Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tieu luan , đề tài phân tích quan điểm của đảng ta về vị trí, vai trò và biện pháp xây dựng các tổ chức cơ sở đảng qua các đại hội đảng từ đại hội ii đến đại hộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.56 KB, 33 trang )

TIỂU LUẬN
Đề tài: Phân tích quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai trị và biện
pháp xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng qua các Đại hội Đảng từ Đại hội II
đến Đại hội X?
MỞ BÀI
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và
là Người rèn luyện nên bản lĩnh cách mạng Việt Nam, đã đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nối tiếp truyền thống cách mạng
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo công cuộc đổi mới bước đầu đạt được
những thành tựu vô cùng quan trọng; đưa đất nước Việt Nam từng bước sánh
vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới. Một trong những yếu tố quyết định
thành công của Đảng ta chính là năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở Đảng, Đảng phải không ngừng được củng cố và nâng cao để luôn
luôn đứng ở vị trí tiên phong, giữ vững được vai trị lãnh đạo của mình và ln
gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, với phong trào cách mạng.
Những năm gần đây, công tác xây dựng Đảng đã và đang bộc lộ những
bất cập, Đảng ta đã đánh giá: Có lúc, có nơi tình hình khá nghiêm trọng và có
thể trở thành nguy cơ đe dọa đến sức mạnh của Đảng, nếu khơng nhìn nhận một
cách nghiêm túc, tìm ra nguyên nhân và có được những giải pháp phù hợp thì
đây sẽ là mối nguy hại khó lường cho sự nghiệp tiến lên của Đảng. Chính vì lý
do trên nên trong hướng dẫn đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên phải dựa vào căn cứ và đối tượng đánh giá: Việc đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở đảng phải căn cứ vào yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở đảng theo Nghị quyết Đại hội X của Đảng; kết quả
thực hiện nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng theo quy định của Điều lệ Đảng, quy
định của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng và các nhiệm vụ
của cấp ủy cấp trên giao.


Trong lúc âm mưu của các thế lực thù địch là: Mong muốn xóa bỏ vai
trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Cho nên


hiện nay, hơn lúc nào hết, nhiệm vụ chính trị đặt ra cho Đảng Cộng sản Việt
Nam hết sức nặng nề, Đảng phải tập trung trí tuệ để đẩy lùi nguy cơ, tranh thủ
thời cơ đưa đất nước tiến lên, sớm thực hiện đạt mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Muốn đạt được kết quả đó, “Đảng
phải kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, giữ vững vai trị lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn,
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình” 1. Đảng ta
phải xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo phong trào cách mạng
ngay ở từng cơ sở Đảng, đây là vấn đề luôn được Đảng quan tâm sâu sắc hiện
nay.
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu. Với suy
nghĩ: Học đi đôi với hành, lý luận kết hợp với thực tiễn, với đề tài: “Phân tích quan
điểm của Đảng ta về vị trí, vai trị và biện pháp xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng
qua các Đại hội Đảng từ Đại hội II đến Đại hội X” sẽ giúp cho bản thân và các tổ
chức cơ sở đảng có dịp nhìn nhận lại q trình phát triển của tổ chức cơ sở đảng qua
các kỳ Đại hội. Đồng thời đề tài sau khi hòan thành còn là nguồn tài liệu phục vụ cho
các tổ chức cơ sở đảng và nhất là từng đảng viên hiểu sâu sắc hơn về vị trí, vai trị của
các tổ chức cơ sở đảng để từ đó có được những biện pháp đúng đắn hơn, phục vụ tốt
hơn nữa cho tổ chức cơ sở đảng của từng đơn vị địa phương trong thời gian tới.

. Báo cáo chính trị của ĐCS Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ VII, 6/1991.

