Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Tu lieu một số suy nghĩ về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.67 KB, 52 trang )

MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN, BÁO CHÍ
TRƯỚC YÊU CẦU MỚI
Nếu như khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và hàng đầu,
nhân loại đang bước vào kinh tế tri thức, văn minh trí tuệ… thì tư tưởng, lý luận ngày càng
dễ chuyển hoá thành một phần của lực lượng sản xuất, khi nó thâm nhập vào người lao
động, với tư cách là thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận và những giá trị văn
hố. Hay nói rộng hơn, tư tưởng, lý luận và báo chí có thể trở thành lực lượng vật chất, khi
các mục tiêu và nội dung của nó được chuyển tải và thấm nhuần vào mọi tầng lớp nhân dân,
trở thành nhân tố định hướng nhận thức và hành động của toàn Đảng, tồn qn, tồn dân
ta, có tác dụng tiếp sức cho mỗi người trong học tập, lao động, sáng tạo, niềm tin yêu cuộc
sống và lý tưởng cách mạng…
C.Mác đã chỉ rõ: “Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất,
nhưng lý luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần
chúng” (1). Với ý nghĩa đó, cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng ta có thể và phải
được triển khai một cách hữu hiệu để phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển đất nước
theo con đường đã chọn, nhằm mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam là xây dựng đất
nước “độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, khơng cịn người bóc lột
người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản” (2). Đồng
thời, cũng như văn hoá nói chung, cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí phải làm cho các
mục tiêu và nội dung của mình “thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực
sinh hoạt và quan hệ con người…" (3), nhằm tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và sự
đồng thuận trong nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần
chủ động sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc (4). Khi đó, sự phát triển của lực lượng sản xuất (người lao động, công cụ và
phương tiện lao động) sẽ đồng thời thống nhất biện chứng với sự phát triển của tư tưởng, lý
luận. Nhờ đó, sẽ hạn chế đến mức thấp nhất tính “lạc hậu” và phát huy cao độ tính “vượt
trước” (vốn là những thuộc tính khác nhau của “ý thức xã hội”) trong công tác này. Việc
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chủ quyền và nền văn hoá
Việt Nam sẽ được thực hiện bằng cả lực lượng vật chất và tinh thần.



Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng: một dân tộc tuy khơng lớn, đất khơng rộng,
người khơng đơng, trình độ phát triển xã hội khơng cao… vẫn có thể đánh bại những đế
quốc lớn nhất, hùng mạnh nhất qua các thời đại. Đó là nhờ nhân dân ta có lịng u nước
nồng nàn, tinh thần đồn kết, cần cù lao động, sáng tạo, thông minh, anh dũng; với đường
lối đấu tranh đúng đắn, trong đó biết lấy dân làm gốc, tự lực tự cường, biết kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… Nhưng tại sao dân tộc ta cũng đã từng bị đô hộ, bị nô
dịch, bị dày xéo, bị mất nước? Bởi vì, trong những giai đoạn lịch sử đó, mặc dù dân tộc ta
đã có những giá trị bất biến, là những điều kiện cần cho sự thắng lợi (lòng yêu nước, cần cù
lao động, sáng tạo, thông minh, anh dũng, kiên cường…), song chưa hội tụ được các giá trị
khả biến, là những điều kiện đủ để đảm bảo thắng lợi (đường lối đấu tranh đúng đắn…), nên
dẫn đến thất bại. Sang thế kỷ XX, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là điều kiện
đủ để đưa cách mạng Việt Nam đi “từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đó là khi Đảng ta
đã vận dụng đúng đắn lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào điều
kiện cụ thể của đất nước, thâm nhập vào đông đảo các tầng lớp nhân dân, kết nối sự thống
nhất biện chứng giữa các giá trị bất biến với các giá trị khả biến của dân tộc, tạo thành lực
lượng vật chất để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Một vị tướng trong quân đội
Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam nói rằng, nguyên nhân sâu xa khiến cho máy bay B52 rơi
trên bầu trời Hà Nội và Mỹ thua Việt Nam là do gặp phải “một cơn gió ngang”, đó chính là
văn hố Việt Nam.
Ngày nay, xu thế tồn cầu hố và cuộc cách mạng khoa học – công nghệ vừa tạo ra thời
cơ vừa tạo ra thách thức, đang hằng ngày, hằng giờ, với mức độ ảnh hưởng ngày càng gia
tăng trên mọi lĩnh vực, đang vừa trực tiếp, vừa gián tiếp tác động lên lối sống và cách tư
duy của mọi người, mọi nhà. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của đất nước sau 20 năm
đổi mới, tư tưởng, lý luận và báo chí, với tư cách là một bộ phận hợp thành ý thức xã hội, đã
bộc lộ rõ những hạn chế vốn có của mình, đó là sự “lạc hậu”, đi sau so với tồn tại xã hội, so
với tình hình thực tiễn xã hội của đất nước và thế giới. Vì thế, yêu cầu cấp thiết đối với công
tác tư tưởng, lý luận này hiện nay là: một mặt, phải chủ động và tích cực khắc phục những
điểm cịn hạn chế; mặt khác, phát huy tính tích cực của ý thức - khả năng vượt trước so với
tồn tại xã hội (tính dự báo, định hướng) - để từ đó xác định nhiệm vụ và có giải pháp đúng

