Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.04 KB, 31 trang )

KẾT HỢP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GẮN VỚI CỦNG CỐ QUỐC
PHÒNG - AN NINH
MỞ ĐẦU
Phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với củng cố quốc phòng - an ninh vừa là
chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa là giải pháp để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Qua mỗi thời kỳ nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ
sung, phát triển phù hợp với yêu cầu mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011) đã xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an
ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”.


* Mục đích, yêu cầu:
- Giới thiệu để học viên nắm vững tính tất yếu khách quan, nội dung cơ bản và
những giải pháp của việc kết hợp kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh ở nước ta hiện nay.
- Trên cơ sở đó vận dụng vào thực tiễn cơng tác, tích cực góp phần vào tăng
cường củng cố quốc phịng - an ninh ở địa phương, cơ sở, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
* Nội dung:
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI GẮN VỚI CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG - AN NINH
1. Cơ sở lý luận.
2. Cơ sở thực tiễn.
3. Thực trạng và những vấn đề đặt ra.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GẮN
VỚI CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG – AN NINH
1. Khái niệm.
2. Mục tiêu, yêu cầu.
3. Chủ trương, quan điểm của Đảng.
4. Nội dung phương thức.


5. Một số giải pháp tổ chức thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng
cố quốc phòng - an ninh.
Kết luận
* Thời gian: 08 tiết (Giới thiệu 5 tiết, thảo luận ở tổ 3 tiết).
* Phương pháp: Thuyết trình, nêu vấn đề nghiên cứu.
* Tài liệu:
- Chuyên đề chính – Bồi dưỡng kiến thức quốc phịng - an ninh (Đối tượng 2b
– Dùng cho khối địa phương).
- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, nhà xuất bản chính trị quốc
gia, năm 2011.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX),
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2003.

2


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
GẮN VỚI CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG - AN NINH
* Khái niệm
- Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản, thường xuyên, gắn liền với sự tồn
tại của xã hội lồi người. Đó là tồn bộ hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra của
cải vật chất cho xã hội, phục vụ nhu cầu đời sống con người.
=> Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) về Chiến lược bảo vệ tổ quốc trong
tình hình mới, Đảng ta nêu: “... nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm,
xây dựng Đảng là then chốt. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại”.
- Quốc phòng
- An ninh

Chúng ta đã được nghiên cứu ở chuyên đề

4 và chuyên đề 9.

- Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh ở nước ta là hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong
việc gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trong một
chỉnh thể thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy
nhau cùng phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực
hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của tồn dân
tộc, trong đó sức mạnh qn sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng
cốt (Khoản 1, Điều 3 của Luật Quốc phòng năm 2005).
- An ninh là trạng thái ổn định, an tồn, khơng có dấu hiệu nguy hiểm, đe
dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh vực
hoạt động xã hội hoặc toàn xã hội. Có an ninh quốc gia, an ninh chính trị, an ninh
quân sự, an ninh kinh tế, an ninh văn hố… Duy trì an ninh tồn diện là điều kiện
để phát triển xã hội (Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam , năm 2009, trang 25).
1. Cơ sở lý luận
Kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh là hai lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh
vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và chịu sự chi phối của hệ thống quy
luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau
để cùng tồn tại phát triển trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc. Việc phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh là
khách quan, phản ánh sự gắn kết hai lĩnh vực kinh tế - xã hội với quốc phòng - an
ninh trong một thể thống nhất theo sự điều hành thống nhất của Nhà nước, nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động của từng lĩnh vực, bổ sung, thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Trong mối quan hệ đó, kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định; Quốc
phòng - an ninh chịu sự chi phối và phụ thuộc vào kinh tế, nhưng có tác động tích
cực trở lại với kinh tế - xã hội, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
* Kinh tế quyết định đến quốc phòng - an ninh, gồm:
3



- Nguồn gốc ra đời của quốc phòng - an ninh => Lợi ích kinh tế, suy đến
cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung đột xã hội. Để giải quyết
mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc phòng, an ninh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nguồn gốc sâu xa (nguồn gốc kinh tế), suy đến
cùng đã dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh. Đồng thời, sự xuất hiện và
tồn tại của giai cấp và đối kháng giai cấp là nguồn gốc trực tiếp (nguồn gốc xã hội)
dẫn đến xuất hiện, tồn tại của chiến tranh.
- Bản chất của chế độ kinh tế - xã hội quyết định đến bản chất của quốc
phòng - an ninh.
+ Xây dựng sức mạnh quốc phòng - an ninh vì mục đích bảo vệ và đem lại lợi
ích cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ XHCN quy định.
+ Còn tăng cường quốc phịng - an ninh vì mục đích bảo vệ lợi ích cho giai cấp
tư sản cầm quyền, thực hiện chiến tranh xâm lược là do bản chất của chế độ kinh tế xã hội TBCN quyết định.
- Kinh tế quyết định đến việc cung cấp cơ sở vật chất, trang bị, phương
tiện vũ khí; ảnh hưởng đến cơ cấu, biên chế tổ chức của lực lượng vũ trang; tác
động đến chiến lược, chiến thuật và nghệ thuật quân sự; ảnh hưởng đến khả năng
phòng thủ đất nước, khả năng động viên kinh tế cho chiến tranh khi tình hình địi
hỏi.
Ph.Ăng Ghen đã khẳng định: “Khơng có gì phụ thuộc vào kinh tế tiên quyết
hơn là chính quân đội và hạm đội”; “Thắng lợi hay thất bại của chiến tranh đều
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế” (C.Mác, Ph.Ăng ghen, tồn tập, tập 20, Nhà xuất
bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, trang 235).
Lênin cũng nhấn mạnh: “Chúng ta chủ trưởng bảo vệ Tổ quốc nên chúng ta
đòi hỏi phải có thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với
vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà. Cuộc chiến tranh này cần được chuẩn bị
trước lâu dài, nghiêm túc từ kinh tế”. (V.I. Lê-nin, toàn tập, trang 35, Nhà xuất bản
Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, trang 480).

Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Thực túc thì binh cường”. Trong thực tiễn lãnh đạo
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất chăm lo đến việc đẩy mạnh phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Đó là
chăm lo tới nền tảng của nền quốc phịng tồn dân.
Người nói việc phát triển kinh tế, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, nhằm “Mục
đích là nâng cao đời sống của nhân dân và củng cố quốc phòng của Tổ quốc”.
=> Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011), đã nêu: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh”.
Vì vậy, để xây dựng quốc phịng - an ninh vững mạnh phải xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, khơng phải cứ có kinh tế mạnh là tự khắc có quốc phịng - an ninh
mạnh, mà phải thông qua việc tổ chức, thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với
tăng cường quốc phòng - an ninh một cách chủ động, hợp lý có ý thức.
4


* Quốc phịng - an ninh khơng chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động
trở lại kinh tế - xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực.
- Quốc phịng - an ninh tác động tích cực với kinh tế - xã hội:
+ Quốc phòng - an ninh vững mạnh tạo ra mơi trường hịa bình ổn định để
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ, bảo vệ chính quyền và chế độ xã hội.
+ Qn đội có vai trị quan trọng đối với kinh tế.
=> Khi bàn về vai trò của quân đội đối với kinh tế. C. Mác đã chỉ rõ “Nói
chung, qn đội đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển kinh tế”.
=> Phát triển quan điểm này của C. Mác, V.L. Lênin cho rằng, quân đội kiểu
mới của giai cấp vơ sản có vai trị rất quan trọng đối với nhiệm vụ lao động, sản
xuất, xây dựng kinh tế. Người chỉ ra rằng: “Cần phải tập trung toàn lực vào nhiệm
vụ đó… Đó là tình hình đặc thù, là bước quá độ đặc thù khiến chúng ta nghĩ đến

việc tổ chức các đội quân lao động”.
Lênin đã chuyển một số đơn vị chính quy của Hồng quân thành những đội
quân lao động sử dụng vào việc xây dựng kinh tế trong tình hình Nhà nước Xơ viết
đã bước sang thời kỳ ngừng chiến từ đầu năm 1920. Tư tưởng của Lênin đã sớm
đặt nền móng hình thành lý luận về chức năng, nhiệm vụ xây dựng kinh tế của
quân đội kiểu mới của Nhà nước vô sản.
Những luận điểm của Lênin về mối quan hệ kinh tế với quốc phòng mặc dù
được đưa ra cách đây gần một thế kỷ, song vẫn mang tính thời sự nóng hổi trong
bối cảnh hiện nay.
=> Và chúng ta cũng biết:
Lao động, sản xuất là một chức năng quan trọng của Quân đội nhân dân Việt
Nam.
Tháng 3/1958, nói chuyện về nhiệm vụ sản xuất của quân đội, Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “Tham gia sản xuất là một nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và Chính phủ
giao cho quân đội”.
+ Mặt khác, hoạt động quốc phòng - an ninh còn tạo những nhu cầu địi hỏi nền
kinh tế phải đáp ứng cho nó; thơng qua nhu cầu quốc phịng - an ninh nền kinh tế
phải sắp xếp, cân đối tỷ lệ các khâu trong quá trình tái sản xuất, đẩy mạnh nghiên
cứu khoa học, cơng nghệ, phát triển một cách tồn diện để đáp ứng nhu cầu dân sinh
và nhu cầu quốc phòng - an ninh. (Kích thích kinh tế phát triển).
- Tác động tiêu cực:
+ Hoạt động quốc phòng - an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực,
vật lực, tài chính của xã hội. Những tiêu dùng này, như V.I.Lê-nin đánh giá, là tiêu
dùng “mất đi”, không quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó sẽ ảnh hưởng đến tiêu
dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
+ Ảnh hưởng đến đường lối phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế.
+ Cịn có thể dẫn đến hủy hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho
kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. (Quốc phòng - an ninh mạnh, để đẩy lùi, ngăn
chặn mọi cuộc chiến tranh xâm lược).
5



=> Để hạn chế những tác động tiêu cực này, phải kết hợp tốt tăng cường củng
cố quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.
* Trên thế giới, việc phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc
phòng - an ninh phụ thuộc vào quan điểm phát triển, điều kiện chính trị, chế
độ xã hội của mỗi quốc gia và thực hiện các mơ hình kết hợp khác nhau.
- Những nước có nền cơng nghiệp quốc phịng với cơng nghệ cao, gắn kết bằng
cách tận dụng việc xuất khẩu vũ khí, thiết bị quốc phịng - an ninh cho nước khác để
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Trong khi đó, các nước đang phát triển lại tranh thủ đẩy mạnh nhịp độ phát
triển kinh tế để có đủ tiềm lực nhập khẩu các vũ khí và trang bị, thiết bị phục vụ
cho nhu cầu củng cố quốc phòng - an ninh.
=> Theo báo cáo của Viện nghiên cứu hịa bình quốc tế Stockholm, Châu Á là khu
vực nhập khẩu vũ khí nhiều nhất thế giới.
+ Thương mại vũ khí tồn cầu từ năm 2007 - 2011 tăng 24% so với giai đoạn
2002 - 2006 (Trong đó các nước Châu Á mua tổng cộng 44% lượng vũ khí giao
dịch tồn cầu, Châu Âu 19%, Trung Đông 17%, Châu Mỹ 11% và Châu Phi 9%).
+ Năm quốc gia nhập khẩu vũ khí lớn nhất từ 2007 - 2011 đều nằm ở châu Á.
Đứng đầu là Ấn Độ, kế đến là Hàn Quốc, Pakistan, Trung Quốc và Singapore. (Ước
tính trong vịng 15 năm tới, Ấn Độ sẽ đầu tư gần 160 tỷ USD để mua sắm vũ khí).
+ Trung Quốc vừa là nước nhập khẩu lớn (đứng thứ 4 Châu Á), đồng thời cũng
là nước xuất khẩu vũ khí đứng thứ 6 thế giới (Trong đó khoảng 2/3 lượng vũ khí
xuất sang Pakistan). Năm 2011 ngân sách quốc phòng của Trung Quốc là 119,8 tỷ
USD, đứng thứ 2 sau Mỹ (Mỹ 739,3 tỷ USD), dự báo ngân sách quốc phịng Trung
Quốc có thể tăng 14% mỗi năm từ nay đến năm 2015 lên tới 238,2 tỷ USD vào năm
2015.
+ Hưởng lợi lớn nhất từ cuộc chạy đua vũ trang ở Châu Á là các nhà cung cấp vũ
khí từ Mỹ, Nga, Đức, Pháp và Anh. Năm 2011, Mỹ có được một hiệp đồng béo bở trị
giá 30 tỷ USD là bán 87 máy bay chiến đấu F-15SG và nâng cấp máy bay F-15E cho