1


I.Vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở đảng:
1.Khái niệm:
Tổ chức cơ sở đảng là tổ chức đảng ở đơn vị cơ sở.
Hình thức của tổ chức cơ sở đảng bao gồm: chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở.
Đơn vị cơ sở có từ 03 đảng viên chính thức đến 29 đảng viên thì lập chi bộ cơ

sở; đơn vị cơ sở có từ 30 đảng viên trở lên thì lập đảng bộ cơ sở, có các chi bộ
trực thuộc đảng ủy; Trường hợp lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ
30 đảng viên; lập đảng bộ bộ phận trực truộc đảng ủy cơ sở thì phải được cấp
ủy cấp trên trực tiếp đồng ý.
*Trong Điều lệ Đảng thông qua Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Điều 21, Chương V: nói về “Tổ chức cơ sở Đảng” có quy định rõ như sau:
-Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng,
là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
-Ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ 3
đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng; nếu chưa đủ 3 đảng viên
chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh họat ở tổ chức
cơ sở đảng thích hợp.
-tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
đảng trực thuộc.
-Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở,
có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
-Nhưng trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp
ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
+Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
+Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
+Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở.
2. Vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở đảng:


a.Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng.
Trong hệ thống tổ chức của Đảng, các tổ chức cơ sở đảng lập thành nền
tảng của Đảng. Nền tảng của Đảng có vững vàng, có sức chiến đấu cao, có năng
động và sáng tạo thì Đảng mới trở thành vơ địch, đứng vững trước mọi thử
thách, đưa cách mạng Việt Nam không ngừng tiến lên. Muốn cho cơ sở được

trong sạch, vững mạnh một cách đồng đều và thực sự là nền tảng vững chắc của
Đảng thì Đảng phải có đường lối, chính sách đúng đắn, và trong điều kiện Đảng
cầm quyền thì Đảng phải mạnh từ Trung ương đến các cấp và cơ sở, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, chính quyền phải quản lý tốt bằng pháp luật, các đồn thể
chính trị - xã hội phải thật sự phát huy được vai trị tích cực của mình. Tồn bộ
hoạt động của Đảng, chính quyền, đồn thể phải hướng về cơ sở, phục vụ nhanh
nhạy, kịp thời cho cơ sở.
* Vị trí của tổ chức cơ sở đảng.
Từ trước đến nay, Đảng ta vẫn khẳng định vị trí quan trọng và trách
nhiệm nặng nề của các tổ chức cơ sở đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Đông
Dương (tháng 10-1930) khẳng định chi bộ (nhà máy, công sở, nhà buôn, trường
học…) là “căn bản tổ chức của Đảng”. Điều lệ Đảng do Đại hội lần thứ I thông
qua chỉ rõ “Căn bản về đường lối tổ chức của Đảng là chi bộ sản nghiệp (nhà
máy, mỏ, đồn điền, công xưởng, công sở, trại lính…) tất cả đảng viên làm trong
một sản nghiệp đều phải vào trong chi bộ đó. Các đảng viên khác như trí thức,
tiểu thương gia, người đi ở… thì phải lấy chỗ ở của họ làm gốc mà tổ chức ra
chi bộ đường phố, ở các làng thì tổ chức ra chi bộ làng và xã”.
Điều lệ Đảng tại Đại hội lần II của Đảng dành một chương nói về tổ
chức cơ sở đảng với tiêu đề: chi bộ, nền tảng tổ chức của Đảng.Tuy lúc này,
chưa dùng danh từ “tổ chức cơ sở đảng nhưng đã quy định: “Ở những xã, xí
nghiệp hoặc khu phố mà số đảng viên q đơng thì tùy theo quan hệ về kinh tế,
địa dư và tùy theo số đảng viên mà tổ chức ra nhiều chi bộ” (Điều 2).


