Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Tieu luan phan tu chon 2 hcm, cơ sở hình thành tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo và sự vận dụng của đảng và nhà nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.47 KB, 43 trang )

Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

LỜI MỞ ĐẦU
Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội, cũng là một thực thể xã
hội luôn biến động cùng với sự biến thiên của lịch sử nhân loại. Vì vậy,
khơng phải mọi vấn đề có liên quan đến tơn giáo đều được mọi người
nhận thức đúng đắn ngày từ đầu. Trong lịch sử đã có một số người sai
lầm khi nhận thức và ứng xử với tôn giáo, điều này đã từng bị
Ph.Ăngghen và V.I. Lênin phê phán gay gắt những khuynh hướng “tả”
với tôn giáo. Nhận thức là cả một quá trình tiếp diễn khơng ngừng và
cần được kiểm chứng của thực tế, những sai sót trong nhận thức và va
vấp trong thực tiễn trên con đường đi đến chân lý là điều khó tránh.
Trên chặng đường cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã trải qua 11 kỳ
Đại hội, trong đó có 6 kỳ đại hội nằm trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Đây là dịp để nhìn lại quá trình nhận thức, tư duy lý luận của Đảng trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực tôn giáo.
Tôn giáo không chỉ là vấn đề tinh thần, tâm linh mà cịn có quan
hệ đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, như: chính trị, đạo
đức, văn hóa... và vai trị của nó khác nhau qua từng thời kỳ lịch sử. Vả
lại mỗi tôn giáo lại có lịch sử hình thành và du nhập, đặc điểm giáo lý
và tổ chức... với những đặc trưng riêng. Cho nên việc nhìn nhận, đánh
giá tơn giáo phải có quan điểm tồn diện và lịch sử cụ thể khi nhận
thức và ứng xử với nó. Điểm qua nhận thức của Đảng ta qua những
giai đoạn lịch sử rút ra bài học, nhằm tiếp tục đổi mới tư duy trên lĩnh
vực tơn giáo trong tình hình hiện nay là rất cần thiết.
Một vấn đề có tính ngun tắc là muốn nhận thức và giải quyết
tốt vấn đề tôn giáo phải nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin,
1


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng



tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Nếu không thấm nhuần sâu sắc
quan điểm khoa học về tơn giáo thì khó tránh khỏi nhận thức sai sót
với những biểu hiện ấu trĩ “tả” khuynh hoặc “hữu” khuynh trong việc
hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách đối với tơn giáo. Tuy
nhiên, cũng khơng thể vận dụng một cách máy móc, giáo điều phi lịch
sử. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nhận thức đối với tơn giáo
của Đảng ta nhìn chung là đúng đắn, nhwg do điều kiện khách quan và
lý do chủ quan khiến cho một bộ phận cán bộ, đảng viên có lúc, co nơi
cịn chưa nhận thức đúng đắn và đẩy đủ về tôn giáo. Một số cán bộ,
đảng viên trong những giai đoạn lịch sử nhất định, cịn có biểu hiện
chủ quan, duy ý chí, nơn nóng, đơn giản trong nhận thức cũng như khi
thực hiện chính sách tơn giáo. Chính điều đó đã ảnh hưởng xấu đến
khối đại đồn kết dân tộc, gây khó khăn cho việc thực hiện sự nghiệp
cách mạng chung của dân tộc.
Xuất phát từ những điều đó, tơi chọn vấn đề “Cơ sở hình thành
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và sự vận dụng của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay” làm tiểu luận hết học phần X.

2


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

NỘI DUNG
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
TƠN GIÁO
1. Một số khái niệm cơ bản
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tơn giáo là một hình thái
ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách

quan. Qua hình thức phản ánh của tơn giáo, những sức mạnh tự phát
trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Trong tác phẩm Chống
Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự
phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực
lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản
ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế”1. C. mác và Ph.Ăngghen cịn cho rằng, tơng giáo
là một hiện tượng xã hội, văn hóa, lịch sử; một lực lượng xã hội trần
thế.
Giữa tín ngưỡng và tơn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ
chặt chẽ mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn tôn giáo. Ở đây chúng ta
chỉ có thể đề cập một dạng tín ngưỡng - đó là tín ngưỡng tơn giáo (gọi
tắt là tơn giáo).

