng xuống ngắn ngủi về mối quan
tâm đến vấn đề hoà nhập, sự thấm dần hoặc là sự đồng hoá, một vài sự kiện lớn- liên
quan đến điểm mấu chốt về cuộc sống của cộng đồng châu Á và đạo Hồi – đã đưa ra sự
thúc đẩy mới các vấn đề như vậy ở cả cộng đồng chính trị và cộng đồng khoa học
(Rushdie sự kiện, bạo động ở các thành phố phía bắc giữa cộng đồng chủ nhà và người
châu Á, sau sự kiện đe doạ an ninh 9/11). Chúng ta có thể chuyển từ bức tranh lớn sang
một chuỗi các bức tranh tách rời về những mối quan hệ giữa chúng, mà từ những sự tách
biệt đó chưa đủ để chúng ta có thể rút ra những kết luận tổng quát về các hướng của xã
hội Anh hậu đế chế. Nhưng mà sự thức tỉnh về tội ác trong việc đánh bom tự sát ở Luân
Đôn vào thứ Năm ngày 7/7, có một xu hướng quá vội vàng chuyển sang quan điểm rằng
công đồng và sự mất mát về công xã được phá bỏ bởi các nhà bình luận chính trị và khoa
học.
Ngôn từ và các khái niệm đã thay đổi: sự sở hữu, tiếp cận với, sự sở hữu vốn xã hội
đuợc thấm vào “mạng lưới”, “sức mạnh về văn hoá”, “thiếu vắng về văn hoá”…Tuy
nhiên, chúng ta không ở trong bối cảnh của nhiều thứ thay đổi thì chúng lại càng giữ lại

như trước, tức là sự thay đổi về ngôn ngữ không ảnh hưởng lớn đến thay đổi về nội dung
chính và các mối quan tâm trong chính sách xã hội và các luận đểm khoa học.

Kết luận
Điều này có vẻ như là một sự làm ngơ khi so sánh các nhóm khác nhau về độ lớn
của nhận thức và sự nhận biết yếu kém về các nhóm. Số liệu giữa hai cuộc điều tra dân số
1991 và 2001 có cách tiếp cận tự phê bình nhiều hơnn khi nghiên cứu về cộng đồng thiểu
số, có ít hơn khả năng để nhìn các cộng đồng này như là những nhóm đã được hình thành
cố định vĩnh viễn. Tuy nhiên, để có được những nghiên cứu xã hội có tính phê bình tốt
hơn nhằm để sử dụng cho sự hiểu biết về các quá trình xã hội và với hy vọng hình thành
hoặc là ảnh hưởng đến chính sách xã hội, chúng ta nhất thiết cần kết hợp một liều lượng
lớn tính toàn diện về tri thức để có thể nhận thức và phân tích về thể giới xung quanh ta.
Làm như vậy không cần thiết phải loại trừ hoặc là hình phạt về cảm giác lo lắng, nhưng
có lẽ chúng ta không thể nào làm tệ hơn sự lưu ý của Banton (2005).về sự cảnh báo hiện
nay cho các nhà phân tích xã hội để phản ánh những sai lầm trong quá khứ. Việc này có
thể làm cho chúng ta tiếp tục suy nghĩ theo cách tách hẳn cái Weber gọi là những vị trí
“mạnh mẽ”.

Lời cám ơn
Tôi rất biết ơn những bình luận của Michael Banton và Ralph Grillo, hai đồng nghiệp đã
giúp tôi hình thành ý tưởng cho bài viết này. Tôi chưa đánh giá đúng về phạm vi các ý
tưởng và các đề nghị của họ, nhưng tôi hy vọng thể hiện sự biết ơn về sự hiểu biết sâu sắc
mà họ chia sẻ với tôi trong các cuộc trò chuyện.