Để có một danh từ thống nhất cho chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở có nhiều
chi bộ, Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ IV gọi các chi bộ, đảng
bộ cơ sở bằng một danh từ chung là tổ chức cơ sở đảng (tức là tổ chức đảng ở
đơn vị cơ sở). Để tồn Đảng hiểu thống nhất về vị trí và tầm quan trọng của tổ
chức cơ sở đảng, Điều lệ Đảng lúc này dành phần đầu của Điều 30 (chương V):
“Tổ chức cơ sở đảng” để nói về vị trí và tầm quan trọng của tổ chức cơ sở đảng:

“Các tổ chức cơ sở đảng lập thành nền tảng của Đảng, nối liền Đảng với các cơ
quan lãnh đạo cấp trên của Đảng với quần chúng cơng nhân, nơng dân, trí thức
và các tầng lớp nhân dân lao động khác, là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp và
sàng lọc đảng viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi trực tiếp đưa đường lối,
chính sách của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối, chính
sách ấy”.
Các điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần V, VI vẫn giữ nguyên,
đến Đại hội lần VII, VIII đã viết tóm gọn lại: “các chi bộ, đảng bộ cơ sở (gọi
chung là tổ chức cơ sở đảng) lập thành nền tảng của Đảng” (Đại hội VII) hoặc
“Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở” (Đại hội VIII, Đại hội IX và Đại hội X).
b. Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Khi được xác định là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở: Tổ chức cơ sở
đảng lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, sự
nghiệp, quốc phịng, an ninh, các lĩnh vực của đời sống xã hội, các tầng lớp
nhân dân ở cơ sở, đảm bảo mọi tổ chức, mọi họat động ở cơ sở theo đúng định
hướng chính trị của Đảng.
Sau khi được xác định là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở thì tổ chức
cơ sở đảng tiến hành các họat động xây dựng nội bộ Đảng. Lúc này tổ chức cơ
sở đảng trực tiếp tiến hành các họat động củng cố, kiện tịan tổ chức, cơng tác
cán bộ, cơng tác đảng viên, thực hiện các nguyên tắc, chế độ sinh họat đảng,


trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, tham gia
xây dựng nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên.
*Tổ chức của tổ chức cơ sở đảng.
Cũng theo nguyên tắc chung (lãnh thổ - sản xuất). Đảng ta xây dựng hệ
thống tổ chức cơ sở đảng theo đơn vị lãnh thổ cơ sở (xã, phường, thị trấn) và
theo đơn vị sản xuất và nơi làm việc (hay là sản nghiệp: xí nghiệp, cơng xưởng,
công trường, nông trường, lâm trường; bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu

khao hoc, cơ quan…) ở những đơn vị cơ sở có từ 3 đảng viên chính thức thì gọi
là chi bộ dự bị theo quy định tại các điều lệ Đảng từ Đại hội lần thứ IV đến Đại
hội lần thứ VI). Từ Đại hội lần thứ II, nơi đơn vị cơ sở có đơng đảng viên (trên
70 đảng viên) thì chia ra làm nhiều chi bộ theo đơn vị sản xuất, cơng tác (như
phân xưởng, ở xí nghiệp, trường học, bệnh viện, hợp tác xã trong một xã, vụ
trong một cơ quan…) hay theo nơi ở (lãnh thổ) như thôn ở xã… Để bảo đảm
sinh hoạt dân chủ trong đảng bộ cơ sở, bảo đảm nâng cao chất lượng sinh hoạt
đảng và chất lượng lãnh đạo của chi bộ phù hợp với sự trưởng thành của Đảng
và sự phát triển của nhiệm vụ, Đại hội lần thứ III lấy mức trên 50 đảng viên và
từ Đại hội lần thứ IV đến nay lấy mức trên 30 đảng viên trong một cơ sở để
chia tổ chức cơ sở thành nhiều chi bộ. Do số lượng đảng viên ngày càng nhiều,
Đại hội lần thứ III cho phép trong phạm vi một đơn vị cơ sở, nếu có q đơng
đảng viên ở bộ phận đơn vị cơ sở (phân xưởng, khoa, vụ…) thì sau khi được
cấp trên của tổ chức cơ sở đồng ý có thể chia ra làm nhiều chi bộ, trên các chi
bộ có liên chi ủy (liên chi ủy phân xưởng, khoa…), trên liên chi ủy là đảng ủy
cơ sở. Đến Đại hội lần thứ IV, cụm từ liên chi ủy được đổi thành đảng ủy bộ
phận để thể hiện đúng tính chất một ban chấp hành của một tổ chức đảng thống
nhất (đảng bộ bộ phận) khơng phải là hình thức liên hiệp giữa các chi ủy.
Các tổ chức cơ sở đảng bao gồm cả chi bộ cơ sở, các đảng bộ bộ phận,
các chi bộ dưới đảng ủy mở đại hội đảng viên hay đại hội đại biểu để cử ra ban