3


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một
hiện tượng, một lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một điều gì đó pha
chút thần bí, hư ảo, vơ hình tác động mạnh đến tâm linh con người,
trong đó bao hàm của niềm tin tơn giáo. Cịn tơn giáo thường được
hiểu là một hiện tượng xã hội bao gồm có ý thức tôn giáo lấy niềm tin
tôn giáo làm cơ sở, hành vi và các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tơn
giáo - nghĩa là, tơn giáo thường có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ
chức giáo hội.
Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ
lâu và vẫn tồn tại ở thời đại chúng ta. Trên thực tế, mê tín dị đoan

thường xen vào các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo. Việc xác
định hiện tượng mê tín dị đoan chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả
tiêu cực của nó. Mê tín dị đoan là niềm tin cuồng vọng của con người
vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội với những hành vi
cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản văn hóa của một số người gọi
chung là cuồng tín. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn chặt và
thường lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo để hành
nghề. Vì vậy, cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo của nhân dân thì chúng ta phải loại bỏ dần mê tín dị
đoan nhằm làm lành mạnh hóa đời sống tinh thần xã hội.
Tơn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện
lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất,
tơn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con
người trước tự nhiên và xã hội.

4


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

Theo C. Mác: “Sự nghèo nàn của Tôn giáo vừa là biểu hiện của
sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện
thức ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim
của thế giới khơng có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của
những trật tự khơng có tinh thần. Tơn giáo là thuốc phiện của nhân
dân”2.

2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam
Sinh ra và lớn lên trên một đất nước đa tôn giáo: bên cạnh hệ

thống tín ngưỡng dân gian đa dạng, ở Việt Nam cịn có các tơn giáo
khu vực (Nho giáo, Đạo giáo), các tôn giáo thế giới (Phật giáo, Công
giáo), Hồ Chí Minh có được những tri thức q báu về các tín ngưỡng,
tơn giáo đó.
Với tín ngưỡng dân gian của người Việt, Hồ Chí Minh cho rằng
“Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội”3. Người
khẳng định đó là đạo tổ tiên khơng theo nghĩa hẹp mà theo nghĩa rộng.
Người viết: “Người già trong gia đình và người già trong làng thực
hiện những nghi lễ tưởng niệm”. Những nhận định chính xác và tinh tế
trên của Hồ Chí Minh cho chúng ta thấy, Người rất am hiểu về những
tín ngưỡng cổ truyền của người Việt. Từ đó, Người ln căn dặn cán
bộ phải chú ý đến những tục lệ của dân trong quá trình vận động xây
dựng cuộc sống mới, ví dụ Người nói: “tránh phạm đến phong tục tập
5


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

qn, tín ngưỡng của dân” và nêu “tìm hiểu phong tục tập quán nghiêm
túc chấp hành điều kiêng”4.
Với Nho giáo, Nho giáo du nhập vào Việt Nam gắn liền với quá
trình xâm lược của các triều đại phong kiến Phương Bắc. Sau khi du
nhập vào nước ta, Nho giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần
của con người và xã hội Việt Nam.
Có thể nói rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chịu khá nhiều ảnh hưởng
của Nho giáo. Những ảnh hưởng của Nho giáo đối với Hồ Chí Minh
được bắt nguồn từ người Cha - cụ Nguyễn Sinh Sắc. Cụ chính là người
thầy chủ yếu dạy chữ Hán cho Người. Cụ Nguyễn Sinh Sắc theo
nghiệp Nho học nhưng khơng phải mục đích ra làm quan hưởng phú
quý cao sang. Khi đã đỗ Phó bảng, cụ có ra làm quan cho triều đình

Huế (sau khi đã từ chối nhiều lần) nhưng cũng chính trong cuộc sống
quan trường cụ đã chua xót nhận xét: “Quan trường thị nô lệ trung chi
nô lệ, hựu nô lệ” (quan trường là nô lệ trong đám quan trường nô lệ, lại
càng nô lệ hơn). Những tư tưởng tiến bộ, nhân cách cao thượng của
người cha để lại những ấn tượng rất đậm nét trong tâm hồn người cao
hiếu thảo Nguyễn Sinh Cung - Hồ Chí Minh.
Sau này, qua các bài viết, bài nói, Người đã bộc lộ sự hiểu biết sâu
sắc về Nho giáo, về Khổng Tử và đặc biệt là vận dụng các kiến thức
Nho học vào cuộc đấu tranh cách mạng và trong cuộc sống đời thường.
Mặc dù thuộc hệ tư tưởng phong kiến, nhưng Nho giáo cũng chứa
đựng những yếu tố tích cực như: triết học hành động, tư tưởng nhập
thế, hành đạo, giúp đời, đó là một xã hội bình trị, một “thế giới đại
đồng”; triết lý nhân sinh tu thân dưỡng tính, chủ trương từ thiên tử đến
6


