Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Vấn đề biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong triết học mác lênin và ý nghĩa của nó đối với cuộc sống và việc học tập của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.75 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Họ và tên SV - Mã số SV - Mã nhóm HP

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
VẤN ĐỀ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN
HỆ SẢN XUẤT TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG VÀ VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Ths...

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021

i


MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT...................................................................................................2
1.1. Một số khái niệm cơ bản..................................................................2
1.1.1. Lực lượng sản xuất......................................................................2
1.1.2. Quan hệ sản xuất:........................................................................2
1.2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất:.........................................................3
1.2.1. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và
làm thay đổi quan hệ sản xuất:..............................................................3


1.2.2. Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất:.....................................................4
1.2.3. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất........................................................................................................4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CUỘC SỐNG VÀ QUÁ TRÌNH HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY...........................................................6
2.1. Thực trạng sinh viên hiện nay.........................................................6
2.1.1. Đánh giá chung............................................................................6
2.1.2. Đặc điểm sinh viên Việt Nam hiện nay.......................................6
2.2. Quá trình học tập.............................................................................8
2.2.1. Điểm mạnh..................................................................................8
2.2.2. Mặt hạn chế.................................................................................9
2.2.3. Nguyên nhân.............................................................................11
i


CHƯƠNG III: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN HIỆN NAY...........................................................................12
3.1. Xác định phương pháp tiếp thu trong mối quan hệ phương pháp
dạy học....................................................................................................12
3.2. Tự tìm kiếm và vận dụng phương pháp tự học phù hợp ở từng
sinh viên..................................................................................................13
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................15

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan

trọng trong công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta từ
một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có thu nhập
trung bình thấp và ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới; đời
sống của người dân ngày càng được cải thiện, vị thế và uy tín của đất nước ta
trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đóng góp vào những thành quả
to lớn này của phát triển đất nước là sự đầu tư phát triển đồng đều giữa lực
lượng sản xuất là quan hệ sản xuất của Đảng và nhà nước.
Từ sau thời kỳ đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm tìm tịi, phát triển
nhận thức, tư duy về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành của quan hệ sản
xuất. Đó là một q trình phát triển liên tục về nhận thức thông qua lãnh đạo,
chỉ đạo và tổng kết lý luận - thực tiễn, với nhiều đổi mới quan trọng, mang
tính đột phá, nhất là từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay, từ
đó đề ra những chiến lược, chính sách đúng đắn, đem lại những thành tựu to
lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy chúng e đã lựa chọn chủ đề “ Vấn đề biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong triết học Mác - Lênin và ý
nghĩa của nó đối với cuộc sống và việc học tập của sinh viên hiện nay” để
hiểu rõ hơn về mặt lý luận cũng như những vận dụng đúng đắn của Đảng và
Nhà nước.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội

nhất định, ở một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ
tác động giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con
người và năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải
vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri
thức, phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ.
Trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể và
bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định nhất của xã hội.
1.1.2. Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản xuất và tái sản
xuất xã hội).
Trong quá trình sản xuất, con người khơng chỉ có quan hệ với tự nhiên,
tác động vào giới tự nhiên, mà cịn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau.
Hơn nữa, chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác
động vào tự nhiên và mới có sản xuất.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với con người trên ba mặt chủ yếu sau:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với
con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
2


- Quan hệ trong tổ chức và quản lý là quan hệ giữa con người với con
người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động
cho nhau.
- Quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa con người với con người
trong phân phối và lưu thơng sản phẩm xã hội.
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động
qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trị

quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất
thì giai cấp đó là giai cấp thống trị; giai cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản
xuất và sẽ quyết định tính chất, hình thức phân phối, cũng như quy mơ thu
nhập. Ngược lại, giai cấp, tầng lớp nào khơng có tư liệu sản xuất thì sẽ là giai
cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột vì buộc phải làm th và bị bóc lột dưới
nhiều hình thức khác nhau.
1.2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất:
1.2.1. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách
biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất (quy luật cơ bản nhất của sự vận động,
phát triển xã hội).
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra
đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát
3


triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ
sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó
có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người
lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát
triển hết khả năng của nó.
1.2.2. Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất:

Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
khơng hồn toàn thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định
mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản
xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa
học và cơng nghệ... và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất
lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo
quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong tồn bộ tiến trình lịch sử nhân
loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên
thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa
và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật
xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
4