Saudi Arabia.
+ Khách hàng lớn nhất của Nga là Ấn Độ. Việt Nam là khách hàng lớn thứ 5
của Nga. Trong năm 2011, phía Nga đã giao cho Việt Nam 2 tàu khu trục lớn
Gepard, tên lửa chống tàu chiến, 8 máy bay chiến đấu Su-30MK2.
* Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ mặc dù kinh tế - xã hội với quốc
phòng - an ninh là hai lĩnh vực hoạt động có sự thống nhất ở mục đích chung,
nhưng lại có sự chế ước lẫn nhau. Vì thế, sự gắn kết đó phải được thực hiện một
cách khoa học, hợp lý, cân đối và hài hịa thì cả hai lĩnh vực kinh tế - xã hội và
quốc phịng - an ninh mới có thể cùng phát triển mạnh lên được. Nếu quá nhấn mặt
này mà xem nhẹ mặt kia, hoặc tách rời không khéo kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
kinh tế - xã hội với củng cố quốc phịng - an ninh thì tất yếu sẽ dẫn đến làm yếu cả
hai và có khi cịn dẫn tới những hậu quả khó lường, làm tổn hại đến lợi ích quốc
gia dân tộc.
V.I. Lê-nin ln đặt kinh tế và quốc phòng trong mối quan hệ biện chứng, tác
động qua lại. V.I.Lê-nin nhấn mạnh: “Mối liên hệ giữa tổ chức quân sự của một
6


nước với toàn bộ chế độ kinh tế và văn hoá của nước ấy chưa bao giờ lại hết sức
chặt chẽ như ngày nay” (V.I.Lê-nin – Toàn tập, Tập 9, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơ-va, 1979, trang 192).
* Đảng ta xác định: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Việc phát
triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh đã được tổ chức thực
hiện và từng bước phát triển. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm
1996) của Đảng, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra vấn đề Phát triển kinh tế - xã hội gắn
với tăng cường quốc phòng - an ninh. Đây là quan điểm rất mới của Đảng ta, quan
điểm đó xuất phát từ mối quan hệ giữa hai cặp phạm trù: phát triển kinh tế phải
gắn với phát triển xã hội; tăng cường quốc phòng phải gắn với bảo vệ an ninh quốc
gia. Vì thế, “Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh” đã trở thành một trong sáu
quan điểm trong quá trình CNH, HĐH đất nước, đồng thời là một trong sáu tư

tưởng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới.
* Hiện nay và trong những năm tới: Khả năng duy trì hịa bình ổn định ở khu
vực và thế giới cho phép ta tập trung sức vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh
tế. Tuy nhiên, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn mưu toan phá hoại thành
quả của sự nghiệp đổi mới, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, vì thế khơng cho phép chúng ta được xem nhẹ, mất cảnh giác, phải chủ động đối
phó với những tình huống bất trắc phức tạp có thể xảy ra. Vì vậy, các Bộ, ngành từ
Trung ương đến địa phương, cơ sở cần nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa xây
dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng - an ninh trong thời kỳ mới.
Nghị quyết TW8 khoá IX (2003) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới” nêu ra 6 quan điểm chỉ đạo - Quan điểm thứ 3 là: “Kết hợp chặt chẽ 2
nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định, nắm chắc nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Kêt hợp chặt chẽ các nhiệm vụ
kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại”.
Vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin và quán triệt quan điểm của Đảng ta về quan
hệ kinh tế với quốc phòng, chúng ta cần kiên quyết khắc phục triệt để nhận thức cho
rằng, quốc phòng chỉ là gánh nặng của kinh tế. Bởi lẽ, do nhận thức không đúng,
nên trong thực tiễn ở một số ngành, địa phương, trong một số trường hợp, ít chú ý
đến u cầu của quốc phịng, hoặc chú ý chưa đúng mức đến yêu cầu của quốc
phòng trong quá trình phát triển kinh tế; nhất là trong quy hoạch phát triển kinh tế,
mở khu công nghiệp, lập các dự án kinh tế... có trường hợp, cịn cho doanh nghiệp
nước ngồi th đất ở những vị trí trọng yếu về quốc phòng (khu vực biên giới)
trong thời gian dài. Tình trạng đó đã và đang tác động xấu đến xây dựng thế trận
quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân của mỗi địa phương cũng như trên
phạm vi quốc gia.
2. Cơ sở thực tiễn
Nhìn vào tiến trình phát triển của các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy, dù
là nước lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay chưa phát triển; dù chế độ chính

trị như thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển
7


kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, kể cả những nước mà hàng
trăm năm nay chưa có chiến tranh.
Tuy nhiên, các nước khác nhau, với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, điều
kiện hồn cảnh khác nhau thì sự kết hợp cũng có sự khác nhau về mục đích, nội
dung, phương thức và kết quả. Ngay trong một nước, trong mỗi giai đoạn phát
triển thì sự kết hợp cũng khác nhau.
Ở nước ta, sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phịng – an ninh đã có lịch sử lâu dài, khơng những là vấn đề có tính quy luật mà
cịn là một truyền thống trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Nó được biểu hiện cụ thể như sau:
* Dưới các triều đại phong kiến trước đây: Đứng trước nguy cơ thường
xuyên bị đe dọa, xâm lược và thơn tính của các thế lực thù địch, để xây dựng và
phát triển đất nước, ơng cha ta đã có những chủ trương, kế sách thực hiện sự kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trong
quá trình dựng nước và giữ nước.
- Chủ trương, kế sách đó được thể hiện ở tư tưởng: “Nước lấy dân làm gốc”, “Dân
giàu, nước mạnh”, “Quốc phú binh cường”.
- Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để “Yêu dân” mà “Vẹn đất”.
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (1228-1300), đã để lại cho chúng ta lời
dạy bất hủ: “Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, đó là
thượng sách để giữ nước”.
- Thực hiện kế sách “Ngụ binh ư nông”, “Động vi binh, tĩnh vi dân” để vừa
phát triển kinh tế, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
- Trong xây dựng, phát triển kinh tế, đã sử dụng nhiều chính sách như:
+ Khai hoang lập ấp ở những nơi xung yếu để “Phục binh sẵn, phá thế giặc”
từ xa.

+ Phát triển nghề thủ công để vừa sản xuất ra các công cụ sản xuất, vừa sản
xuất ra các vũ khí, phương tiện phục vụ cho toàn dân đánh giặc.
+ Mở mang đường sá, đào sơng ngịi, kênh rạch, xây đắp đê điều để vừa phát
triển sản xuất, vừa tạo thế đánh giặc, cơ động lực lượng trong chiến tranh giữ nước.
+ Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng những người có chí lớn, tài cao và
thấm nhuần đạo lý dân tộc; lấy nhân nghĩa làm cốt lõi và nhiều kế sách khác để đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
=> Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhân dân ta (1418 –
1427), tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của cuộc kháng chiến của Lê Lợi là “Xây dựng để
bảo vệ, bảo vệ để xây dựng”. Cùng với đó, tại Chí Linh - Lam Sơn, nghĩa quân đã đắp
nhiều đập cao tạo thành hồ lớn tích trữ nước trên cao phục vụ cuộc sống dân sinh, lao
động sản xuất, đồng thời thiết lập nhiều cửa xả lũ sẵn sàng tạo sức mạnh “thiên
nhiên” đẩy lùi các cuộc tiến cơng của địch.
Có thể nói, cải tạo địa hình tự nhiên vừa bảo đảm phát triển dân sinh vừa bảo
đảm phòng vệ lúc bấy giờ là một tư tưởng sáng tạo, độc đáo của nghệ thuật quân
8


sự Việt Nam, đặt nền móng cho đường lối phát triển kinh tế kết hợp với quốc
phòng - an ninh ngày nay.
* Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng:
Do nắm được quy luật và biết kế thừa kinh nghiệm lịch sử, Đảng và Nhà nước
ta đã thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng - an ninh một cách nhất quán bằng những chủ trương, giải pháp sáng tạo,
phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Chủ trương đó
đã trở thành một nội dung quan trọng của đường lối lãnh đạo, quản lý, điều hành
đất nước, luôn đổi mới và phát triển. Cụ thể:
- Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược (1945 – 1954):
+ Đảng đề ra chủ trương “Vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, “Vừa chiến đấu,
vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”.