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc; đề cao văn hóa, nhân văn,
tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy
không biết mỏi”, đạo đức “trung, hiếu”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư”... Đây là những yếu tố được Hồ Chí Minh tiếp thu một
cách có chọn lọc và đưa vào những nội dung mới.
Hồ Chí Minh đánh giá cao nhân cách đạo đức của Khổng Tử.
Người viết: “Khổng Tử là vị đứng đầu các nhà hiền triết và tặng những
danh hiệu tôn vinh cho những người kế nghiệp Ông... Đạo đức của
Ông, học vấn của Ông và những kiến thức của Ông làm cho nhiều
người cùng thời và hậu thế phải cảm phục”. Nói về học thuyết của
Khổng Tử, Hồ Chí Minh nhận xét: Học thuyết của Ơng có ưu điểm của
nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, đề cao các đức tính: nhân, lễ, nghĩa,

trí, tín, trung của con người cần phải có.
Trong tư tưởng của Mạnh Tử, ơng đề cao vai trò của quần chúng
nhân dân: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (nghĩa là: Trong
một quốc gia, lợi ích của dân là trước hết, sau đó đến lợi ích của nước
nhà, lợi ích của vua khơng đáng kể), hoặc tư tưởng “Dân là tất thảy,
vua không là gì cả”. Đặc biệt Ơng nhấn mạnh phương châm tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức của mỗi người: “Khắc kỷ, phục lễ, vi nhân” (nghĩa là
nghiêm khắc với bản thân minh thực hiện giáo để hoàn thiện nhân
cách). Đồng thời, Mạnh Tử còn vạch ra một kế hoạch chi tiết để tổ
chức sản xuất và tiêu thụ. Sự bảo vệ và phát triển lành mạnh của trẻ
em, sự giáo dục và lao động cưỡng bức đối với người lớn, sự lên án
nghiêm khắc thói ăn bám, thủ tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ, hạnh
phúc không phải cho số đông mà cho tất cả mọi người... đó là những tư
7


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

tưởng mang đậm tính nhân văn được Hồ Chí Minh coi trọng và đánh
giá cao.
Những khái niệm cơ bản của Nho giáo như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín,
cần, kiệm, liêm, chính, trung, hiếu... đều được Hồ Chí Minh tiếp thu,
vận dụng, nhưng điều quan trọng là Hồ Chí Minh khơng hề tiếp thu
một cách máy móc, giáo điều mà Hồ Chí Minh đã đưa vào những nội
dung mới, nâng cao, trên nền khái niệm cũ để phù hợp với cuộc sống
mới, thời đại mới, ví dụ như: Nho giáo từ Đổng Trọng Thư định tiêu
chuẩn cho người quân tử - mẫu người của chế độ phong kiến - là nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín. Hồ Chí Minh cho rằng, người đảng viên, người cán
bộ muốn trở nên người cách mạng chân chính thì cần phải có năm đức
tính là nhân, nghĩa, lễ, trí, dũng, liêm và ở những khái niệm này đã

chứa đựng những nội dung mới so với Nho giáo. Khái niệm trung, hiếu
của Hồ Chí Minh khác hẳn khái niệm trung, hiếu của Nho giáo.
Người giải thích: “Ngày xưa trung là trung với Vua. Hiếu là hiếu
với cha mẹ mình thơi. Ngày nay nước ta là Dân chủ Cộng hòa... Cũng
như trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân, ta thương
cha mẹ ta, mà còn phải thương cha mẹ người, phải làm cho mọi người
phải biết thương cha mẹ”5.
Hồ Chí Minh am hiểu Nho giáo đến mức có thể chỉ ra những mặt
hạn chế của Nho giáo, bằng sự nhận xét tinh tế, chính xác cho rằng, tư
tưởng đạo Khổng Tử “chỉ thích hợp với một xã hội bình n khơng bao
giời thay đổi”, “Đạo đức của ơng hồn hảo, nhưng nó khơng thể dung
hợp được với các trào lưu tư tưởng hiện đại” và “ông không phải là

8


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

người cách mạng mà cịn là vì ơng tiến hành một cuộc tun truyền
mạnh mẽ có lợi cho họ”6, (giai cấp phong kiến thống trị)”.
Từ những giá trị tốt đẹp cũng như hạn chế của Nho giáo, Hồ Chí
Minh rút ra bài học: “Những người An Nam chúng ta hãy thự hồn
thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng
Tử và về mặt cách mạng thì đọc các tác phẩm của Lênin”7.
Với Đạo giáo, Người cũng thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của mình
thơng qua lối sống và lối sử dụng ngôn ngữ của Đạo giáo một cách tự
nhiên. Mọi người có dịp tiếp xúc với Hồ Chí Minh đều nhận thấy
phảng phất nét ung dung tự tại, nét thanh thản, nếp sống hiền hịa thanh
đạm của Hồ Chí Minh, nhẵng đặc điểm này rất gần với tư tưởng của
Lão Tử - đại biểu xuất sắc của Đạo giáo - là gạt bỏ cái quá mức, gạt bỏ