1.2.3. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Trước hết quan hệ sản xuất là mặt không thể thiếu của phát triển sản
xuất lực lượng sản xuất không thể tồn tại, phát triển ở bên ngồi quan hệ sản
xuất, nó là hình thức tất nhiên của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất có
thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó mở đường

cho lực lượng sản xuất phát triển bằng cách nó sắp xếp các yếu tố của lực
lượng sản xuất đúng vị trí, chức năng của chúng làm cho chúng phát huy
được tính năng, tác dụng của chúng. Nhưng khi quan hệ sản xuất phù hợp
khơng phù hợp với lực lượng sản xuất thì trở thành xiềng xích trói buộc đối
với lực lượng sản xuất làm cho chúng không phát huy tác dụng. Sự không phù
hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất có thể xảy ra theo 2 xu
hướng vượt quá hoặc lạc hậu so với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất xác định mục đích xã hội của nền sản xuất nào, tổ
chức sản xuất được tiến hành vì lợi ích của tập đồn sản xuất nào, tổ chức sản
xuất vì lợi ích nào và phân phối, sản phẩm có lợi cho ai. Như thế có nghĩa là
mọi mặt của quan hệ sản xuất đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến lực
lượng sản xuất trực tiếp.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất là quy luật
chung cơ bản của quá trình lịch sử lồi người nó tác động trong những giai
đoạn lịch sử cơ bản của xã hội là nguyên nhân căn bản của sự hình thành và
phát triển ổn định của những cấu trúc kinh tế xã hội xác định trong lịch sử.
Đồng thời cũng là nguyên nhân của những bước chuyển lịch sử cơ bản từ giai
đoạn lịch sử này sang giai đoạn khác.Từ phát triển sản xuất nguyên thủy sang
phát triển sản xuất chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là phương thức phong kiến rồi
sang phương thức tư bản và cuối cùng là sang phát triển sản xuất cộng sản
chủ nghĩa.
5


Sự tác động của quan hệ này trong lịch sử đã xác định vai trò quy định
của phát triển sản xuất trong sự hình thành và phát triển của những cấu trúc xã
hội nhất định.
Điều kiện tự nhiên và dân số là những yếu tố tất yếu, tác động thường
xuyên đến quá trình sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn nhất định
cho sản xuất và cũng như quá trình tồn tại và phát triển xã hội. Nhưng khơng

phải là nhân tố quyết định.Chỉ có sự phát triển của phương thức sản xuất mới
là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CUỘC SỐNG VÀ QUÁ TRÌNH
HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng sinh viên hiện nay
2.1.1. Đánh giá chung
Trước hết, có thể khẳng định thanh niên sinh viên hiện nay rất năng
động, nhạy bén với cuộc sống và cơng việc, bên cạnh đó họ tiếp thu được
nhiều phẩm chất tốt đẹp: chăm chỉ, kiên chì và nỗ lực. Chúng ta rút ra được
những kết luận ấy khi chứng kiến lớp thanh niên đã đạt đạt được những thành
tựu cùng với sự đổi mới của đất nước. Nếu như trước đây chúng ta chỉ thấy
những sinh viên học hành cần cù luôn cắm đầu vào đọc sách, dù mài kinh sử
để sau khi tốt nghiệp lấy được bằng cử nhân được Nhà nước phân công đi
công tác mà một số người đã quên hết cả xung quanh.
Thanh niên Việt Nam du học ngày càng nhiều ở rất nhiều nước trên thế
giới đã mang về cho đất nước những tiến sĩ trẻ nắm vững kiến thức chuyên
ngành đảm nhiệm phát chuyển những ngành mũi nhọn nhằm đẩy mạnh sự
phát chuyển kinh tế, khoa học, kỹ thuật.
2.1.2. Đặc điểm sinh viên Việt Nam hiện nay
Nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều kiện hiện nay, ngoài những
đặc điểm chung của nhân cách, thì cịn có những biểu hiện riêng về phẩm chất
6


đạo đức và năng lực, như sinh viên hiện nay năng động, sáng tạo và thực tế
hơn. So với các thế hệ sinh viên trước đổi mới, sinh viên hiện nay có tính thực
tế cao. Chọn ngành học là biểu hiện đầu tiên của tính thực tế. Họ tập trung
nhất vào những ngành học mà ra trường có thể xin việc được ngay vì xã hội
đang cần, những nghề có thu nhập cao, chỉ số ít sinh viên chọn nghề theo mơ
ước.