+ Tiến hành phát triển kinh tế ở hậu phương với tiến hành chiến tranh nhân dân
rộng khắp ở mọi nơi địch đến. Xây dựng “Làng kháng chiến”, địch đến thì đánh, địch lui
ta lại tăng gia sản xuất.
- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975): Với mục tiêu
củng cố, tăng cường sức mạnh quân sự đặt lên hàng đầu “Tất cả cho tiền tuyến, tất
cả cho chiến thắng”. Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh được
tiến hành theo cơ chế bao cấp, nhiệm vụ cụ thể để được đảm bảo thông qua các chỉ
tiêu kế hoạch từ việc cân đối nguồn, phân phối, sử dụng, điều hành… theo cơ chế
hành chính, nhằm động viên cả nền kinh tế cho sự nghiệp giải phóng đất nước.
=> Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Hậu phương thi đua với tiền phương”, coi
“Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sỹ”, “tay cày,
tay súng, tay búa, ra sức phát triển sản xuất để phục vụ kháng chiến”.
- Từ khi cả nước độc lập, thống nhất năm 1975: Trong hầu hết các văn kiện của
Đảng đều xác định kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng - an
ninh với kinh tế. Cả nước tập trung khôi phục, phát triển nền kinh tế, đưa nước ta
thốt khỏi tình trạng nghèo nàn vươn tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh” nhưng khơng lơi là nhiệm vụ củng cố quốc phịng, an ninh. Kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong các quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Đến thời kỳ đổi mới (1986), Đảng ta rất coi trọng phát triển kinh tế - xã hội,
song Đảng ta cũng chỉ ra: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng
CNXH, chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”. Với tư duy
mới về kinh tế và quốc phòng - an ninh, việc phát triển kinh tế - xã hội gắn với
củng cố quốc phòng - an ninh có sự phát triển tích cực trên phạm vi cả nước cũng
như các bộ, ngành Trung ương và ở các địa phương.
- Giai đoạn (1991 – 2000): Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an
ninh được tiến hành trong điều kiện nước ta phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XHCN. Các thế lực thù địch chống phá ta quyết liệt bằng
chiến lược “Diễn biến hịa bình” trên mọi lĩnh vực, trong đó lĩnh vực kinh tế là mũi
nhọn, hòng làm chệch hướng về kinh tế, dẫn đến làm chệnh hướng về chính trị, đưa

nước ta đi theo quy đạo TBCN. Vì vậy, bản chất của việc phát triển kinh tế - xã hội
9


gắn với củng cố quốc phòng - an ninh để tự bảo vệ và được bảo vệ vững chắc trong
quá trình phát triển, giữ vững định hướng XHCN.
- Giai đoạn (2001 đến nay): Là giai đoạn hội nhập vào thị trường khu vực và
thế giới càng sâu rộng hơn, thời cơ và thách thức đan xen. Yêu cầu hội nhập đặt ra
là phải giữ vững nguyên tắc về chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc trong quan hệ
quốc tế. Vừa phải phát huy nội lực khai thác nguồn vốn và cơng nghệ để đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vừa phải phát huy lợi thế của các vùng
lãnh thổ trên cả nước để phát triển, giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế - xã hội giữa
các vùng. Bản chất của phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an
ninh để chủ động tự bảo vệ là chủ yếu, đồng thời tham gia bảo vệ và được bảo
vệ một cách vững chắc trong quá trình xây dựng phát triển đất nước.
3. Thực trạng và những vấn đề đặt ra
a) Thực trạng:
Những năm qua cùng với sự đổi mới về kinh tế, đổi mới chính trị, việc tổ
chức thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng an ninh đã đạt được những kết quả quan trọng, tương đối toàn diện cả về nhận thức
và tổ chức thực hiện.
* Về nhận thức:
- Nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ngày càng rõ hơn về
những vấn đề cơ bản trên phương diện lý luận và thực tiễn, về mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh. Khẳng định mối
quân hệ đó là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng phải luôn gắn chặt với bảo vệ.
- Chủ động mở cửa hội nhập quốc tế phải đảm bảo giữ vững độc lập chủ
quyền quốc gia.
=> Nhận thức rõ hơn về âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch;
về đối tác, đối tượng của cách mạng (Trong mỗi đối tượng đều có khía cạnh cần hợp

tác, trong các đối tác vẫn tồn tại những khác biệt và mâu thuẫn lợi ích với ta).
- Phát triển kinh tế - xã hội phải tạo cơ sở để củng cố quốc phòng - an ninh, củng
cố quốc phòng - an ninh phải tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội =>
Sự gắn kết đó đã được thể hiện trong các kế hoạch phát triển hàng năm và 5 năm.
* Về tổ chức thực hiện:
Đã có sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, nhất là Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng
an, các bộ - ngành thuộc lĩnh vực kinh tế. Tạo sự đồng thuận giữa các cấp, các
ngành, các địa phương và đông đảo các tầng lớp nhân dân. Cụ thể:
- Đã gắn chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam với xây dựng thế trận
quốc phịng tồn dân trên vùng biển, đảo.
Nghị quyết Trung ương 4 (khoá X) về Chiến lược biển đến năm 2020 đã nêu:
Xây dựng LLVT, nòng cốt là Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng, Dân quân tự vệ
biển vững mạnh toàn diện, làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần
kinh tế sản xuất, khai thác tài nguyên biển.