cái xa hoa, gạt bỏ cái hào nhoáng. Trong chuyến đi Pháp, đi thăm nơi
kỷ niệm Napơlêơng, Hồ Chí Minh cho rằng, trong đời có nhiều người
vì khơng trí túc mà thất bại! Nếu Napơlêơng biết gạt bỏ tham muốn
q mức thì chắc nước Pháp khơng đến nỗi vì chiến tranh mà chết
người hại của. Tư tưởng tri túc có trong Lão giáo8.
Như vậy một cách gián tiếp chúng ta có thể nhận thấy Hồ Chí
Minh tiếp thu và vận dụng một số tư tưởng triết học của Đạo giáo như:
tư tưởng sống chan hịa với tự nhiên, khơng màng danh lợi, tri túc, gạt
bỏ cái thái quá... Và điều quan trọng là vận dụng những tư tưởng này,
tiếp thu cái đúng đắn đã được thực tiễn kiểm nghiệm để góp phần xây
dựng nhân cách, lối sống của người dân yêu nước, người cách mạng.
Với Phật giáo, Phật giáo là một tôn giáo lớn được du nhập vào
Việt Nam từ đầu Công nguyên. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật
9


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

giáo đã từng đóng vai trò quan trọng đối với các triều đại phong kiến
nước ta, góp phần ổn định xã hội, tạo nên sự phong phú trong đời sống
tinh thần của con người Việt Nam, nhất là lòng nhân ái, bao dung và độ
lượng.
Những ảnh hưởng của Phật giáo đến Hồ Chí Minh có từ rất sớm
và cũng bắt đầu từ tấm gương của người cha - cụ Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc9. Lịng u nước, thương dân và triết lý từ bi của Đạo Phật
thơng qua tính chất, nhân cách của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc chắc
chắn có ảnh hưởng nhất định đến Hồ Chí Minh - người con yêu quý
nhất của cụ.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng tích cực, tiến bộ của Phật
giáo: “đại từ, đại bi”, “cứu khổ cứu nạn”, “vô ngã, vị tha”, “triết lý

nhân sinh”, hướng con người đến cái thiện, thương người như thể
thương thân, một tình u bao la khơng chỉ đối với con người mà đối
với mn lồi trong tự nhiên; nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị,
chăm lo làm điều thiện; đề cao việc nhân nghĩa; tinh thần bình đẳng,
chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp; coi trọng lãnh đạo, chống lười
biếng. Đặc biệt, Phật giáo chủ trương lo xa đời mà gắn bó với nhân
dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của
nhân dân, đề cao cái “thiện”, chống lại cái “tà”, chống sự bất cơng...
Chính những yếu tố tích cực của Phật giáo đã được quần chúng
nhân dân lao động đón nhận làm phong phú và sâu sắc thêm nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá đúng đắn
và nhận thức rõ vai trò tác động to lớn của Phật giáo trong đời sống
tinh thần của nhân dân lao động, Hồ Chí Minh tiếp thu một cách có
10


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

chọn lọc những giá trị tích cực, tiến bộ trong kinh Phật hướng vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, trước hết là người lao
động. Từ đó, Người chủ động định hướng đúng cho quần chúng nhân
dân lao động làm theo “lòng đại từ, đại bi của Đức Phật Thích Ca,
kháng chiến để đưa giống nịi ra khỏi khổ ải, nơ lệ”. Bởi theo Hồ Chí
Minh “nước có độc lập, thì đạo Phật mới dễ mở mang”.
Trong những bài viết của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần mượn
khái niệm của nhà Phật. Trong bài Sẻ cơm nhường áo Hồ Chí Minh
viết: “Tơi chắc rằng đồng bào ai cũng sẵn lòng cứu khổ, cứu nạn, mà
hăng hái hưởng ứng lời đề nghị nói trên”10. Khi tun bố với quốc
dân, Hồ Chí Minh nói: “Khơng được báo thù báo ốn. Đối với những
kẻ đi lầm đường lạc lối, đồng bào ta cần phải dùng chính sách khoan

hồng. Lấy lời khơn lẽ phải mà bày cho họ”11.
Với Công giáo:
Thiên Chúa giáo du nhập nước ta giữa khoảng thế kỷ XVI, song
phải đến đầu thế kỷ XVII mới triển khai hoạt động một cách có tổ
chức. Thiên Chúa giáo vào Việt Nam trong thời kỳ xã hội Việt Nam
đang khủng hoảng trầm trọng, giai cấp phong kiến đang suy tàn, tư
tưởng Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo đang trên đà suy thoái, kinh tế sa
sút, đời sống nhân dân khổ cực, tạo nên môi trường cho các nhà truyền
giáo. Tuy nhiên, Thiên Chúa giáo du nhập vào Việt Nam cũng gặp
khơng ít những trở ngại, mâu thuẫn giữa các nhà truyền giáo Bồ Đào
Nha và Pháp, sự ngăn cản của chính quyền phong kiến đương thời và
sự phản ứng quyết liệt về sự khác nhau giữa văn hóa phương Đơng và
phương Tây. Chỉ đến thời kỳ (từ 1884 đến 1945), Giáo hội Công giáo,
11