đắn nhằm làm cho tư tưởng lý luận có thể trở thành một bộ phận của lực lượng sản xuất, gia


nhập vào lực lượng vật chất trong xã hội, tạo nên một “cú hích”, nhằm phát huy cao độ nhân
tố con người và các nguồn lực để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thế kỷ
XXI.
Trên mặt trận tư tưởng, lý luận và báo chí, các thế lực thù địch đang rêu rao về sự cáo
chung của lịch sử cách mạng thế giới, về sự kết thúc của hệ tư tưởng mác-xít, về thời đại
tồn cầu hố tư bản chủ nghĩa, về một “xã hội mở” toàn cầu theo hình dạng của chủ nghĩa
tư bản… Chúng đang ráo riết thực hiện âm mưu chiến lược “diễn biến hồ bình” và bạo
loạn lật đổ. Các nhà tư tưởng và lãnh đạo phương Tây đang tự lấy mình làm trung tâm, làm
hệ quy chiếu, mà bất cứ quốc gia – dân tộc nào “đi theo con đường của chính mình” cũng sẽ
bị quy chụp là vi phạm, là phản tiến bộ hay phản phát triển, nhằm tìm kiếm cơ hội để can
thiệp. Lợi dụng việc đầu tư, cho vay, viện trợ, giáo dục và đào tạo, chuyển giao công
nghệ…, họ tìm cách làm chệch hướng trong chính sách phát triển nói chung, đồng thời thẩm
thấu những “thơng điệp”, những “giá trị” của văn hoá, văn minh phương Tây (châu Âu làm
trung tâm và Mỹ làm hệ quy chiếu) đến phần còn lại của thế giới qua từng sản phẩm vật
chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể.
Nghị quyết Trung ương 5 (Khố X) về cơng tác tư tưởng lý luận và báo chí trước yêu
cầu mới đã đánh giá sâu sắc những thành tựu và hạn chế trên lĩnh vực công tác này trong
thời gian qua, đồng thời chỉ rõ 6 nhiệm vụ, giải pháp lớn đối với công tác tư tưởng; 8
nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu đối với công tác lý luận; 5 nhiệm vụ và giải pháp trọng
tâm đối với công tác báo chí trong thời gian tới. Những chủ trương ấy cần được triển
khai, thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc và kịp thời.
Để tư tưởng, lý luận chuyển hoá và trở thành một lực lượng vật chất quan trọng phục vụ
cho sự phát triển toàn diện của đất nước, cần:
1. Trong hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cần đặc
biệt chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và xu thế khách quan của thời đại. Chủ
động trong cuộc đấu tranh tư tưởng, cịn có đấu tranh giai cấp thì tất yếu cịn có đấu tranh tư
tưởng.

2. Phát triển báo chí cách mạng gắn liền với việc nâng cao dân trí, phát triển giáo dục và
đào tạo, khoa học và cơng nghệ... Trong đó, đặc biệt chú ý đến việc bồi dưỡng kiến thức về


xu thế khách quan của thời đại (tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học và
công nghệ, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội) cho mọi công dân, trước hết là đội ngũ cán
bộ, đảng viên, đội ngũ những người làm báo và quần chúng cốt cán; thực hiện chế độ giáo
dục miễn phí đến hết bậc trung học phổ thông (kiến thức nền tảng để mỗi cơng dân có thể
tiếp cận và xử lý các vấn đề cơ bản trong cuộc sống), gắn với đổi mới nội dung chương
trình và phương pháp giáo dục; quan tâm phát triển khoa học xã hội – nhân văn tương tự
như quan tâm phát triển khoa học tự nhiên - kỹ thuật.
3. Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí phải được triển khai trên cơ sở phong phú về nội
dung, đa dạng về phương pháp và phù hợp với đối tượng tác động, nhưng về nội dung vẫn
phải bảo đảm 6 tính (tính khoa học, tính cách mạng, tính đảng, tính đại chúng, tính định
hướng, tính dự báo), về mục tiêu nhất thiết phải đạt được 6 dễ (dễ nghe, dễ đọc, dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ liên hệ, dễ phản hồi) và 6 khó (khó phản bác, khó bơi nhọ, khó xun tạc, khó kích
động, khó lợi dụng, khó dao động).
4. Đội ngũ những người làm cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí cần được đào tạo cơ
bản về chun mơn và chính trị, thực sự giỏi, tư duy sắc bén, tâm huyết với công việc và
trung thành (trên cơ sở biết kế thừa và vận dụng sáng tạo) mục tiêu lý tưởng của Đảng, chủ
nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Đầu tư phát triển mạnh những cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu và những cơ sở
trực tiếp phục vụ cho công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng theo hướng: hiện đại
về cơ sở vật chất – trang thiết bị; đủ và có chất lượng cao về nguồn nhân lực, có chính sách
trọng dụng và ưu đãi tương xứng đối với những người làm cơng tác này.
Tóm lại, cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí, một khi đã hiện diện với tư cách là lực
lượng vật chất, tức là khi các mục tiêu và nội dung của công tác này đã thâm nhập vào quần
chúng, vào từng cán bộ, đảng viên và từng người dân, tạo sự thống nhất biện chứng giữa
nhận thức và hành động, lý luận và thực tiễn, mang bản chất khoa học và cách mạng, thì nó
sẽ có tác dụng to lớn, chống lại sự suy thối về tư tưởng, đạo đức và lối sống trong xã hội;

làm thất bại âm ưu phá hoại của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng – văn hoá, đẩy
lùi chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng… Đó sẽ là cơ sở quan trọng để “tạo nên


trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển" (5), xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, đứng ở tầm cao của thời đại./.
 