10


- Gắn xây dựng các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia, các khu kinh tế mở,
khu chế xuất tập trung với thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân
và xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) trên phạm vi cả nước.
=> Xin ví dụ ở thành phố Hồ Chí Minh để chúng ta nắm được:
Từ việc quy hoạch tổng thể của thành phố đến quy hoạch quận, huyện, khu vực
và từng dự án như: Khu chế xuất Tân Thuận (Quận 7), Linh Trung (Thủ Đức), các
khu cơng nghiệp Bình Chiểu, Hiệp Phước, Tân Tạo, Tân Bình, Vĩnh Lộc, Tây Bắc Củ
Chi, khu đơ thị Nam Sài Gịn, các trục đường Bắc - Nam, Đông - Tây, cầu Phú Mỹ,
Hầm vượt sông Sài Gòn, các tuyến đường vành đai… đều gắn với nhiệm vụ xây dựng
khu vực phòng thủ, vừa bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, chỉnh trang đô thị trong
thời bình, vừa phù hợp với thế bố trí phịng thủ khi có chiến sự xảy ra. Hoặc như
chương trình trồng mới, chăm sóc, bảo vệ rừng phịng hộ, rừng đặc dụng, cây phân

tán, đưa độ che phủ cây xanh đạt trên 30% tổng diện tích tự nhiên của thành phố, vừa
nhằm tạo cảnh quan, môi trường và ngụy trang các cơng trình, các mục tiêu qn sự,
căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương.
- Nâng cao hiệu quả các chương trình kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa trên
cơ sở xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế do Bộ Quốc
phòng chỉ đạo thực hiện làm nền tảng.
=> Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã
giao nhiệm vụ cho Bộ Quốc Phòng phối hợp với các địa phương xây dựng 32 khu
kinh tế - quốc phòng đến năm 2020. Đến nay quân đội đã xây dựng được 22 khu
kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, với diện tích hàng triệu héc ta,
tạo điều kiện bền vững cho hàng ngàn hộ dân yên tâm sinh sống, định cư lâu dài,
hình thành các điểm, cụm dân cư trên vành đai biên giới và địa bàn xung yếu (Binh
đoàn 15 ở Tây Nguyên, Binh đồn 16 ở Bình Phước, Đắc Nơng; Qn khu 7 có
Đồn kinh tế - quốc phịng 778 ở Phước Long – Bình Phước). Các đồn kinh tế
quốc phịng đã thực sự trở thành nhân tố không thể thiếu trong cơng cuộc xóa đói,
giảm nghèo, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, tham gia phát triển kinh tế - xã
hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh của đất nước.
- Đã chú trọng xây dựng hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường
không, đường sắt một cách cơ bản, đồng bộ, trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả
phát triển kinh tế - xã hội và quốc phịng - an ninh của đất nước.
=> Nhiều cơng trình giao thơng đường bộ huyết mạch quan trọng đã được khôi
phục, nâng cấp như: Trục đường Bắc – Nam đã được cải tạo, nâng cấp và mở rộng từ
Hữu Nghị Quan đến Năm Căn; hệ thống đường Hồ Chí Minh được nối thông từ Cao
Bằng đến Đất Mũi (Cà Mau); đường tuần tra biên giới đất liền từ Quảng Ninh đến
Kiên Giang có tổng chiều dài 14.251km đã thiết thực góp phần tích cực vào phát triển
kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý Nhà nước đối với các lĩnh
vực kinh tế và quốc phịng - an ninh, quy chế bảo vệ các cơng trình quốc phịng,
qn sự được xây dựng và từng bước hoàn thiện, đã tạo thuận lợi trong triển khai
thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh của đất nước.


11


- Công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đã gắn kết hai
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh. Tiềm lực
quốc phòng - an ninh tiếp tục được tăng cường; an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội được giữ vững; Sự gắn kết ngày càng chặt chẽ hơn, nhất là trên các địa bàn,
các lĩnh vực trọng yếu; Nhờ đó đã duy trì ổn định chính trị - xã hội, giữ vững mơi
trường hịa bình, tạo thuận lợi cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Tuy nhiên còn tồn tại những mặt yếu kém bất cập trong phát triển kinh tế
- xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh như sau:
- Nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố
quốc phòng - an ninh ở một số nội dung chưa rõ, chưa đúng và chưa đầy đủ; Nhất
là về vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp.
Hoạt động thiếu đồng bộ, điều hành còn lúng túng; Nội dung, phương thức gắn kết
hợp chậm đổi mới, hiệu quả có mặt cịn hạn chế, thậm chí có nơi xây dựng cơng
trình xâm phạm đến thế bố trí phịng thủ.
- Sự phối hợp gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an
ninh trong phê duyệt, ký kết các dự án đến từ nước ngồi chưa có cơ chế rõ ràng,
chặt chẽ, nên một số chương trình, dự án sau khi xây dựng xong đã ảnh hưởng
không nhỏ đến thế trận quốc phòng - an ninh và lợi ích quốc gia dân tộc.
- Hội nhập quốc tế nhanh nhưng chưa tận dụng tốt cơ hội để phát triển cũng như
hạn chế mặt trái của hội nhập. Thực hiện nền kinh tế mở còn nhiều vấn đề phải được
tiếp tục nghiên cứu đổi mới để sự kết hợp kinh tế với quốc phòng đạt hiệu quả cao
hơn.
=> Những tồn tại nói trên đã ảnh hưởng khơng ít đến hiệu lực, hiệu quả trong tổ
chức thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phịng an ninh. Thậm chí đã có lúc, có nơi sơ hở để các thế lực thù địch lợi dụng kht sâu
phá hoại. Nếu khơng nhanh chóng khắc phục triệt để thì sẽ là những thách thức lớn
trong sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo định hướng

XHCN của chúng ta.
b) Những vấn đề đặt ra liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội gắn với
củng cố quốc phòng - an ninh:
Thời gian tới nước ta tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong bối cảnh tình hình thế giới,
khu vực đang có nhiều biến động, nước ta hội nhập ngày càng sâu, rộng.
Bên cạnh những thuận lợi, thời cơ, nó đang đặt ra cho chúng ta những thách thức
mới đối với cả phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phịng - an ninh, đó là:
+ Những thách thức an ninh phi truyền thống, như: khủng hoảng kinh tế, tài
chính; an ninh năng lượng; an ninh lương thực; an ninh mạng; biến đổi khí hậu tồn
cầu; thảm họa môi trường, thiên tai, dịch bệnh; khủng bố; cướp biển; xung đột tôn
giáo, sắc tộc; bạo loạn, ly khai…
+ Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
+ Sự tranh chấp giữa các nước lớn.
+ Nguy cơ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.
12


+ Sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phịng - an ninh...
=> Các yếu tố trên tác động rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, đến xây
dựng thế trận quốc phòng - an ninh, tới lực lượng và khả năng đáp ứng cho nhu
cầu chiến tranh và chống chiến tranh.
Vì vậy, việc phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh
là rất cần thiết. Đòi hỏi cần được nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn cả về lý luận
và thực tiễn; phải tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, nhất quán, đồng bộ cả về
chủ trương quan điểm, nội dung, phương thức và giải pháp, có như vậy mới đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
GẮN VỚI CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG - AN NINH