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

được sự giúp đỡ của chính quyền thực dân Pháp đã có sự phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng tín đồ cũng như cơ sở vật chất và hệ thống tổ
chức. Tuy nhiên, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, đa số giáo sĩ và giáo dân đi theo kháng chiến đóng góp
sức người và sức của cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
Hồ Chí Minh am hiểu và đã nhìn nhận Cơng giáo như một di sản
văn hóa nhân loại. Người đã nhìn thấy cái tinh túy nhất của giáo lý
Cơng giáo, nhấn mạnh mục đích cao cả của Cơng giáo là giải phóng
con người, vì hạnh phúc của con người. Người ln có cách nhìn nhận
khách quan và thái độ kính trọng khi nói về chúa Giêsu: “Gần hai mươi
thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời Người chỉ lo cứu thế
độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng”12, và “Đức Thiên chúa đã giáng

sinh để cứu vớt nhân loại. Đức Thiên chúa là một tấm gương hy sinh
triệt để vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hịa
bình, vì cơng lý”13, “suốt đời Ngài chỉ hy sinh, phấn đấu cho tự do,
cho dân chủ”14.
Hồ Chí Minh rất am hiểu và tìm thấy cái tinh túy nhất trong giáo
lý của Thiên Chúa giáo là mục mục cao cả nhằm giải phóng chúng
sinh, vì hạnh phúc của con người. Trong “Mười điều răn của Thiên
Chúa” và “Sáu điều răn của Giáo hội” đều hướng con người đến cái
thiện, tự hồn thiện nhân cách và giàu lịng bác ái với con người. Ví
dụ, khơng lấy danh Thiên Chúa để làm những điều phàm tục, tầm
thường; thảo kính cha mẹ; không được dâm dục; không được giết
người; không được gian thâm lấy của người khác; không được làm
chứng đối, che dấu sự gian dối; không được ham muốn vợ hoặc chồng
12


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

của người khác; khơng được ham muốn của cải trái lễ... Đó là những
lời khuyên dạy của Chúa, thể hiện “lòng nhân ái cao cả”. Chính từ
những lời khuyên răn ấy đã giúp Hồ Chí Minh tìm thấy được nét tương
đồng giữa mục đích của Chúa với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đều
hướng tới một xã hội tốt đẹp và vì con người. Đây là cơ sở để Người
chủ trương thực hiện đoàn kết giữa đồng bào Thiên Chúa giáo và đồng
bào không theo Thiên Chúa giáo, đoàn kết giữa Thiên Chúa giáo với
các tôn giáo khác. Đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của tôn
giáo để giáo dục, vận động đồng bào và linh mục Thiên Chúa giáo đi
theo cách mạng.
Tuy vậy, khi nói về Cơng giáo Việt Nam, Người cũng không quên
nhắc việc các thế lực đế quốc đã lợi dụng tơn giáo này phục vụ cho

mục đích chính trị của chúng. Bằng những dẫn chứng cụ thể, Người đã
minh chứng cho thế giới biết: Pháp lợi dụng Công giáo trong việc xâm
lược và trong quá trình áp bức nhân dân Việt Nam như thế nào?.
Cuối cùng, bằng những hiểu biết của mình, Hồ Chí Minh chỉ ra
rằng: “Người dân An Nam... khơng có tơn giáo, theo cách nghĩ của
người châu Âu”15.
1.2. Thực tiễn và kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo trong
cách mạng của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và
Trung Quốc
Từ năm 1923 Nguyễn Ái Quốc đã đến Liên Xô, nhà nước xã hội
chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Chính sách đối với tôn giáo của Lênin,
của Nhà nước Xôviết chắc chắn là những thông tin, những bài học