Sinh viên hiện nay rất năng động. Họ năng động trong phương thức
tiếp nhận tri thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính là học tập; năng động
trong quá trình tham gia vào hoạt động xã hội: Làm thêm dưới nhiều hình
thức thời gian (nửa ngày, vài ngày trong một tuần, buổi tối), phong phú về
nghề (làm gia sư, bán hàng, giúp việc nhà...). Một số sinh viên có tham vọng
trở thành những nhà kinh doanh giỏi đã mở cửa hàng kinh doanh thể hiện tính
chủ động, sáng tạo cao trong cơng việc của mình.
Tính sáng tạo của sinh viên được thể hiện ở việc rất nhiều sinh viên
tham gia nghiên cứu khoa học và đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế, quốc
gia, giải thưởng Tài năng trẻ Việt Nam hàng năm do Bộ Giáo dục và Đào tạo
tổ chức...
Sinh viên hiện nay đề cao vai trò cá nhân: Kinh tế thị trường có tác
động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt
Nam hiện nay. Sinh viên ln có ý thức cao việc khẳng định nhân cách bằng
cách trau dồi kiến thức chun mơn, khẳng định vị trí của mình trước xã hội.
Đồng thời, họ thể hiện rõ vai trò cá nhân, lợi ích cá nhân trong hành động. Lợi
ích chung và sự quan tâm, chia sẻ với những người xung quanh dường như bị
lấn át bởi việc thực hiện những lợi ích riêng, nhu cầu cá nhân ở một bộ phận
sinh viên.
Sinh viên xác định rõ phương pháp thực hiện lý tưởng của mình: Lý
tưởng cao cả của sinh viên Việt Nam hiện nay là giữ vững nền độc lập dân tộc
7


và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong đó, đạo đức cộng sản là yếu
tố cấu thành quan trọng nên lý tưởng của sinh viên. Khẳng định điều này vì
đạo đức là thành phần đặc biệt trong nhân cách của sinh viên, cái để phân biệt
sự khác nhau giữa nhân cách này với nhân cách khác xuất phát từ điểm gốc là
"đức" trong mỗi con người.
2.2. Quá trình học tập

2.2.1. Điểm mạnh
Những thành tựu mà sinh viên đã đạt được.
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định thanh niên sinh viên hiện nay rất
năng động, nhạy bén với cuộc sống và cơng việc, bên cạnh đó họ tiếp thu
được nhiều phẩm chất tốt đẹp: chăm chỉ, kiên chì và nỗ lực. Chúng ta rút ra
được những kết luận ấy khi chứng kiến lớp thanh niên đã đạt đạt được những
thành tựu cùng với sự đổi mới của đất nước. Nếu như trước đây chúng ta chỉ
thấy những sinh viên học hành cần cù luôn cắm đầu vào đọc sách, dù mài
kinh sử để sau khi tốt nghiệp lấy được bằng cử nhân được Nhà nước phân
công đi công tác mà một số người đã quên hết cả xung quanh.
Nếu chúng ta cũng chỉ thấy một lớp thanh niên ở nơng thơn chưa đầy
hai mươi đã lập gia đình suốt ngày phơi lưng ra đồng, quần quật vất vả thì giờ
đây chúng ta thấy một giới sơi động đầy màu sắc của thanh niên, sinh viên, họ
chỉ chăm chú học tập mà còn biết vận dụng những kiến thức được học vào
cuộc sống. Tham gia các hoạt động xã hội, xơng sáo và nhạy bén “họ có
nhiều điều kiện để phát chuyển khả năng sáng tạo, do có đầy đủ thông tin,
cuộc sống chắt lược tốt hơn, và chủ động hơn trong việc lựa chọn nghề
nghiệp tốt cả những cái đó làm họ năng động hơn”. Vì thế những huychương
vàng, huy chương bạc quốc tế các mơn văn hố cũng như thể thao đều lọt vào
tay đội tuyển Việt Nam. Chúng ta không thể quên các thế hệ học sinh sinh
viên đạt giải quốc tế các mơn : Tốn, Vật lý, hoá học… mà gần đây nhất là
8


gương mặt đội tuyển toán Việt Nam với năm huy chương bạc, một huy
chương vàng đã làm dạng danh trí tuệ Việt Nam.
Thanh niên Việt Nam du học ngày càng nhiều ở rất nhiều nước trên thế
giới đã mang về cho đất nước những tiến sĩ trẻ nắm vững kiến thức chuyên
ngành đảm nhiệm phát chuyển những ngành mũi nhọn nhằm đẩy mạnh sự
phát chuyển kinh tế, khoa học, kỹ thuật.