1. Khái niệm:
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh là sự gắn
kết chặt chẽ hoạt động của các lĩnh vực kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh
thành một thể thống nhất trên phạm vi cả nước, trên từng vùng và từng địa phương,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước; các lĩnh vực
chủ động gắn kết, bổ sung và tạo điều kiện cho nhau, thức đẩy nhau cùng phát triển,
góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
bảo đảm cho mục tiêu phát triển đất nước được thực hiện thắng lợi, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị - xã hội, lợi ích quốc gia dân tộc luôn ở
trong trạng thái tự bảo vệ và được bảo vệ.
Khái niệm trên phản ánh nội dung bản chất nhất của sự gắn kết kinh tế - xã hội
với tăng cường quốc phòng - an ninh ở nước ta trong thời kỳ mới, đó là:
- Toàn bộ hoạt động xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội phải ln gắn với tăng
cường quốc phịng - an ninh.
- Tăng cường quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội là một nhu
cầu địi hỏi tất yếu khánh quan.
- Tính năng động chủ quan của các chủ thể kinh tế - xã hội và quốc phòng - an
ninh là nhân tố quyết định của sự gắn kết đó.
- Vai trị lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước bảo
đảm cho quá trình thực hiện sự gắn kết phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
quốc phòng - an ninh được đúng đắn và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Mục đích phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh
nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
2. Mục tiêu, yêu cầu
a) Mục tiêu
- Khai thác, sử dụng mọi tiềm năng về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an
ninh và mọi nguồn lực của đất nước, làm cho kinh tế - xã hội và quốc phòng - an
ninh đều phát triển cân đối, hài hoà và vững chắc.
13



- Tạo môi trường quốc tế và trong nước thuận lợi cho phát triển kinh tế, thực
hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
cơng nghiệp quốc phịng từng bước hiện đại, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang
được trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại.
- Góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia, mở rộng quan hệ hợp tác
kinh tế, kỹ thuật với các nước, tạo sự chuyển biến căn bản cơ cấu nền kinh tế quốc
dân, đáp ứng được nhu cầu cải thiện đời sống nhân dân, có tích luỹ để phát triển, bảo
đảm quốc phòng thường xuyên vững chắc, sẵn sàng và đủ sức đánh bại mọi âm mưu,
thủ đoạn chống phá xâm lược của các thế lực thù địch.
=> Đó là mục tiêu có tính tổng qt, phản ánh tư duy mới của Đảng và Nhà
nước ta về tìm nguồn lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia thông qua kết quả thực
hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phịng - an ninh tạo ra, phấn
đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện
xây dựng và bảo vệ tổ quốc một cách chủ động vững chắc có lợi nhất trong bối cảnh
diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới hiện nay.
b) Yêu cầu
- Góp phần giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh
quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta.
- Góp phần bảo đảm cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh gắn liền với phát
triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt; vừa có khả năng và luôn
ở trong tư thế sẵn sàng cao nhất về kinh tế bảo đảm cho quốc phòng - an ninh trong
mọi tình huống; góp phần khắc phục nguy cơ tụt hậu , khủng hoảng, chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh kinh tế và an ninh quốc gia, bảo đảm cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước đạt được mực tiêu và phát triển theo đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Góp phần đáp ứng làm cho quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc, thế

trận, lực lượng và tiềm lực quốc phòng - an ninh khơng ngừng được tăng cường, cơng
nghiệp quốc phịng có khả năng bảo đảm trang bị cho các lực lượng vũ trang những vũ
khí phương tiện ngày càng hiện đại, phù hợp với nhu cầu của chiến tranh nhân dân bảo
vệ tổ quốc trong tương lai. Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế
- xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Đồng thời, trong quá trình xây
dựng tiềm lực, sức mạnh quốc phòng - an ninh phải lấy mục tiêu yêu cầu phát triển
kinh tế là mục đích và tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển.
3. Chủ trương, quan điểm của Đảng
a) Chủ trương
Xuyên suốt trong các kỳ đại hội, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế - xã
hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh là một chủ trương nhất quán, gắn xây
dựng với bảo vệ tổ quốc của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương đó luôn vận động và
phát triển, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đọan phát triển của đất nước. Cụ thể
như sau:
14


- Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chủ trương phát triển kinh
tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh đã được Đại hội lần thứ III
(năm 1960) của Đảng xác định: “Xây dựng kinh tế phải thấu suốt nhiệm vụ quốc
phòng, cũng như củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho ăn khớp với cơng cuộc
xây dựng kinh tế”. Theo tinh thần đó, miền Bắc tiến hành xây dựng chế độ mới, nền
kinh tế mới, văn hóa mới, bảo đảm nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân gắn với
chăm lo củng cố quốc phòng vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại, bảo vệ
vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa và làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn chi viện
đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược. Ở miền Nam gắn kết chặt chẽ giữa đánh địch với củng cố mở rộng hậu
phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh, thực hiện khẩu hiệu “cả nước
một lịng, tồn dân đánh giặc”. Đây chính là một điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách

mạng nước ta đi đến thắng lợi.
- Sau năm 1975 là thời kỳ cả nước độc lập thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội,
việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh được
Đảng ta xác định là một nội dung rất quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Đại hội lần thứ VIII (1996) của Đảng xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực vừa phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế, vừa phục vụ quốc phòng, an ninh” (Văn kiện Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ VIII - NXB Chính trị quốc gia, năm 1996, tr 169).
+ Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) nêu: “Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ rất quan trọng trong bối cảnh phát triển,
cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới” (Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị quốc gia, năm 2001, tr 316).
+ Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng nhấn mạnh: “Kết hợp kinh tế - xã hội với
quốc phòng, an ninh theo phương châm phát triển kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo
vệ tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phịng, an ninh vững mạnh là điều kiện
để phát triển kinh tế - xã hội... Sự kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố
quốc phòng, an ninh phải được thực hiện ngay trên từng địa bàn lãnh thổ, từ công
tác quy hoạch, xây dựng kế hoạch và hình thành các dự án đầu tư phát triển. Xây
dựng tỉnh, huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc” (Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X - NXB Chính trị quốc gia, năm 2006, tr 227).
+ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có
quan hệ chặt chẽ với nhau”. “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống
kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng
chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”
(Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI - NXB Chính trị quốc gia, năm
2011, tr 65, 82).

15


Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã khẳng định: “Phải đặc
biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phịng, an ninh,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm
cho đất nước phát triển nhanh và bền vững” (Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ XI - NXB Chính trị quốc gia, năm 2011, tr 99).
Trong thập niên tới, hồ bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn.
Tồn cầu hố kinh tế tiếp tục phát triển về quy mơ, mức độ và hình thức biểu hiện
với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn không ngừng từ bỏ tham vọng bá
quyền, trắng trợn can thiệp vào cơng việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền,
chủ nghĩa khủng bố vẫn đang tồn tại, do vậy nguy cơ xẩy ra chiến tranh cục bộ trên
quy mô lớn chưa bị loại trừ.
Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch vẫn đã và đang tăng cường thực hiện
chiến lược “diễn biến hịa bình” (Chun đề 3: Phịng chống chiến lược “diễn biến
hịa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam), với
âm mưu:
+ Tạo sự mơ hồ trong xác định đối tác và đối tượng (Đối với Trung Quốc: hợp
tác phải cảnh giác; Đối với Mỹ: phải cảnh giác trong hợp tác).
+ Chuyển hoá tư tưởng, lối sống trong xã hội => làm chệch định hướng xã hội
chủ nghĩa.
+ Hạ thấp, xố bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Hỗ trợ, chỉ đạo bọn phản động lưu vong xâm nhập, móc nối với bọn phản
động chống đối nội địa hoạt động gây mất ổn định, bạo loạn như ở Tây nguyên
(năm 2001, 2004); vụ phá rối an ninh ở Mường Nhé - Điện Biên (tháng 5/2011)).
+ Lợi dụng chiêu bài “Dân tộc”, “Tôn giáo”, “Dân chủ”, “Nhân quyền” để lơi
kéo quần chúng, kích động tư tưởng chia rẽ, ly khai, tự trị.
+ Bên cạch đó là sự tranh chấp chủ quyền biển, đảo, khai thác tài nguyên ở Biển