13


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

quan trọng đối với nhà cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh của Việt Nam.
Luận điểm có tính chất cương lĩnh đầu tiên của Đảng Bơnsêvích
Nga về tơn giáo được Lênin nêu ra trong tác phẩm nổi tiếng Chủ nghĩa
xã hội và tơn giáo (1905) như sau: “Nhà nước khơng được dính đến tơn
giáo, các đồn thể tơn giáo khơng được dính đến chính quyền nhà
nước. Bất kỳ ai cũng được tự do theo tơn giáo mình thích, hoặc khơng
thừa nhận một tôn giáo nào, nghĩa là làm được người vô thần. Mọi sự
phân biệt quyền lợi giữa những cơng dân có tính ngưỡng tơn giáo khác
nhau đều hồn tồn khơng thể dung thứ được... Nhà nước không được
chi bất cứ một khoản phụ cấp nào cho quốc giáo, cũng như cho các
đồn thể giáo hội và các đồn thể tơn giáo, những đồn thể này phải là

những hội của những cơng dân cùng theo một tơn giáo, những hội hồn
tồn tự do và độc lập với chính quyền”16.
Sau cách mạng Tháng Mười, tháng 2/1918, chính quyền Xơviết
thơng qua Sắc lệnh về việc tách giáo hội khỏi nhà nước, tác nhà thờ
khỏi trường học. Sắc lệnh này do chính Lênin ký. Sắc lệnh cịn quy
định vị trí bình đẳng giữa các tổ chức tôn giáo, đồng thời đảm bảo
những điều kiện cần thiết cho hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Khi
ban bố tự do tín ngưỡng, Sắc lệnh trên cũng nhấn mạnh việc tự do tiến
hành các nghi lễ tôn giáo không được vi phạm đến trật tự công cộng và
quyền công dân. Như vậy, sắc lệnh đầu tiên đã khẳng định tính cách
nhà nước thế tục thực sự của chính quyền Xơviết.
Hiến pháp đầu tiên của nước Nga Xơviết được thông qua tháng
7/1918 bao gồm tất cả các nguyên tắc có trong Sắc lệnh đồng thời đã
14


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

đưa những điểm mới vào trong nguyên tắc tự do tín ngưỡng. Trong khi
tạo ra tính cách thế tục của nhà nước, vẫn đảm bảo quyền tự do vô
thần, quy định quyền cư trú cho người nước ngồi bị khủng bố vì quan
điểm chính trị và tơn giáo...
Năm 1919, Đảng Cộng sản Nga (Bơnsêvích), tại Đại hội VIII đã
đưa vào Cương lĩnh (điểm thứ 13) nội dung cụ thể là: “Đảng mong
muốn hồn tồn xóa bỏ mối dây liên hệ giai cấp bóc lột và tổ chức
tuyên truyền tôn giáo để tác động đến sự giải phóng thực sự quần
chúng lao động khỏi thành kiến tôn giáo và tổ chức công tác tuyên
truyền khoa học bài trừ mê tín và chống tơn giáo rộng rãi nhất. Đồng
thời, cần phải tránh bất cứ sự xúc phạm nào đến tính chất tơn giáo của
người theo đạo17.

Năm 1936, Hiến pháp của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Xôviết do Xtalin đứng đầu Ban soạn thảo được Xôviết tối cao thông
qua. Một quan niệm mới liên quan đến tôn giáo được ghi trong Điều
124 như sau: “Để đảm bảo cho cơng dân có quyền tự do tín ngưỡng,
nhà thờ ở Liên Xô tách khỏi nhà nước và nhà trường tách khỏi nhà thờ.
Công nhận quyền tự do theo các tôn giáo và quyền tự di tuyên truyền
chống tôn giáo cho mọi cơng dân”18.
Có thể nói quan điểm tơn giáo, chính sách tơn giáo của Liên Xơ
những thập niên sau Cách mạng Tháng Mười là tiến bộ và đã đạt được
thành tựu to lớn là bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng thực sự ở
Liên Xơ. Tuy vậy, ngay những năm đầu sau cách mạng ở một số địa
phương của Liên Xô mắc sai lầm tả khuynh, nơn nóng muốn xóa bỏ
ngay tơn giáo, nếu Hiến pháp Liên Xô năm 1918 khẳng định quyền tự
15


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

do tun truyền vơ thần thì Hiến pháp 1936 cịn khẳng định một cách
mạnh mẽ hơn là quyền tự do tuyên truyền chống tôn giáo.
Hồ Chí Minh cũng có nhiều năm sống và hoạt động cách mạng ở
Trung Quốc, đặc biệt Người rất am hiểu văn hóa và ngơn ngữ Trung
Quốc - tập thơ nổi tiếng Nhật ký trong tù viết bằng chữ Hán là một
minh chứng. Thời gian người sống ở Trung Quốc là thời kỳ ở đó đang
tiến hành cuộc cách mạng dân chủ, những quan điểm về tôn giáo của
Đảng Cộng sản Trung Quốc về cơ bản là theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Ngay từ năm 1927 (thời gian 1926-1927 Nguyễn Ái
Quốc đang ở Trung Quốc) Mao Trạch Đông trong Báo cáo khảo sát
phong trào nông dân Hồ Nam có một đoạn văn thể hiện rõ quan điểm
về tơn giáo của người đứng đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Bụt là