chấp hành của tổ chức cơ sở đảng, của đảng bộ bộ phận, các chi bộ gọi tắt là
đảng ủy, chi ủy cơ sở, đảng ủy bộ phận, chi ủy.
Các đại hội đảng viên hay đại hội đại biểu của tổ chức cơ sở đảng, của
đảng ủy bộ phận hay của chi bộ theo quy định của các điều lệ Đảng nói chung
có một số nhiệm vụ sau: thảo luận báo cáo của ban chấp hành về việc thực hiện
nghị quyết của đại hội nhiệm kỳ qua, bàn và quyết định nhiệm vụ, chủ trương
công tác nhiệm kỳ tới; thảo luận các đề án đại hội hoặc các vấn đề do cấp ủy đề
ra và bầu đại biểu đi dự đại hội cấp trên nếu có.

Ban chấp hành đảng bộ cơ sở, đảng bộ bộ phận, chi ủy lãnh đạo các mặt
công tác giữa hai kỳ đại hội (hoặc hội nghị chi bộ, đối với chi ủy), cử bí thư,
phó bí thư, ban thường vụ đảng ủy (nếu có). Chi bộ đông đảng viên được chia
làm nhiều tổ đảng; tổ đảng có tổ trưởng, nếu cần có thể có tổ phó.
Nhìn chung, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bắt nguồn và
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng ở
cơ sở. Đảng Cộng sản Việt Nam sau khi được thành lập cho đến nay đã liên tiếp
đem lại những thắng lợi vô cùng to lớn. Với những thành tích đó, chính là nhờ
Đảng ta ln nỗ lực phấn đấu làm trịn vai trị, trách nhiệm của mình: là người
chiến sỹ tiên phong lãnh đạo quần chúng ở cơ sở hịan thành nhiệm vụ xuất sắc.
Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã khẳng
định: “Tất cả các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở điều nắm vững và thực hiện đúng
chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đòan thể, các tổ
chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở,
nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, bng lỏng vai trị
lãnh đạo”2. Trên cơ sở đó Đảng ta tiếp tục phát huy vai trị chủ đợng sáng tạo
của cơ sở, mở rộng dân chủ XHCN, các tổ chức cơ sở Đảng đóng vai trị hết
sức quan trọng, thật sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các tập thể lao động
và là người kiểm tra mọi họat động của cơ quan. Chính điều này thể hiện rõ vị
2

Báo cáo chính trị ĐCS VN: Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ IX, 4/2001.


trí, vai trị của tổ chức cơ sở Đảng trong hệ thống tổ chức và trong mọi họat
động của Đảng.
Không phải đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mới nói đến vị trí,
vai trị của tổ chức cơ sở Đảng, mà trong kho tàn lý luận của Đảng Cộng sản và
phong trào công nhân quốc tế do Mác và Aênghen sáng lập ngay lúc đầu đã
khẳng định: “… Biến mỗi chi bộ của mình thành trung tâm và hạt nhân của các