Tài liệu tham khảo
Banton (2005). Finding, and correcting, my mistakes, sociology, 39(3).
Baumann. G (1996). Contesting Culture: Discourse of Identity in Multiethnic London.
Cambridge: Cambridge Univercity Press
Berrington, A. (1996). Marriage patterns and Inter-ethnic unions. In D. Coleman & J. Salt
(Eds), Ethnicity in the 1991 Census: Demographic characteristics of the ethnic

minority population, (Vol.1). London:OPCS
Bryceson, D&, Vuorela, U (Eds). (2002). The transnational family: New European
fronties and global networks. Oxford: Berg
Cross, M,. & Entzinger, H (Eds). (1998). Lost illusions: Caribbean minorities in Britain
and the Netherlands. London: Routledge.
Dench, G. (1975). Maltese in London, London, Routledge & Kengan Paul
Dench, G. (1986). Minorities in the open society: Prisoners of ambrivalence. London:
Routledge & Kengan Paul
Fryer, P (1984). Staying power: The history of Black people in Britain. London: Pruto
Furstenberg, F. (2005). Neighbours and and social capital. Unpublished keynote address,
Wither Social Capital?: International Coference on Social Capital, Families &
Social Capital, ESRC Research Group, London South Bank University.
Girvan, N (1971). Foreign capital and economic underdevelopment in Jamaica.
Kingston: Institute of Social and Economic Research, University of the West Indies.
Goulbourne, H. (1990). The contribution of West Indians Groups to British politics. In H.
Goulbourne (Eds), Black politics in Britain. Aldershot: Avebury.
Goulbourne, H (1991a). Ethnicity and nationalism in post-imperial Britain. Cambridge:
Cambridge: University Press.
Goulbourne, H (1991b). The offence of the West Indian: Political leadership and the
communal option. In M. Anwar & P. Werbner (Eds), Black and ethnic leaderships:
The cultural dimensions of political action. London: Routledge.
Goulbourne, H (1998). Race relations in Britain since 1945. London: Macmillan.
Goulbourne, H (2002). Caribbean trasnational experience. London: Pluto Press.
Goulbourne, H., & Chamberlain, M. (Eds.) (2001). Caribbean families in Britain and the
trans Atlantic world. London: Macmillan.
Jefferson, O. (1972). The post-war economic development of Jamaica. Kingston: Institute
of the West Indies
Jenkins, R (1967). Racial equality in Britain. In A. Lester (Ed.), Essays and speeches by
Roy Jenkins. Lodon: Collins.
Mills, C. W. (1970). The sociological immigration. London: Penguin.

Jenkins, R (1979). Family, kinship and patronage: The Cypriot migration to Britain. In S.
V. Khan (Ed.), Minority families in Britain: Support and stress. London:
Macmillan.
Owen, D. (1996). Size, structure and growth of the ethnic minority populations. In D.
Coleman & J. Salt (Eds.), Ethnicity in the 1991 Census: Demographic
characteristics of the ethnic minority populations, (Vol. 1). Lodon: OPCS.
Parekh, B. (2002). The future of multi-ethnic Britain: The Parekh Report. Lodon: The
Runnymede Trust.
Patteron, S. (1965). Dark strangers: A study of West Indians in Lodon. Harmondsworth:
Penguin.
Plummer, K. (2003). Intimate citizenship and the culture of sexual story telling in,
Weeks, J. Holland, J., and Waites, M. (Eds), Sexuality and Society: A reader,
Cambridge: Polity, chaper 3.
Rex, J. (1970). Race relations in sociological theory. Lodon: Routledge & Kegan Paul.
Rex, J., & Tomlinson, S. (1979). Colonial immigrations in British city: A class analysis.
London: Routledge & Kegan Paul.
Rodney, W. (1981). A history of the Guyanese working people, 1881 – 1905. Lodon:
Heinemann Education Books.
Swann, Lord Michael. (1985). Education for all: Report of the Committee of Inquiry into
the education of children from ethnic monority groups (Cmnd 9453). Lodon:
HMSO).
Tonnies, F (1955). Community and association (C. P. Loomis, Trans.). London:
Routledge & Kegan Paul.
Ward, R., & Jemkins, R. (Eds.). (1984). Ethnic communities on business: Strategies for
economic survival. Cambridge: Cambridge University Press.
Weeks, J., Holland, J., & Wites. M. (Eds.). (2003). Sexualities and society: A reader.
Cambridge: Polity.

×