do nông dân dựng lên, đến một thời kỳ nào đó, nơng dân sẽ dùng cả hai
tay của họ mà vứt bỏ những ông Bụt này, chẳng cần người khác làm
thay một cách quá sớm việc vứt bỏ ông Bụt”19.
Năm 1949, trước khi cách mạng thành công Giáo hội Cơng giáo
và Tin lành Trung Quốc có sự khác biệt: một số người hết lòng phục
vụ chủ nghĩa đế quốc và giai cấp cầm quyền phản động, trong khi đó
một số người khác ủng hộ sự đối lập của Giáo hội Trung Quốc, phản
đối sự nơ dịch về chính trị và văn hóa của các thế lực đế quốc. Sau khi
cách mạng thành cơng, nước Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa được
thành lập năm 1949, phong trào Tam tự của Công giáo và Tin lành ở
Trung Quốc thực sự ra đời. Phong trào này phản ánh chính sách độc
lập và tự quản của hoạt động tôn giáo (Tam tự là tự quản, tự dưỡng và
tự truyền). Có thể nói chính sách độc lập và tự quản của hoạt động tôn
16


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

giáo là một kinh nghiệm đặc sắc của Trung Quốc. Sau này trong cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến sự độc lập của tơn
giáo nói chung và của Giáo hội Cơng giáo Việt Nam nói riêng.
Chính sách về tơn giáo của các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu
là Liên Xô mặc dù vẫn theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
trên thực tế đã đạt được những thành tựu khơng thể phủ nhận, đó là vẫn
đảm bảo được quyền tự do tín ngưỡng trong chế độ xã hội chủ nghĩa,
khơng có xung đột tơn giáo... Nhưng cũng phải nhận thấy một thực tế
là các Đảng Cộng sản cầm quyền còn bị ảnh hưởng của tư tưởng tả
khuynh về tôn giáo ở những mức độ khác nhau. Điển hình là quan
điểm tự do tơn giáo đi liền với tự do tuyên truyền vô thần chống tôn
giáo. Quan điểm này dễ dàng dẫn đến thái độ tả khuynh trong bộ máy

chính quyền khi giải quyết vấn đề tơn giáo.
1.3. Thái độ của Vatican đối với chủ nghĩa xã hội
Về bối cảnh quốc tế những thập niên đầu thế kỷ XX cần phải nói
đến quan điểm của Giáo hội Cơng giáo. Thông qua các thông điệp xã
hội đều trực tiếp biện hộ và bênh vực chế độ tư hữu, coi quyền tư hữu
chính đáng là quyền của tạo hóa... quyền tư hữu là quyền tự nhiên chứ
không chỉ là quyền nhân tạo... quyền ấy khơng một chính phủ nào bãi
bỏ được. Đặc biệt là Thông điệp Divini Redemptoris (1937) bác bỏ chủ
nghĩa cộng sản vơ thần, do Giáo hồng Piơ XI đưa ra với lời lẽ vu
khống chủ nghĩa xã hội: “Gây sự giai cấp tương tranh kịch liệt, bài trừ
một quyền sở hữu. Nó quyết đấu tranh cho đến khi đạt được chiến
thắng. Khơng có việc gì nó khơng giám làm. Khơng có sự gì nó kính

17


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

trọng. Chỗ nào nó đã chiếm lấy chính quyền, nó tỏ mình là dã man và
vô nhân đạo đến cực độ”20.
Trước thái độ của Vatican như vậy, cũng một phần cắt nghĩa cho
thái độ thiên về tả khuynh của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng như các
Đảng Cộng sản cầm quyền sau năm 1945.
3. Cơ sở lý luận
3.1. Kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp từ gia đình, từ
lịch sử dân tộc và của những nhà cách mạng tiền bối
Trước hết, là những ảnh hưởng từ những người thân yêu nhất
trong gia đình. Tấm gương về đạo đức, khí tiết của người cha - Cụ
Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng trực tiếp đến người con Nguyễn Sinh
Cung - Hồ Chí Minh sau này. Là người theo nghiệp Nho học những Cụ

khơng lấy đó làm con đường để ra làm quan, hưởng cuộc sống giàu
sang phú quý. Sau khi đỗ Phó Bảng, Cụ đã có thời gian làm quan cho
triều đình Huế. Từ cuộc sống quan trường, với tính cách khí khái và
với những tư tưởng tiến bộ đã đưa Cụ đi đến đối kháng với chế độ
đương thời. Hận xét chua xót sau của Cụ đã nói lên bản chất của chế
độ động đương thời: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hữu nô lệ”
(quan trường là nô lệ trong đám người nô lệ, lại càng nô lệ hơn).
Tư tưởng tiến bộ, nhân cách cao thượng của người cha kết hợp với
tình mẫu từ, tấm gương sáng ngời về nhân cách đạo đức, về lịng hy
sinh tận tụy qn mình vì chồng vì con của người mẹ - Bà Hồng Thị
Loan đã giúp định hình trong Hồ Chí Minh từ rất sớm những tư tưởng
về bình đẳng, tự do và khoan dung.
18