(1) C.Mác – Ph.Ăng-ghen: Tuyển tập, Nxb Sự thật, 1980, tr.25.
(2) Xem Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006.
(3), (5) Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành
Trung ương khố VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1998.
(4) Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung
ương khố X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2007.


NẮM VỮNG VÀ PHÁT HUY VAI TRỊ CĨ Ý NGHĨA QUYẾT ĐỊNH CỦA
CƠNG TÁC TƯ TƯỞNG - VĂN HĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh

Hơm nay 26-2-2007, tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương đã tổ chức Hội nghị tồn quốc tổng kết cơng tác tư tưởng – văn hóa năm 2006
và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm 2007. Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh đã tới dự và
phát biểu chỉ đạo Hội nghị. Tạp chí Cộng sản xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát
biểu quan trọng này
 Thưa các đồng chí đại biểu,
Thưa tất cả các đồng chí,
Tơi rất vui mừng dự Hội nghị Tư tưởng - Văn hố tồn quốc tổng kết cơng tác năm 2006
và triển khai nhiệm vụ năm 2007. Thay mặt Bộ Chính trị và Ban Bí thư, tơi nhiệt liệt chào
mừng các đồng chí. Nhân dịp đầu Xn Đinh Hợi, tơi thân ái chúc các đồng chí mạnh khỏe,

hạnh phúc và giành nhiều thắng lợi mới.
Thưa các đồng chí,
Tơi đã chăm chú lắng nghe bản Báo cáo do đại diện lãnh đạo Ban Tư tưởng - Văn hố
Trung ương vừa trình bày và ý kiến phát biểu của một số đồng chí; trước đó, tơi cũng đã có
dịp tìm hiểu qua các báo cáo cụ thể về từng lĩnh vực mà các đồng chí đã gửi tới.


Các báo cáo nói trên đã nêu lên một cách khái qt bức tranh tồn cảnh về tình hình
chung của đất nước trong năm 2006 và đặc biệt là tình hình cơng tác tư tưởng - văn hố
trong năm qua, cả những thành tựu, ưu điểm cũng như những thiếu sót và khuyết điểm,
đồng thời đề ra phương hướng và nhiệm vụ của tồn ngành trong năm 2007.
Tơi hoan nghênh tinh thần nhìn thẳng vào sự thật mà các đồng chí đã thể hiện, khơng chỉ
trong việc đánh giá đúng những thành tựu, ưu điểm, mà còn cả trong việc nêu rõ và tự phê
bình nghiêm túc về những thiếu sót, khuyết điểm và hạn chế của ngành trong việc thực hiện
những nhiệm vụ của mình.
Tơi mong rằng, với tinh thần ấy, Hội nghị chúng ta, thông qua thực tiễn sống động của
năm 2006, trong cả nước và từng địa phương, từng lĩnh vực, tiến hành việc tổng kết một
cách sâu sắc, không chỉ lặp lại những kết luận đã có mà cần tìm ra những kết luận mới mang
tính sáng tạo và có sức thuyết phục nhiều hơn để chỉ đạo tốt hơn nữa hành động của chúng
ta trong năm 2007 và những năm tới.
Ở đây, tôi sẽ không nhắc lại những gì mà các đồng chí đã nêu lên khá đầy đủ trong Báo
cáo tổng kết mà chỉ nhấn mạnh một số điểm cần thiết nhất:
Điều trước hết tơi muốn trao đổi với các đồng chí là cần nhận thức cho đúng vị trí và
dấu ấn sâu sắc của năm 2006 trong tiến trình đổi mới của đất nước.
Như tất cả chúng ta đều biết, năm 2006 là năm trên đất nước ta đã diễn ra rất nhiều sự
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa... trọng đại. Nổi bật nhất trong các sự kiện ấy là Đại hội X
của Đảng thành công tốt đẹp, với việc tổng kết toàn diện 20 năm đổi mới và trên cơ sở đó,
đưa ra quyết sách chiến lược phấn đấu sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển
trước năm 2010, tiến tới cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020. Năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội X, cũng là năm đầu tiên

giành thắng lợi toàn diện ngay từ năm đầu của kế hoạch 5 năm mới. Trong năm qua, nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là chính
trị - xã hội ổn định, kinh tế tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu
đều đạt và vượt mức kế hoạch. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Về đối ngoại, Việt
Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới; tổ chức thành