Sinh viên Việt Nam năng động và chịu khó
Đối với sinh viên hiện nay, rất nhiều người vừa đi học vừa đi làm là rất
phổ biến, điều đó chứng tỏ thanh niên Việt Nam rất cần cù, chịu khó và đặc
biệt là họ có thể tự lập sinh viên làm việc ở khắp mọi nơi làm đủ mọi nghề
lương thiện giúp họ tự chu cấp tiền học hành và cuộc sống bản thân, nổi bật
nhất là sinh viên từ nông thơn ra thành thị những cơng việc họ làm có thể là
gia sư, tiếp thị… đã chứng tỏ sinh viên ngày nay đã nhận thức “lao động là
vinh quang”. Ngoài ra trước đây thanh niên, sinh viên ra trường được Nhà
nước xếp việc làm thì ngày nay, sinh viên ra trường phải tự tìm việc, điều này
có nhiều thuận lợi vì họ có cơ hội lựa chọn được cơng việc phù hợp, rất nhiều
sinh viên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường đã được nhiều Công ty đến
mời đi làm việc.
Hiện tượng bao hàm bản chất, hiện tượng không thốt thi khỏi bản chất
và do đó tất cả các hiện tượng nêu trên phản ánh bản chất của thanh niên sinh
viên hiện nay là sự kết hợp những phẩm chất truyền thống và những đức tính
hiện đại.
2.2.2. Mặt hạn chế
Sinh viên ta mắc “bệnh” thụ động trong học tập, sinh viên khơng chịu
tìm tịi sách, tài liệu phụ lục cho chun mơn của mình, mặc dù trong phương
pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những
tư liệu đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo.
9


Phần lớn sinh viên Việt Nam thiếu khả năng sáng tạo. Một kết quả
nghiên cứu gần đây về tính sáng tạo của sinh viên ở một trường đại học lớn
của Việt Nam cho biết trong một mẫu điều tra khá lớn gồm hàng ngàn sinh
viên, chỉ có khoảng 20% sinh viên đạt hoặc vượt mức sáng tạo trung bình của
tụ giới. Như vậy có tới 80% sinh viên có tính sáng tạo thấp hơn mức trung
bình. Đây là một thơng tin sét đánh, buộc các nhà giáo dục học phải nghiêm

túc xem lại phương pháp, chương trình, cách tổ chức dạy và học trong các
trường đại học của Việt Nam.
“Lười đọc…” là lời tự thú của nhiều sinh viên thời hiện đại. Khảo sát
ngẫu nhiên một số sinh viên các trường đại học, cao đẳng về việc đọc sách
báo của họ, số đồng đều ngắc ngứ rằng “có đọc” nhưng chỉ đọc một số cuốn
theo phong trào và chỉ xem sách chuyên ngành khi bị thúc bách về mặt bài
vở, có sinh viên sắp ra trường vẫn chưa một lần ghé thăm thư viện. Một số
đơng sinh viên ít đọc có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nhưng
nói chung họ rất thụ động trong việc học. Thụ động bởi sinh viên chỉ đọc
giảng viên yêu cầu thuyết trình một đề tài, viết một bài tiểu luận hoặc khi
được khuyến khích bởi một người khác về một cuốn sách hay nào đó, tức chỉ
khi bị áp chế hoặc được truyền cho niềm tin thì họ mới đổ xơ đi học.
Có quá nhiều sinh viên vừa học, vừa chơi và cũng có quá nhiều sinh
viên quên mọi thứ trên đời để học. Cả hai kiểu học như thế đều mang lại
những kết quả tiêu cực khác nhau. Một bên là sự hụt hẵng về kiến thức,
thường xuyên đối mặt với nguy cơ bị đuổi học còn bên kia lại là sự mệt mỏi,
căng thẳng, những lo âu chồng chất trong những năm học đại học khiến sức
khỏe bị suy sụp, lạc lõng với những diễn biến xung quanh xã hội, lạ lẫm với
những điều đang tác động đến cuộc sống hàng ngày…
Thế nhưng những con số đó muốn nói với chúng ta điều gì? Đó là sản
phẩm của nền giáo dục “khoa cử”. Tại sao có nhiều người có trình độ Đại học
– Cao đẳng phải đi tìm việc như thế: Theo lẽ thường tình người ta hay nghĩ
10