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

Trên cấp độ gia đình, Bác Hồ đã biết kế thừa những giá trị tốt đẹp
từ truyền thống của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là truyền
thống đồn kết, tương thân tương ái của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Từ truyền thống tốt đẹp đó, Người đã rút ra bài học: “Sử ta đã
dạy cho ta bài học này:
Lúc nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập,
tự do.
Trái lại, lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm
lấn”21.
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh các phong trào cách mạng nhằm
xây dựng một xã hội mới đang sôi nổi, như các phong trào cách mạng
của Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh..., Hồ Chí
Minh đã biết kế thừa và phát triển những tư tưởng về tôn giáo của các

nhà cách mạng tiền bối đó. Hồ Chí Minh đã phê phán con đường cứu
nước của Phan Bội Châu nhưng khơng có nghĩa là Người không nhận
thấy những yếu tố tiến bộ trong một số quan điểm của cụ, trong đó có
những quan điểm về tơn giáo, tín ngưỡng, cũng như của các sĩ phu Duy
Tân yêu nước nước đầu thế kỷ XX như Phan Chu Trinh và các sĩ phu
Đông Kinh Nghĩa Thục.
Phan Bội Châu nhận xét về tình hình tơn giáo, tín ngưỡng ở nước
ta đầu thế kỷ XX: “Người Việt Nam mọi việc đều cầu ở thần, phần lễ
thờ thần thật là trọng hậu, thật là cẩn thận. Nhưng trọng lắm thì đắm
đuối nhiều, cẩn thận quá thì mê hoặc khơng sâu... Thậm chí có khi đến
cả những khối đá quái gở, gốc cây cổ thụ, rừng hoang mả vắng cũng

19


Tiểu luận phần tự chọn 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, tín ngưỡng

liệt vào hạng thần cứu thế, được dân tôn sùng, lạy lục, ngày ngày cầu ở
thần, bước bước trông vào thần22.
Từ nhận xét này Phan Bội Châu đã phê phán khá sắc sảo niềm tin
mù quáng vào trời mà quên mất trách nhiệm và sức mạnh của con
người: “Mệnh hệ của dân tộc Việt Nam xưa nay đều bị khống chế ở
trời, ở thần. Đã bị khống chế ở trời, ở thần thì tất phải có lịng trơng
mong. Trơng mong mà được như nguyện thì chả nói làm gì, nhưng đến
khi hy vọng đã cùng rồi, do đó mà sinh ra phỉ báng, ốn trách, trời đất
tội gì quỷ thần tội gì, bỏ cái trách nhiệm của người sống mà đi cầu ở
nơi mù mù mịt mịt, sao mà sai lầm đến thế”.
Cụ Phan Bội Châu và các sĩ phu tân học đầu thế kỷ XX không chỉ
nhấn mạnh vào ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo, tín ngưỡng đối với sự
thức tỉnh của dân tộc trong phong trào chống Pháp mà còn vạch trần

âm mưu của thực dân Pháp hịng lợi dụng tơn giáo để thống trị dân ta.
Trong tác phẩm Thiên hồ! Đế hồ! Phan Bội Châu vạch rõ: “Chính phủ
Pháp nhận thấy dùng vũ lực chinh phục không phải là thượng sách nên
mới mượn tôn giáo, thờ đi tượng Giêxucrit và cây thánh giá làm trị rồi,
để ngầm thi hành chính sách tiêu diệt nịi giống người ta. Đó là màu
nhiệm nhất của nước Pháp chinh phục Việt Nam lại được nhà tơn giáo
giúp cho thành cơng”23.
Phan Bội Châu cịn chỉ ra: “Nay người Pháp bảo vệ ta, các chùa
chiền ở hương thôn đều phát tiền bạc cho để sử sang lại cả. Chúng làm
như thế rất khôn khéo và hiểu độc”24. Phan Bội Châu quan niệm:
“Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, cứu nhân dân, ghét kẻ thù, các ngươi đã
là thần rồi, cần gì phải cầu thần ở ngồi đến”25.
20



×