công Hội nghị cấp cao APEC14; được các nước châu Á thống nhất đề cử làm Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, v.v...
Những kết quả đạt được trong năm 2006 đã phát huy mạnh mẽ những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử của 20 năm đổi mới; là phản ánh sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta.
Hơn mười năm qua, kể từ sau Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII
(tháng 01-1994), chúng ta thường xun nói đến thời cơ và nguy cơ, nói đến cơ hội và thách
thức trong q trình phát triển. Nhưng từ đó đến nay, có thể nói chưa có năm nào cơ hội lớn
lại đến với đất nước ta rõ nét như năm 2006 vừa qua. Cơ hội đó có được là do sự hội tụ của
nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài, tạo ra và nhân lên thế mới và lực mới của đất nước.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X vừa qua nhận định rằng:
việc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới đã nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, tạo ra cơ hội lớn để đất nước ta phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn.
Hội nghị Trung ương cũng chỉ rõ: bên cạnh cơ hội lớn đó, chúng ta cũng đứng trước nhiều
thách thức gay gắt, những thách thức do yếu kém vốn có của nền kinh tế do những khuyết
điểm trong lãnh đạo và quản lý cùng với những thách thức mới nảy sinh do quá trình phát
triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Đó khơng chỉ là những thách thức trong lĩnh vực kinh tế
mà còn là những thách thức đối với chế độ chính trị, vai trị lãnh đạo của Đảng và việc giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, việc bảo đảm quốc phịng, an ninh, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững của đất nước.
Đương nhiên, những cơ hội và thách thức đều có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể
chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội khơng tự phát huy tác dụng mà tùy thuộc vào khả năng tận
dụng của chúng ta. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách thức, làm

cho cơ hội càng lớn hơn. Ngược lại, nếu khơng nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ,
thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp,
nhưng tác động đến đâu cũng còn tuỳ thuộc vào nỗ lực và khả năng vượt qua của chúng ta.
Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp đối phó có hiệu quả, vươn lên nhanh trước sức ép của
các thách thức thì khơng những chúng ta sẽ vượt qua được thách thức mà cịn có thể biến
thách thức thành động lực phát triển.


Tôi nghĩ rằng, những người làm công tác tư tưởng của chúng ta, khi đề cập tới thực tiễn
năm 2006, đến cơ hội và thách thức trước mắt, điều quan trọng đầu tiên là phải nắm cho
được và vận dụng cho đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương.
Thưa các đồng chí,
Điều thứ hai tơi muốn nói với các đồng chí là phải nắm vững và phát huy vai trị quan
trọng và có ý nghĩa quyết định của cơng tác tư tưởng trong tình hình mới.
Cơng tác tư tưởng của Đảng (bao gồm cả công tác lý luận và công tác văn hóa) ra đời,
tồn tại và phát triển cùng với quá trình chuẩn bị thành lập, thành lập và hoạt động của Đảng
từ trước cho đến nay, đặc biệt là từ sau khi Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng
Tháng Tám thành cơng, giành được chính quyền toàn quốc, tiến hành hai cuộc kháng chiến
cứu nước và ngày nay là đổi mới, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ, chúng ta phải đồng thời tiến hành cả
ba nhiệm vụ: xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, về tổ chức và cán bộ và về công tác
kiểm tra của Đảng. Trong cả ba nhiệm vụ ấy, công tác tư tưởng của Đảng ln giữ vị trí tiên
phong, tiên phong trong việc góp phần đề ra đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng,
tiên phong trong việc tuyên truyền, phổ biến và đưa nghị quyết, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, tiên phong cả trong việc kiểm tra việc
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách; khơng chỉ là kiểm tra việc thực hiện đúng hay
khơng đúng, mà cịn phải qua thực tiễn mà kiểm tra xem đường lối và chính sách có thật
phù hợp với thực tế khơng, có gì cần phải sửa đổi, bổ sung và phát triển không? Trong điều

kiện Đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo đất nước, công tác tư tưởng của Đảng không chỉ
nhằm đối tượng là cán bộ, đảng viên mà còn nhằm cả các đối tượng đông đảo trong xã hội,
trong tất cả các tầng lớp nhân dân và tồn dân tộc. Cơng tác tư tưởng là cơng tác của tồn
Đảng, của tất cả các cấp ủy Đảng và của từng cán bộ, đảng viên, trong đó, đội ngũ những
người làm cơng tác tư tưởng văn hóa là lực lượng chủ lực.
Chúng ta vẫn thường nói cơng tác tư tưởng phải nắm vững phương châm tích cực và chủ
động, gắn chặt lý luận với thực tiễn, nói đi đơi với làm, xây đi đơi với chống, lấy việc giáo


dục, thuyết phục và nêu gương làm trọng. Theo phương châm đó, trong sự nghiệp đổi mới
đất nước, cơng tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào những thắng lợi chung của toàn
Đảng, toàn dân. Những hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đã góp phần hình
thành đường lối đổi mới tồn diện đất nước, từng bước khẳng định mơ hình chủ nghĩa xã
hội mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng, xác định rõ hơn con đường đi lên của đất nước
trong giai đoạn mới. Nhiều vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam được nghiên cứu và
tổng kết. Giáo dục lý luận được đẩy mạnh hơn, góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ
lý luận chính trị chung cho cán bộ, đảng viên, củng cố, tăng cường sự thống nhất về nhận
thức trong Đảng và trong xã hội. Việc tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, cùng những điển hình tiên tiến xuất hiện ngày càng nhiều
trong đời sống xã hội đã được quan tâm, góp phần tạo nên nhiều phong trào quần chúng
rộng lớn. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản có nhiều nét đổi mới, phong phú
và đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp
nhân dân.
Trong năm 2006, cơng tác tư tưởng đã có bước phát triển và tiến bộ mới, góp phần tích
cực vào thành công của Đại hội X của Đảng và việc triển khai thắng lợi nghị quyết của Đại
hội như đã nói ở phần trên.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi hoan nghênh và trân trọng biểu dương những nỗ
lực và đóng góp quan trọng của đội ngũ những người làm cơng tác tư tưởng - văn hóa.
Tuy nhiên, như ý kiến phát biểu của các đồng chí, chúng ta chưa thể hài lòng với những
kết quả đã đạt được. Trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề do