hội liên hiệp công nhân”3. Đến thời kỳ Lênin: Trước cũng như sau cách mạng
tháng Mười năm 1917, trong q trình xây dựng Đảng Bơnsêvích Nga, Lênin
đã khẳng định cụ thể hơn. Người xác định: “Những chi bộ ấy phải liên hệ chặt
chẽ với nhau và với Trung ương Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải
làm công tác cổ động, tuyên truyền, công tác tổ chức… với tất cả mọi lọai tầng
lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thông qua công tác mn hình
mn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng
một cách có hệ thống”4. Đến khi cách mạng thành công Lênin chuyển hướng
chỉ đạo là: “Phải đem hết sức lực, đem hết chú ý để tạo ra, để phát huy một tính
chủ động lớn hơn ở cơ sở”5.
Tiếp tục khẳng định lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chi bộ là nền
móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt. Trong giai đọan cách mạng mới
của Đảng ta, hiện tại đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với chất
lượng của các tổ chức cơ sở Đảng. Có nghĩa là trong giai đọan này cần nhìn
nhận lại chất lượng mà các tổ chức cơ sở Đảng họat động trong thời gian quan
và những ngày sắp tới. Chính vì thế cho nên trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã nêu: “Trong điều kiện chuyển
sang thực hiện cơ chế quản lý mới, phát huy vai trò, chủ trương, sáng tạo của
các đơn vị kinh tế cơ sở, mở rộng dân chủ XHCN, các tổ chức cơ sở Đảng phải
thật sự làm hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các tập thể lao động …” với vai trị
đó, các đảng bộ, chi bộ cơ sở nói chung phải nâng cao chất lượng trong họat
động thực tiễn của mình; đảm bảo cho cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thục hiện trên thực tế ở cơ sở. Đồng thời, từ thực tiễn cuộc sống sẽ có
ý kiến đóng góp với Đảng và Nhà nước để giúp cho Đảng hòan chỉnh đường
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật. Nhằm xây dựng tổ chức Đảng ngày càng
vững mạnh.
C.Mác & Ph Aênghen: Tòan tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1993. t7, tr 348.
V.I. Lênin, tòan tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978,t 41,tr 232.
5
V.I. Lênin, tòan tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978,t 43,tr 279.

3
4


Như vậy các vị tiền bối điều khẳng định vị trí và vai trị rất quan trọng
của tổ chức cơ sở đảng, là hạt nhân của phong trào cách mạng ở mỗi cơ sở, là
nơi gắn bó giữa Đảng với quần chúng nhân dân … Trên cơ sở đó, khi tiếp thu
và vận dụng Bác Hồ của chúng ta đã dạy: “ Chi bộ là nền nóng của Đảng, chi
bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt” và quan điểm đó đã xuyên suốt quá trình xây dựng và
phát triển cua Đảng từ Đại hội II đến Đại hội X. Công cuộc đổi mới tòan diện
đất nước ngày nay đang đặt ra những yêu cầu về chất lượng phải cao đối với
các tổ chức cơ sở đảng. Những thành tựu liên tiếp đạt được trong những năm
qua đã chứng tỏ vai trị lãnh đạo của Đảng bước đầu thành cơng trong sự nghiệp
cách mạng XHCN, nhằm phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các đơn vị
kinh tế cơ sở, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức cơ sở đảng phải
thực sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các tập thể lao động…
Một lần nữa chúng ta có thể khẳng định: Mỗi việc làm của tổ chức cơ sở
đảng điều đem lại ảnh hưởng rất lớn đến quần chúng nhân dân. Trong đó tổ
chức cơ sở đảng vững mạnh là điều kiện tiên quyết, quan trọng trong quá trình
tồn tại và tiếp tục phát triển của tổ chức cơ sở đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
II. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng:
Tùy theo sự phát triển cảu cách mạng, Điều lệ Đảng qua các thời kỳ đã
có nhiều điểm bổ sung vào nhiệm vụ của tổ chức cơ sở. Trong thời kỳ Đảng
hoạt động bí mật cho đến Cách mạng tháng Tám, tổ chức cơ sở thường chỉ gồm
mọt chi bộ. Nhiệm vụ của chi bộ do Điều lệ Đảng tháng 10 – 1930 của Đảng
Cộng sản Đông Dương quy định là:
a/ Tuyên truyền và cổ động cộng sản như một cách có kế hoạch, thực
hành khẩu hiệu và nghị quyết của Đảng trong quần chúng công nông cho họ
theo Đảng.