Đông giữa Việt Nam với một số nước láng giềng sẽ diễn biến ngày càng phức tạp.
Tình hình trên tạo cho chúng ta những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó
khăn và thách thức gay gắt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong thời kỳ chiến lược tới.
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an ninh là một chủ
trương chiến lược nhất quán của Đảng ta. Đó là sự gắn kết đầy đủ, tồn diện trên các
lĩnh vực đời sống xã hội, trong xây dựng và tăng cường nền quốc phịng tồn dân,
nền an ninh nhân dân.
b) Quan điểm
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh trong thời
kỳ mới phải nắm vững và thực hiện theo quan điểm chỉ đạo dưới đây:
Một là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh
phải toàn diện, cơ bản, lâu dài ngay từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh trên phạm vi cả
nước, từng vùng, từng ngành và ở từng địa phương.
16


* Đây là quan điểm chỉ đạo công tác điều hành, quản lý ở tầm vĩ mô. Gắn kết
chặt chẽ việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội và
tăng cường quốc phòng - an ninh của đất nước; chỉ ra đối tượng, không gian, thời
gian gắn kết và là quan điểm bao trùm, xuyên suốt phục vụ công tác chỉ đạo, quản lý
điều hành của Nhà nước.
* Nội dung:
- Phải gắn kết ngay từ đầu và trong suốt quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm vi cả nước và từng
địa phương. Xây dựng các quy hoạch và kế hoạch chiến lược tổng thể quốc gia về
kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phịng - an ninh.
Coi đó là một trong những khâu quan trọng hàng đầu để chỉ đạo, quản lý Nhà nước
về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh một

cách hiệu lực, hiệu quả.
- Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lược tổng thể, toàn diện về kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phịng - an ninh, phải
có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu khảo sát, đánh giá
các nguồn lực (cả bên trong và bên ngồi). Trên cơ sở đó xác định mục tiêu,
phương hướng phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn, như: chính sách khai
thác các nguồn lực; chính sách đầu tư và phân bổ đầu tư; chính sách điều động
nhân lực, bố trí dân cư; chính sách ưu đãi khoa học và công nghệ.
- Phải được triển khai thực hiện có kế hoạch từng bước trên phạm vi cả nước
và từng vùng, từng ngành, từng địa phương tạo nên sự ăn khớp, nhịp nhàng.
- Nhà nước cần có cơ chế, chính sách, pháp lệnh về kết hợp kinh tế - xã hội
với quốc phòng - an ninh để đảm bảo các dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội phải có ý thức kết hợp với quốc phịng - an ninh và được Bộ Quốc Phịng, Bộ
Cơng an; cơ quan quân sự, công an địa phương tham gia ý kiến để cấp có thẩm
quyền quyết định phê duyệt, nhất là các cơng trình liên doanh với nước ngồi. Và
phải có cơ chế và cơ quan quản lý thống nhất điều hành việc kết hợp để tránh sự
chồng chéo, khơng ăn khớp.
=> Điều 46 của Luật quốc phịng (2005) - Về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đã nêu: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, phối hợp với Bộ Quốc Phòng thực hiện quản lý Nhà nước về quốc
phịng; ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo quy định của pháp luật”.
Hai là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phịng - an ninh phải
tập trung có trọng điểm, quan tâm đầu tư vào những vùng, địa bàn chiến lược
trọng yếu như (vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ), những ngành,
những lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước.
Quan điểm chỉ ra phương thức phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường
quốc phòng - an ninh, đồng thời thể hiện nghệ thuật trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện của Đảng ta “vững toàn diện, mạnh có trọng điểm”.
Ba là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh thời

bình phải có phương án, kế hoạch sẵn sàng điều chỉnh thích ứng với thời chiến
17


và ứng phó thắng lợi với mọi tình huống bất trắc xảy ra hạn chế` tổn thất, thiệt
hại do thiên tai, địch hoạ gây ra.
Quan điểm thể hiện tính tích cực, chủ động, linh hoạt sáng tạo trong công tác
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Chúng ta không muốn chiến tranh, song trong
điều kiện tình hình thế giới cịn nhiều những bất trắc khó lường buộc chúng ta phải
tính đến các tình huống cả trước mắt và lâu dài, phục vụ cho mục tiêu, yêu cầu đánh
thắng của quốc phòng Việt Nam trong chiến tranh.
Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh là sự
nghiệp của toàn dân, của mọi ngành, mọi cấp, mọi thành phần kinh tế do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, với một hệ thống cơ quan tham mưu có năng lực,
trách nhiệm tốt và với một hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ, phù hợp
trong thời kỳ mới.
Năm là, chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ: quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hứơng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ.
* Những quan điểm trên là một thể thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực
hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh. Vì vậy, các
cấp, các ngành từ Trung ương đến các địa phương, cơ sở cần nhận thức đúng đắn mối
quan hệ giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng
cường quốc phòng - an ninh trong thời kỳ mới. Trong mối quan hệ đó, xây dựng đất
nước, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm giữ vai trò quyết định, tạo tiền đề và làm

cơ sở để củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh. Ngược lại củng cố tăng cường
quốc phòng - an ninh vững mạnh sẽ là điều kiện giữ vững hồ bình ổn định tạo môi
trường thuận lợi cho xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa.
4. Nội dung phương thức
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định: “Tăng
cường quốc phòng, an ninh cả về tiểm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ
tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện
chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc
phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” (Văn kiện Đại hội đại
biểu Toàn quốc lần thứ XI , NXB Chính trị quốc gia năm 2011, tr 234).
a) Phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh theo vùng lãnh thổ
* Phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an ninh theo vùng lãnh thổ là
sự gắn kết phát triển vùng kinh tế với xây dựng địa bàn chiến lược quốc phòng - an
ninh, nhằm tạo ra thế bố trí chiến lược hợp lý cả về kinh tế - xã hội cũng như quốc