cuộc sống đặt ra chưa có câu trả lời đầy đủ, kịp thời và có sức thuyết phục. Chất lượng giáo
dục lý luận chính trị, đạo đức, phong cách, lối sống trong Đảng và trong nhân dân chưa cao.
Hiệu quả cơng tác tun truyền cịn thấp. Hoạt động văn hóa, văn nghệ chưa đáp ứng được
yêu cầu của đời sống xã hội đang thay đổi rất nhanh, chưa có những tác phẩm văn học
tương xứng với thành quả và lịch sử vĩ đại của dân tộc. Công tác quản lý và chỉ đạo hoạt
động báo chí, xuất bản cịn lúng túng, hữu khuynh. Những hạn chế đó đã làm giảm vai trị
và tác dụng của cơng tác tư tưởng đến đời sống xã hội và sự thống nhất tư tưởng trong toàn
Đảng, toàn dân.


Tơi đồng tình với cách đặt câu hỏi của các đồng chí là: tại sao trong những năm qua
nước ta kinh tế phát triển nhanh, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt và
không ngừng tăng lên; thế và lực của đất nước ngày càng mạnh; uy tín, vị thế của đất nước
trên thế giới ngày càng cao, nhưng trong tư tưởng xã hội vẫn cịn nhiều băn khoăn, lo lắng;
tâm trạng xã hội có mặt còn nặng nề; những bức xúc xã hội chưa được giải toả...? Thực
trạng đó khơng hồn tồn do những yếu kém của công tác tư tưởng tạo ra, nhưng cơng tác
tư tưởng cũng có một phần trách nhiệm khơng nhỏ, cần sớm tìm được câu trả lời bằng hành
động thiết thực và cụ thể.
Thưa các đồng chí,
Điều thứ ba tơi muốn nói với các đồng chí là những nhiệm vụ mà công tác tư tưởng phải
nắm lấy trong năm 2007 này.
Năm 2007 là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng và là năm bầu cử
Quốc hội khoá XII, cũng là năm chúng ta đẩy tới một bước rất quan trọng công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, sắp xếp lại bộ máy và cán bộ của các cơ quan đảng và của hệ thống
chính trị nói chung. Cơng tác tư tưởng của Đảng đương nhiên phải phục vụ đắc lực cho
những nhiệm vụ chung đó.
Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư và các chỉ thị, nghị quyết khác
của Trung ương có liên quan đến những nhiệm vụ trọng yếu mà toàn Đảng, toàn dân ta phải
thực hiện trong năm 2007 này, tơi tán thành và hoan nghênh các chương trình công tác lớn
và mục tiêu đột phá "Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động" mà Ban Tư

tưởng - Văn hóa Trung ương đã xác định và triển khai tại hội nghị này.
Trước hết, những người làm công tác tư tưởng cần làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân
ta nhận thức sâu sắc rằng, đất nước ta đang đứng trước những vận hội mới vô cùng to lớn,
đồng thời cũng phải đối mặt với những thách thức rất gay gắt, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc
của toàn Đảng và toàn dân ta để vượt qua. Hơn lúc nào hết, cần phải có sự thống nhất cao
về tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, phát huy sức mạnh của
toàn dân tộc, khơi dậy mọi nội lực của đất nước đồng thời tranh thủ cao độ hiệu quả của hội
nhập kinh tế quốc tế để tạo ra sự phát triển nhanh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển và đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào


năm 2020. Những thành tựu to lớn đạt được sau 20 năm đổi mới; những bài học kinh
nghiệm, đặc biệt là bài học đổi mới phải dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, vì
lợi ích của nhân dân là những nguồn lực vô tận để đưa đất nước tiến lên.
Hai là, sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng cần một tầm cao trí tuệ mới, một
tinh thần chủ động, sáng tạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng.
Những vấn đề mới của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... cần được nghiên cứu, giải quyết từ thực tiễn, từ cơ
sở của quá trình đổi mới ở nước ta, đồng thời có sự tham khảo kinh nghiệm của các nước.
Những người làm công tác tư tưởng - văn hóa phải đi tiên phong trong việc nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn; phải gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân, phát hiện, nuôi
dưỡng và nhân rộng các nhân tố mới, sáng kiến hay, cách làm giỏi, đúc kết, khái quát thành
lý luận, góp phần phát triển và hoàn thiện đường lối đổi mới, đồng thời phải tuyên truyền,
phổ biến sâu rộng những tư tưởng, lý luận đổi mới trong tồn Đảng, tồn dân, từ đó tạo ra
sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển đất nước.
Ba là, cần phát huy mạnh mẽ vai trò của văn hóa, nền tảng tinh thần và động lực lớn của
dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội X nhấn mạnh phải
thực hiện đồng bộ cả ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội. Cơng tác tư tưởng - văn hóa của