rằng, có học vấn càng cao càng có nhiều cơ hội có việc làm, thế nhưng nay
câu chuyện hồn tồn ngược lại: học vấn càng cao càng phải đi tìm việc
nhiều, càng thất nghiệp. Tại sao vậy.
Có nhiều lý do nhưng có một lý do đó là chất lượng của các lao động
có trình độ đại học chưa đáp ứng được các nhu cầu của nền sản xuất kinh tế

công nghiệp tiên tiến. Hiện nay, bởi họ chỉ là sản phẩm của nền giáo dục
“khoa cử rất mạnh về học để thi nhưng kém về “học để làm” và “học để sáng
tạo”. Do đó mà từ lâu các “sản phẩm” của nền giáo dục đại học của ta đã
thường xuyên bị kêu ca là không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Xét về trình độ thực tế của sinh viên tốt nghiệp thì quả là cịn yếu kém,
một số ngành rất yếu. Về kiến thức, kỹ năng thực hành, tính chủ động sáng
tạo, về khả năng diễn đạt bằng nói hay viết sinh viên ta đều kém, tuy cá biệt
có những người rất xuất sắc, nhưng số này khơng nhiều cũng chẳng có gì lạ,
vì nhiều nơi coi đại học là “học đại”.
2.2.3. Nguyên nhân
Cũng như tình hình phức tạp của thực trạng, nguyên nhân cũng xuất
phát từ nhiều phía.
Nguyên nhân sâu xa và trước hết là SV chưa xây dựng được hình ảnh
về mình với tư cách là một kĩ sư, hoặc thầy giáo với những kiến thức, kĩ năng
cần thiết ở tương lai. Để làm được điều này, có lẽ trước hết SV cần xác định
cho mình một mục tiếu phấn đấu: mình phải là một kĩ sư, hay GV có năng lực
chun mơn ở một cơ quan, trường học, hay một xí nghiệp nào đó trong
tương lai. Muốn vậy ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, mình phải học
tập và trau dồi kiến thức, kĩ năng tốt nhất thông qua nhiều con đường: lên lớp
đầy đủ, tự học, tự nghiên cứu, học nhóm...
Thực tế cho thấy, hầu hết SV chưa biết khái niệm “tự học”. Cụ thể, SV
chưa biết tự học cái gì, làm gì trong thời gian tự học, cũng như chưa biết lợi
11


ích của việc tự học là gì. SV chưa nhận thức được rằng kiến thức của môn học
là vô hạn, mà thời gian trên lớp là hữu hạn. Dù có bao nhiêu thời gian trên lớp
cũng không đủ để GV có thể khai thác hết kiến thức của mơn học; do vậy tự
học là một phương pháp tối ưu để có thể đi tới chân trời khoa học.
Tự học là một phương pháp học tập còn khá mới đối với SV, đặc biệt là

các khoá mới. SV chưa được chuẩn bị một tâm thế, một phương pháp học tập
mới. Quen với cách học truyền thống ở phổ thông - GV cung câp kiến thức,
SV tiếp nhận thụ động, một chiều – SV chưa biết mình phải học gì, làm gì để
đạt được kiến thức, kĩ năng cần thiết .
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
3.1. Xác định phương pháp tiếp thu trong mối quan hệ phương pháp dạy
học
Mục đích: Giúp SV tìm được PP học đạt hiệu quả, đáng chú ý là PP
tiếp thu. Nếu SV xác định PP tiếp thu là cần thiết và chi phối cho tồn bộ PP
học thì SV sẽ tiếp thu nhanh, đầy đủ và chính xác những thông tin truyền đạt
từ giáo viên trên lớp để giới hạn được nội dung học và tạo động cơ học tập
sau giờ học trên lớp, cũng như tạo tiền đề cho việc tự học được dễ dàng.
Nội dung:
-

Cấu trúc của PP dạy học đại học;

-

Các mức độ thu nhận thông tin qua các kênh và lưu trữ thông tin qua

các kênh thu nhận khác nhau;
-

Tập trung, chú ý người học.

Thực hiện:
-


Đối với giảng viên:
12


+ Quan tâm đến sự tập trung, chú ý của SV khi thiết kế bài dạy và
giảng bài trên lớp. Tạo điều kiện cho SV sử dụng càng nhiều giác quan trong
khi tiếp thu bài giảng càng tốt. Hơn nữa, cần tạo cơ hội cho SV tương tác lẫn
nhau và tương tác với giảng viên.
+ Lựa chọn PP và hình thức tổ chức dạy học giúp SV tiếp thu bài tốt
ngay tại lớp, gây được hứng thú và tạo động cơ học tập cho SV.
+ Sử dụng phương tiện dạy học phù hợp với nội dung dạy học và PP
dạy học của môn học hay học phần.
-