b/ phải lấy lực lượng của Đảng mà tham gia các cuộc tranh đấu chính trị
và kinh tế của cơng nông, phải lấy ý nghĩa cách mạng giai cấp tranh đấu mà
thảo luận những điều yêu cầu của họ mà tổ chức hành động cách mạng của
quần chúng để giành lấy quyền lãnh đạo. Phải ra sức làm việc để đem công
nông tham gia vào các cuộc tranh đấu cách mạng của vơ sản giai cấp ở xứ mình
và trên thế giới.
c/ Tìm thêm và huấn luyện đảng viên mới, phát đồ tuyên truyền của
Đảng; huấn luyện đảng viên và cơng nơng về mặt văn hóa và chánh trị”.
Cùng với việc quy định nhiệm vụ của chi bộ, trong thời điểm này, Điều
lệ Đảng cho phép nếu chi bộ có đơng đảng viên thì cử ra ban cán sự và ban cán
sự cử ra thư ký. Ban cán sự được giao nhiệm vụ: làm việc đảng hàng ngày;
“làm mọi việc trong chi bộ, phân phối công việc cho đảng viên trong chi bộ,
như tuyên truyền, phân phát đồ in; làm việc đảng đồn trong nơng cơng hội,
làm việc phụ nữ…”
Điều lệ Đại hội lần thứ I quy định các nhiệm vụ của chi bộ là:
a/ Hăng hái thảo luận chương trình hành động, điều lệ, các nghị quyết
chung về đường lối chính trị và các tài liệu tuyên truyền của Đảng.
b/ Phải chính trị huấn luyện cho đảng viên mới và quần chúng cảm tình
để nâng cao trình độ chính trị của họ.
c/ Phải xuất bản báo sản nghiệp.
d/ Phải lấy lực lượng đảng mà tham gia và tổ chức ra các cuộc tranh đấu
kinh tế và kinh tế quần chúng để thực hiện nghị quyết của Đảng, để giữ quyền
lãnh đạo cho vô sản giai cấp.
e/ Phải giúp khu, thành, tỉnh ủy trong công tác tổ chức.
g/ Phải định kế hoạch cơng tác hàng ngày cho tồn bộ chi bộ, đảng viên
và đoàn viên.
Rõ ràng qua các nhiệm vụ trên đây của chi bộ có thể thấy trong thời kỳ
Đảng chưa nắm chính quyền, cơng tác tun truyền, vận động quần chúng đấu