Đảng phải phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện lời dạy của Bác Hồ, "văn hóa cũng là một mặt trận.
Anh chị em trí thức, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy".
Bốn là, trong năm 2007 và những năm tiếp theo, ngành Tư tưởng - văn hóa phải đóng
vai trị chủ lực trong việc triển khai có kết quả thiết thực cuộc vận động "học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Phải tuyên truyền, giáo dục, vận động gắn với kiểm
tra, đơn đốc, đấu tranh phê bình để xây dựng cho được đạo đức cách mạng trong Đảng,
trong xã hội theo gương sáng Bác Hồ, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục tệ tham nhũng, lãng
phí, quan liêu và mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Toàn ngành Tư tưởng - văn hóa và
mỗi cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức trong ngành cần phải xác định cho mình lập
trường tư tưởng vững vàng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của


dân tộc, gương mẫu trong công tác và trong đời sống hàng ngày, theo nguyên tắc mà Bác
Hồ đã dạy "Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước". Cần phát huy truyền thống
của ngành, năng động, sáng tạo trong điều kiện mới, tích cực đổi mới nội dung và phương
pháp tiến hành cơng tác tư tưởng; nói và viết sao cho chân thực, sinh động, có sức lay động
và cảm hóa lịng người; mỗi câu chữ phải được chắt lọc từ trí tuệ, từ tấm lòng thiết tha với
dân, với Đảng.
Năm là, phải xây dựng hệ thống cơ quan làm công tác tư tưởng - văn hóa mạnh, thống
nhất trong tồn Đảng, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ nặng nề trong giai đoạn mới.
Chúng ta đang phấn đấu xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân; tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế... Những điều kiện mới đó đặt yêu cầu
phải tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, nhà nước và nói chung
tồn bộ các cơ quan trong hệ thống chính trị, với mục tiêu bảo đảm tốt hơn vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý xã hội của Nhà nước theo pháp luật, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân và tạo thuận lợi trong mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Hội nghị Trung ương 4
khoá X đã bàn và thông qua Nghị quyết về đổi mới, sắp xếp lại các cơ quan Đảng, cơ quan

Nhà nước, trong đó có việc hợp nhất Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và Ban Khoa
giáo Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương. Đây là một chủ trương lớn của Đảng
và khi thực hiện sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực tuyên giáo và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong lĩnh vực này. Trong năm 2007, Ban Tư
tưởng - Văn hóa Trung ương nói riêng và tồn ngành tun giáo nói chung cần có kế hoạch
thật chu đáo, khoa học, bảo đảm đúng nguyên tắc và khẩn trương tổ chức lại bộ máy, sắp
xếp đội ngũ cán bộ theo Nghị quyết của Trung ương. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
sẽ nghiên cứu để có các chủ trương thích hợp, nhằm củng cố, kiện toàn một cách hợp lý
nhất hệ thống các cơ quan tuyên giáo từ Trung ương đến cơ sở để phát huy tốt nhất vai trò
của ngành và để củng cố vững chắc trận địa tư tưởng - văn hóa trong tình hình mới. Nhưng
trước hết các đồng chí cần chủ động thực hiện tốt chức năng tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra, tác chiến trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, nhất là trên lĩnh vực nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn, chỉ đạo hoạt động giáo dục lý luận trong hệ thống chính trị và giáo dục


quốc dân; chỉ đạo báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ; nắm bắt và xử lý kịp thời các tình
huống phức tạp nảy sinh trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa...
Sáu là, phải nâng cao hơn nữa tinh thần chiến đấu trong công tác tư tưởng, uốn nắn
những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ
những luận điệu xuyên tạc, thù địch, kiên quyết làm thất bại âm mưu diễn biến hồ bình
trong lĩnh vực tư tưởng.
Thưa các đồng chí,
Đất nước ta đang bước vào một mùa xuân mới, mùa xuân của lý tưởng cao cả vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của
nhân dân. Sứ mệnh vinh quang và nặng nề đang đặt trên vai Đảng ta, trong đó có những
người làm cơng tác tư tưởng - văn hóa.
Với thế mới và lực mới, chúng ta có niềm tin và hy vọng rằng đất nước ta trong năm
2007 sẽ tiếp tục đạt được những thắng lợi to lớn hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực, vững vàng
đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên tầm cao mới.
Xin chúc ngành Tư tưởng - văn hóa đạt được những thành tích ngày càng quan trọng

trong năm 2007, xứng đáng với niềm tin cậy của Đảng, Nhà nước và của nhân dân.
Chúc Hội nghị các đồng chí thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn.




MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG GĨP PHẦN ỔN
ĐỊNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở TÂY NGUYÊN
Trương Minh Tuấn
Trong những năm qua, việc xuất hiện những “điểm nóng” ở các tỉnh Tây Nguyên đã bộc
lộ những yếu kém, hạn chế của hệ thống chính trị các cấp trong quá trình tổ chức thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng,  chính sách của Nhà nước trên các mặt của đời sống xã
hội. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn nuôi tham vọng và dã tâm phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta, mà mũi đột phá là địa bàn Tây Nguyên. Chúng đã lợi dụng
những khó khăn, sơ hở và yếu kém của chúng ta trong cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
quản lý kinh tế - xã hội để tuyên truyền kích động, gây chia rẽ đồn kết dân tộc, móc nối
trong ngồi thúc ép, dụ dỗ, lừa gạt một bộ phận đồng bào tham gia các vụ biểu tình, bạo
loạn, vượt biên trái phép hịng gây mất ổn định chính trị - xã hội ở Tây Nguyên.
Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra là phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở Tây Nguyên một trong những địa bàn có vị trí chiến lược hết sức quan trọng của đất nước, góp phần bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Đây là điều kiện
tiên quyết để phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng; phát huy tiềm năng, thế mạnh, huy động
tốt các nguồn lực để phát triển Tây Nguyên thành vùng kinh tế trọng điểm trong tương lai.
Để làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của kẻ địch, chúng ta phải đặc biệt chú trọng và tiếp
tục làm thật tốt công tác tư tưởng trong hệ thống chính trị và tuyên truyền vận động quần
chúng, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và đồng bào các dân tộc nhận thức sâu sắc và đề cao
cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, của bọn phản động Fulro; kiên
quyết phản bác luận điệu kích động địi ly khai, tự trị, kích động chia rẽ dân tộc... làm cho
tư tưởng của đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên đồng thuận, tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng và thực hiện tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác tư tưởng phải coi buôn,

bon, thôn là địa bàn rất quan trọng trong hoạt động của mình; thực hiện tốt phương châm:
“Tất cả đều phải từ buôn, bon, làng và tất cả đều phải đến buôn, bon, làng”; phải quán triệt
đặc điểm của các yếu tố biên giới, dân tộc và tôn giáo; nội dung, hình thức tuyên truyền
phải hết sức cụ thể, linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng, từng vấn đề. Phải chú trọng đối
thoại trong công tác tư tưởng, thực hiện dân chủ trong đối thoại “nghe đồng bào nói và nói


cho đồng bào nghe”; gắn công tác tư tưởng với việc phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, trước mắt là xố đói, giảm nghèo, giải quyết đất sản
xuất, đất ở, củng cố các tổ hợp tác sản xuất, hợp tác xã..., nhằm giúp đồng bào có chỗ dựa
để tổ chức sản xuất có hiệu quả.
Để góp phần giữ vững sự ổn định về tình hình an ninh chính trị, tư tưởng, phát triển kinh
tế - xã hội trong thời gian tới, công tác tư tưởng ở Tây Nguyên cần chú ý tập trung vào
những giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền và tồn xã hội về vai trị của
cơng tác tư tưởng hiện nay.
Đây là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở
Tây Nguyên hiện nay. Trước thực trạng khơng ít cấp uỷ ở Tây Ngun nhận thức phiến diện
về vai trị, vị trí của cơng tác tư tưởng, coi công tác tư tưởng “chỉ là giới thiệu nghị quyết,
nói chuyện thời sự, tuyên truyền nhân các ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn...”, từ đó khơng thấy rõ
vai trị to lớn và tầm quan trọng của cơng tác tư tưởng.
Do đó, trước hết cần tạo ra sự chuyển biến nhận thức một cách sâu sắc về vị trí, vai trị
của cơng tác tư tưởng đối với việc ổn định chính trị - xã hội nói chung và trên địa bàn Tây
Nguyên nói riêng. Nhận thức đó phải được thấu triệt từ trong các cấp uỷ và chính quyền các
cấp. Phải làm cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp thấy rõ công tác tư tưởng thực sự là mặt
trận hàng đầu, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng hiện nay cũng hết sức quyết liệt và
nóng bỏng. Công tác tư tưởng không chỉ đi trước, mà phải đi cùng và đi sau mỗi một sự
kiện; đồng thời phải trở thành yếu tố tham gia vào các quá trình, các lĩnh vực kinh tế - xã
hội, an ninh, quốc phịng... Tất cả các chương trình, các dự án đầu tư vào Tây Nguyên phải
thấm nhuần giải pháp tư tưởng là giải pháp hàng đầu và xuyên suốt.

Để công tác tư tưởng thực sự là công tác của tồn Đảng, trước hết bí thư cấp uỷ phải trực
tiếp làm cơng tác tư tưởng, các cấp uỷ, chính quyền ở Tây Nguyên cần có nhận thức đúng
đắn và sự chỉ đạo sâu sát về lĩnh vực tư tưởng và công tác tư tưởng. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng, cần được chăm lo nhằm xây dựng một đội ngũ làm cơng tác tư tưởng các cấp có cơ
cấu hợp lý, đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, vững vàng về quan điểm, có trình độ
hiểu biết tồn diện, có kiến thức về thực tiễn, có khả năng nói, viết tốt, biết tổ chức về hoạt