18


phòng - an ninh trên vùng lãnh thổ theo một ý đồ phòng thủ chiến lược bảo vệ tổ
quốc, vững trên toàn cục và mạnh ở từng trọng điểm.
Quán triệt các quan điểm của Đảng, từ đặc điểm, tiềm năng phát triển kinh tế xã hội cũng như địa kinh tế, chính trị, qn sự, quốc phịng, an ninh của các vùng lãnh
thổ trong cả nước. Đảng ta xác định cần chú trọng nhiều hơn đến các vùng kinh tế
trọng điểm, các địa bàn chiến lược. Đó là những vùng, địa bàn trọng yếu về kinh tế xã hội và quốc phòng - an ninh của đất nước cả trước mắt cũng như lâu dài.
* Vùng kinh tế trọng điểm:
- Đây là các vùng có tiềm năng lớn cả về nông nghiệp, công nghiệp, ngư
nghiệp, lâm nghiệp và giao lưu quốc tế, có nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan
trọng; là vùng đóng góp chủ yếu trong tổng thu nhập quốc dân của cả nước, có mức
tăng trưởng bằng 1,2 đến 1,4 lần mức tăng trưởng của cả nước; là nơi có mật độ dân

cư và tính chất đơ thị hoá cao, gắn liền với các cơ sở kinh tế, các khu công nghiệp
tập trung và cũng là nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông...
- Vùng kinh tế trọng điểm thường nằm trong các khu vực phòng thủ và phịng thủ
then chốt của đất nước; nơi có nhiều mục tiêu quan trọng phải bảo vệ; đồng thời cũng là
những địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “diễn biến hịa
bình”, bạo loạn lật đổ đối với nước ta.
- Các vùng kinh tế trọng điềm, bao gồm:
+ Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
+ Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung.
+ Vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ.
- Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng - an
ninh ở vùng kinh tế trọng điểm là:
+ Xây dựng các đô thị, các khu công nghiệp quy mơ trung bình, bố trí
tương đối đều trên diện rộng, vừa thuận lợi cho công tác xây dựng, phát triển các
lĩnh vực, tiện quản lý, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trong thời
bình, vừa hạn chế hậu quả trước các địn tiến cơng bằng hoả lực của địch khi chiến
tranh xảy ra.
+ Xây dựng những vùng công nghiệp, dịch vụ phát triển cao gắn chặt chẽ với
quy hoạch phát triển vùng nông nghiệp hợp lý, bảo đảm làm động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ cho các vùng kinh tế khác; đồng thời là nơi cung ứng,
chi viện về hậu cần, kỹ thuật cho cả nước khi có chiến tranh.
+ Xây dựng các khu công nghiệp, đô thị ở ven biển; các dự án đầu tư nước
ngồi khơng làm ảnh hướng đến khu vực phòng thủ, đặc biệt ở những khu vục trọng
điểm về quốc phòng - an ninh.
+ Xây dựng các cơ sở sản xuất, các cơng trình kinh tế gắn với xây dựng thế
trận phịng thủ các cơng trình quốc phịng.
+ Xây dựng và bố trí lực lượng vũ trang trên các tuyến, các mục tiêu trọng
điểm (như: f9, f367 ở Tp. Hồ Chí Minh, f5 ở Tây Ninh; Quân đoàn 3 ở Tây
Nguyên...)
19



+ Quản lý chặt chẽ việc di dân tự do đến các khu công nghiệp, không để ảnh
hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và môi trường sinh thái (Cần làm
tốt việc đăng ký tạm trú, tạm vắng).
+ Có kế hoạch và biện pháp gắn xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế với
xây dựng kết cấu hạ tầng của nền quốc phòng tồn dân; gắn xây dựng các cơng trình
kinh tế với xây dựng các cơng trình phịng thủ dân sự, căn cứ hậu phương về lâu dài,
ở các thành phố, đô thị, các khu kinh tế tập trung; cần có quy hoạch từng bước xây
dựng hệ thống “Cơng trình ngầm lưỡng dụng” vừa đáp ứng ứng yêu cầu phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, vừa đáp ứng yêu cầu quốc phịng - an ninh
trong thời bình và sẵn sàng chuyển sang thời chiến.
Ví dụ:  Hệ thống cống hộp, thốt nước => Thành đường hầm khi có chiến
tranh.
 Các trục đường Bắc – Nam, Đông – Tây; kết hợp các trục đường
vành đai.
 Các nhà máy chế tạo máy, sản xuất phụ tùng, sản xuất bông băng
y tế, chế biến lương thực thực phẩm ... => Bảo đảm sẵn sàng đáp ứng
yêu cầu của nhiệm vụ quốc phòng khi cần thiết.
- Chú ý, khắc phục tình trạng chỉ chú ý quan tâm đến lợi thế, hiệu quả kinh tế
trước mắt mà quên đi nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và ngược lại khi bố trí các khu
vực phịng thủ, các cơng trình quốc phịng chỉ chú ý đến các yếu tố bảo đảm quốc
phòng, an ninh mà khơng tính đến lợi ích kinh tế.
* Xây dựng các địa bàn chiến lược:
Các địa bàn chiến lược ở nước ta bao gồm: Vùng miền núi Bắc Bộ, khu vực
Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Hiện nay, trong chiến lược bảo vệ tổ quốc
các khu vực đó vẫn sẽ là những điạ bàn chiến lược hết sức trọng yếu.
- Địa bàn miền núi phía Bắc: Có trên 2.500 km đường biên giới (1.500 km
với Trung Quốc, 1.000 km với Lào). Có 41 cửa khẩu (trong đó có 5 cửa khẩu quốc
tế, 36 cửa khẩu quốc gia); là vùng có vị trí chính trị, kinh tế quan trọng và là địa bàn

xung yếu về quốc phòng - an ninh.
+ Việc kết hợp giữa đầu tư phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh:
Chú trọng công tác định canh, định cư, điều chỉnh lại dân cư và lao động, nhất là địa
bàn vùng cao, dân tộc thiểu số và trên tuyến biên giới, khai thác có hiệu quả tiềm
năng, thế mạnh về lao động, đất đai, tài nguyên miền núi. Hình thành các cụm làng xã
chiến đấu, các khu vực phòng thủ vững chắc.
+ Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các tuyến đường nan quạt
từ Hà Nội đi các tỉnh phía Bắc gồm các Quốc lộ 2, 3, 6, 32, 70, trong đó tập trung ưu
tiên cho các tuyến đường từ Hà Nội đi các cửa khẩu quốc tế; xây dựng các tuyến
vành đai biên giới trên cơ sở phát triển các đô thị gắn với kinh tế của khẩu.
+ Để góp phần xây dựng “Thế trận lịng dân” trên địa bàn miền núi phía Bắc,
trong những năm trước mắt tập trung giúp đồng bào nghèo, các dân tộc đặc biệt khó
khăn giải quyết các vấn đề bức xúc, như: tình trạng thiếu lương thực, thiếu nước
sinh hoạt, thiếu tư liệu sản xuất, thiếu trường học, thiếu cơ sở chữa bệnh... từng bước
20



×