tranh cách mạng gắn với giành quyền lợi hàng ngày của quần chúng và công tác
đối với đảng viên, phát triển đảng viên mới, xây dựng ý thức giác ngộ chính trị
cho đảng viên và đồn viên đã được Đảng coi trọng trong toàn bộ hoạt động của
chi bộ.
Thực hiện tốt nhiệm vụ của chi bộ lúc bấy giờ có tầm quan trọng lớn lao
đối với sứ mệnh lịch sử của Đảng lúc đó là đánh đổ đế quốc và tay sai giành
chính quyền, và đối với sự nghiệp xây dựng Đảng ta.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Điều lệ Đảng do Đại hội lần thứ II
thông qua đánh dấu bước ngoặt mới về hoạt động của Đảng trong điều kiện
chính quyền đã về tay nhân dân. Nhà nước cịn non trẻ đã phải bắt tay vào quản
lý đất nước trong hồn cảnh có chiến tranh. Đảng trở thành đảng cầm quyền đã
dưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từng bước giành thắng lợi. Lúc này
các tổ chức cơ sở đảng nói chung chỉ gồm một chi bộ, Điều lệ Đảng quy định
bốn nhiệm vụ của chi bộ là:
a/ Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, tuyên truyền chủ
trương, chính sách của Đảng và của Chính phủ; lãnh đạo quần chúng nơi mình
hoạt động thực hiện chủ trương, chính sách ấy.
b/ Phân phối và kiểm tra công tác của đảng viên, kết nạp đảng viên mới,
thu đảng phí, thi hành kỷ luật với các đảng viên vi phạm.
c/ Thảo luận và tham gia việc quyết định các vấn đề thuộc về đường lối,
chính sách của Đảng.
d/ Thường lệ báo cáo tình hình chung ở địa phương mình lên cấp trên.
Bốn nhiệm vụ trên đây của chi bộ nói lên, một mặt, Đảng rất quan tâm
đến ý thức chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và công tác tuyên truyền,
vận động nâng cao giác ngộ quần chúng của chi bộ nhằm đưa cuộc kháng chiến
đến thắng lợi cuối cùng, qua đó mà phát triển, sàng lọc đội ngũ đảng viên; mặt
khác khẳng định trong thực tế, chi bộ, tổ chức cơ sở đảng thực sự là nền tảng
của Đảng, là cầu nối liền Đảng với quần chúng. Đảng thực sự coi trọng ý kiến



của đông đảo đảng viên tham gia xây dựng, quyết định các vấn đề về đường lối,
chính sách chung của Đảng, quan tâm đến tình hình thực tế được phản ánh từ
chi bộ lên.
Đại hội lần thứ III của Đảng diễn ra sau khi miền Bắc được giải phóng,
sự nghiệp xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa làm hậu phương lớn của tiền
tuyến lớn và đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước là
hai nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp. Lúc này, các tổ chức cơ sở đảng ở
miền Bắc nói chung đã có nhiều chi bộ, điều lệ Đảng quy định nhiệm vụ của
các tổ chức cơ sở đảng là:
1/ Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, tuyên truyền, tổ chức
quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
2/ Phản ánh lên cấp trên yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, hết sức
chăm lo đến việc nâng cao mức sống vật chất và văn hóa của quần chúng.
3/ Lãnh đạo quần chúng phát huy tính sáng tạo, tích cực tham gia sinh
hoạt chính trị, củng cố kỷ luật lao động, ra sức thi đua yêu nước, bảo đảm hoàn
thành vượt mức kế hoach sản xuất, kế hoạch công tác.
4/ Phân phối và kiểm tra công tác của đảng viên, kết nạp đảng viên, thu
đảng phí, thi hành kỷ luật đảng viên, tổ chức cho đảng viên học tập chủ nghĩa
Mác – Lênin, học tập đường lối chính trị của Đảng, nâng cao trình độ chính trị
và năng lực cơng tác của đảng viên, tăng cường đoàn kết thống nhất trong đảng.
5/ Mở rộng tự phê bình và phê bình, phát huy ưu điểm, vạch trần khuyết
điểm, sai lầm trong công tác, đấu tranh chống tất cả những hiện tượng phạm
pháp, trái kỷ luật, quan liêu, lãng phí, tham ơ.
6/ Thảo luận và tham gia ý kiến vào việc quyết định các vấn đề thuộc về
đường lối, chính sách chung của Đảng.
7/ Bồi dưỡng ý chí phấn đấu, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho
đảng viên và quần chúng.