động tư tưởng và xử lý nhanh, nhạy các tình huống đặt ra trong cơng tác tư tưởng ở những
hồn cảnh, điều kiện cụ thể, làm tốt công tác tham mưu trên lĩnh vực tư tưởng cho các cấp
uỷ.
Các ngành, các cấp, các đoàn thể từ trung ương đến địa phương cùng phối hợp và cùng
làm tốt công tác tư tưởng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và vùng đồng bào dân
tộc thiểu số  tại chỗ ở Tây Nguyên nói riêng với phương châm “hướng về cơ sở, sát với cơ
sở”. Các tỉnh Tây Nguyên nơi có số lượng đơng đồng bào dân tộc thiểu số  sinh sống cần
tích cực tập trung vào việc củng cố, kiện tồn, nâng cao vai trị hoạt động của hệ thống
chính trị ở cơ sở. Ban Tuyên giáo các cấp cần đề xuất lãnh đạo cùng cấp các tỉnh Tây
Nguyên và trực tiếp chăm lo cơ sở chính trị ở các xã có các biểu hiện về “vấn đề dân tộc”
liên quan đến vấn đề tôn giáo. Đẩy mạnh công tác truyên truyền giáo dục đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước, thường xuyên tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, đặc biệt là chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số; củng cố và thắt chặt tình
đồn kết giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng dân cư, trong nội bộ từng dân tộc ở Tây
Nguyên. Thông qua việc tổ chức giao ban, đi công tác cơ sở, cử cán bộ về giúp cơ sở, sử
dụng đội ngũ cán bộ giáo dục, y tế, khuyến nơng, khuyến lâm… để nắm chắc tình hình tư
tưởng của dân, giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của dân, khơng để các
lực lượng thù địch lơi kéo nhân dân mưu toan kích động ly khai, “bài Kinh”, địi tự trị hoặc
gây nên tình hình bất ổn định về trật tự, an toàn xã hội, can thiệp vào công việc nội bộ của
nước ta.
Hai là, công tác tư tưởng phải thực sự thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần, kết hợp giải quyết tốt các vấn đề dân tộc và tôn giáo cho đồng

bào các dân tộc.
Cơng tác tư tưởng phải tập trung góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện có hiệu
quả các chủ trương, chính sách và nghị quyết về phát triển vùng Tây Nguyên, các chủ
trương, nghị quyết của các cấp uỷ các tỉnh Tây Nguyên; hướng dẫn cách sản xuất, cách làm
ăn, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở Tây
Nguyên.


Phát triển kinh tế vùng Tây Nguyên phải thường xuyên gắn với việc giải quyết các vấn
đề xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Kết hợp giải quyết hài hồ các loại lợi ích, tạo sự
đồng thuận trên địa bàn, trong xã hội; tạo sự phấn khởi, phát huy truyền thống của Tây
Nguyên bất khuất, anh hùng.
Công tác tư tưởng phải trực tiếp tham gia phát triển sản xuất và tổ chức đời sống cho
nhân dân vùng dân tộc thiểu số : tham gia xây dựng các chương trình cụ thể về phát triển
sản xuất từ cơ sở, tổ chức hướng dẫn cách làm ăn, trồng trọt, chăn nuôi, ứng dụng các tiến
bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất... Hướng dẫn chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số . Tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho
vùng núi, nhất là hệ thống giao thông, thuỷ lợi, hệ thống thông tin, liên lạc ở cơ sở; sử dụng
có hiệu quả, phù hợp các nguồn vốn đầu tư cho các đơn vị cơ sở và cho người dân; tham gia
chương trình phân bổ lại lao động, giải quyết việc làm, thực hiện thật sự có hiệu quả các
chương trình xố đói, giảm nghèo; các chương trình từ thiện, nhân đạo khác... Để bảo đảm
cho người dân thực sự là chủ các chương trình, dự án này, trong quá trình triển khai thực
hiện, Nhà nước và các doanh nghiệp chỉ nên nhận thầu những phần, những công đoạn đòi
hỏi yêu cầu kỹ thuật cao, huy động vốn lớn.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về công tác tư tưởng.
Cùng với việc nhận thức đúng vai trị, vị trí và tầm quan trọng của cơng tác tư tưởng đối
với việc ổn định chính trị - xã hội ở Tây Nguyên, các cấp uỷ cần tăng cường sự lãnh đạo đối
với công tác tư tưởng và lĩnh vực tư tưởng. Cần tăng cường lực lượng cho các cơ quan trong
khối tư tưởng (Ban Tuyên giáo, Sở Văn hố – Thơng tin, các cơ quan đài, báo, hệ thống
trường chính trị, Trung tâm Thơng tin cơng tác tư tưởng các cấp). Đặc biệt với cơ quan

chuyên trách làm công tác tư tưởng của cấp uỷ (Ban Tuyên giáo), trong tình hình hiện nay,
nên thành lập Ban Tun giáo cấp cơ sở.
Cần có mơ hình thống nhất về tổ chức cơ quan làm công tác tư tưởng thống nhất từ trung
ương đến cơ sở, có vận dụng đặc thù cho địa bàn vùng sâu, vùng tôn giáo ở Tây Nguyên.
Biên chế của Ban Tuyên giáo các tỉnh Tây Nguyên, các huyện vùng sâu, vùng xa cần có số
lượng tương xứng.



×