Đối với SV:
+ Tự ý thức về việc học ở trên lớp là cách thức tiếp thu bài học nhanh

nhất, đầy đủ nhất, cô đọng nhất và hệ thống nhất và là con đường ngắn nhất
để chiếm lĩnh tri thức.
3.2. Tự tìm kiếm và vận dụng phương pháp tự học phù hợp ở từng sinh
viên
Mục đích: Giúp SV:
-

Ln tích cực, tự giác, tự lực nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về

nghề nghiệp tương lai;
-


Thường xuyên nâng cao chất lượng và kết quả học tập không chỉ khi

đang học ở trường đại học, mà cả đến lúc trở thành người cán bộ khoa học kĩ
thuật có năng lực, có hứng thú, thói quen và có PP tự học suốt đời;
-

Hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên

trì, óc phê phán, bồi dưỡng hứng thú học tập, say mê nghiên cứu khoa học…
Nội dung:
-

Tồn bộ những cơng việc học tập do cá nhân và nhóm tiến hành ngồi

giờ học chính khóa hay SV độc lập đọc sách, ghi nhớ bài, làm thí nghiệm,
thực hành… ngay trong giờ học trên lớp;
13


-

Tự trang bị kĩ năng mềm;

-

Xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học.
Thực hiện:

-


SV tự trang bị kĩ năng mềm cho mình ngay trong giờ học trên lớp như

tham gia tích cực trong thảo luận nhóm, tham gia báo cáo trước lớp; lắng
nghe thầy/cô và bạn bè; giải quyết vấn đề; tư duy sáng tạo; đặt mục tiêu hay
tạo động lực trong học tập; tham gia các câu lạc bộ kĩ năng ở trường…;
-

Mỗi SV tự xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học và thời gian biểu phù

hợp sau khi có kế hoạch dạy học của trường trong mỗi học kì; - SV:
+ Phân tích, tổng hợp và so sánh các nội dung dạy học phức tạp;
+ Thực hiện việc ơn tập, hoạch tốn kiến thức một cách tự giác và
thường xuyên nhằm đánh giá được sự tiến bộ của trí tuệ. Đồng thời tự kiểm
tra, tự đánh giá trình độ của bản thân;
+ Tập trung và tiết kiệm thời gian trong học tập;
+ Tranh luận và trình bày quan điểm của mình trước thầy cơ và bạn bè.

14


PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong bối cảnh lịch sử tình hình kinh tế cũng như chính trị Việt Nam
hiện nay chúng ta có rất nhiều vấn đề cần được quan tâm trong có lẽ vấn đề
nóng bỏng nhất hiện nay khơng chỉ Việt Nam mà cả thế giới quan tâm đó
chính là vấn đề nâng cao hiệu quả quá trình học tập của sinh viên- Những
tương lai đất nước. Qua việc phân tích những nguyên nhân gây ra hiện tượng
học tập không hiệu quả bằng việc vận dụng “Mối quan hệ biện chứng giữa
nguyên nhân và kết quả” phần nào cũng cho ta thấy được góc cạnh của vấn đề
mặc dù phần phân tích ở trên chỉ là rất khái quát. Có thể thấy ảnh hưởng to
lớn của q trình học tập hiện tại với tăng trưởng kinh tế, thực chất vấn đề

đầu tiên cũng là cuối cùng quyết định sống của một nền kinh tế quyết định
mức độ giàu nghèo của xã hội vẫn là con người.
Các giải pháp đề xuất trên đây đều thống nhất và chi phối tác động lẫn
nhau, tạo động lực thúc đẩy SV tích cực, tự lực, tự giác và sáng tạo trong quá
trình học tập khơng chỉ trên lớp mà cịn tạo động cơ học tập đúng đắn trong
việc tự học. Các giải pháp này nhằm tác động đến chủ thể quá trình dạy học,
trong đó các giải pháp dành cho nhà trường và giảng viên chỉ là những yếu tố
khách quan, nhằm tạo nên ngoại động cơ học tập cho SV. Đặc biệt hai giải
pháp dành cho SV thực sự có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao kết quả
học tập cho SV từ chính nỗ lực của bản thân.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) />2) Wikipedia.com
3) />4) Giáo trình Triết học MácLênin – ĐH BKHN
5) Văn kiện đại hội Đảng CSVN
6) Tạp chí nghiên cứu kinh tế thế giới
7) Tạp chí triết học
8) Hồ Chí Minh tuyển tập

16



×