Như vậy, trên cơ sở bốn nhiệm vụ ghi trong điều lệ cũ, điều lệ mới bổ
sung thêm ba nhiệm vụ 2, 3 và 7 làm rõ hơn tính bức thiết của việc thắt chặt
mối quan hệ giữa Đảng và đảng viên với quần chúng, sự quan tâm đến đời sống
của quần chúng, nêu cao phê bình và tự phê bình trong Đảng nhằm bồi dưỡng ý
chí phấn đấu, tinh thần cảnh giác cho đảng viên, đấu tranh chống mọi biểu hiện
tiêu cực, nhất là tệ quan liêu, lãng phí, tham ô, trong điều kiện Đảng cầm quyền,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Điều lệ của Đảng nhân dân cách mạng miền Nam lúc này quy định cho
chi bộ cơ sở các nhiệm vụ sau đây:
1/ Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, tuyên truyền, tổ chức và
lãnh đạo quần chúng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, thường lệ báo
cáo tình hình chung ở địa phương lên cấp trên.
2/ Tìm hiểu tình hình, nguyện vọng, ý kiến của quần chúng. Căn cứ vào
tình hình cụ thể của địa phương và quyền lợi thiết thân của quần chúng mà tổ
chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giành quyền lợi
trước mắt và lâu dài cho quần chúng, phát triển ảnh hưởng của Đảng trong quần
chúng.
3/ Giáo dục đảng viên; phân phối kiểm tra cơng tác của đảng viên; tiến
hành phê bình và tự phê bình; thu đảng phí; kết nạp đảng viên mới; thi hành kỷ
luật với đảng viên.
4/ Thường xuyên kiểm tra, đơn đốc việc giữ bí mật, bảo vệ Đảng, nâng
cao cảnh giác cách mạng của đảng viên và quần chúng.
5/ Thảo luận và tham gia ý kiến vào việc quyết định các vấn đề thuộc về
đường lối, chính sách chung của Đảng.
6/ Giữ vững liên lạc với cấp trên, khi bị mất liên lạc phải tiếp tục công tác
và tìm bắt liên lạc với Đảng.
Những nhiệm vụ trên đây thể hiện hoàn cảnh đấu tranh gian khổ với kẻ
thù xâm lược để giành thắng lợi cho cách mạng, cho quyền lợi trước mắt của



quần chúng và để bảo vệ tổ chức đảng, duy trì mối liên hệ giữa tổ chức đảng ở
cơ sở với cấp trên và bảo đảm sự hoạt động của tổ chức cơ sở đảng trong mọi
tình huống.
Bắt đầu từ Đại hội lần thứ III, điều lệ Đảng có quy định rõ điểm khác
nhau về trách nhiệm lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng ở các xí nghiệp, xã,
thị trấn, khu phố, bệnh viện, trường học, đơn vị quân đội nhân dân… với trách
nhiệm này của các tổ chức cơ sở đảng ở cơ quan. Các tổ chức cơ sở đảng nói
chung “phải lãnh đạo và kiểm tra tổ chức chính quyền và tổ chức quần chúng
trong đơn vị mình, tích cực thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của tổ chức
đảng và cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời phải tích cực cải tiến cơng tác của
đơn vị mình”.
Cịn các tổ chức cơ sở đảng ở cơ quan “vì điều kiện đặc biệt của cơng tác
cơ quan, tổ chức cơ sở đảng ở cơ quan không thể lãnh đạo và kiểm tra công tác
của cơ quan được nhưng phải lãnh đạo tình hình tư tưởng và chính trị của đảng
viên trong cơ quan, tăng cường kỷ luật công tác ở cơ quan, chống bệnh quan
liêu. Khi thấy cơng tác cơ quan có khuyết điểm thì cần kịp thời phản ánh cho
người phụ trách cơ quan và báo cáo lên tổ chức đảng cấp trên”. Ở đay có sự
phân biệt phạm vi lãnh đạo và kiểm tra của hai loại hình tổ chức cơ sở đảng:
một hình thức lãnh đạo tồn diện, cịn loại khác ở cơ quan có mặt khơng tồn
diện với lí do chính là ở các đơn vị cơ sở mà tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm
lãnh đạo tồn diện (như xí nghiệp, xã , trường học…) các quyết định của thủ
trưởng, của chính quyền ở đơn vị có giá trị thi hành đối với tồn đơn vị; cịn các
quyết định của thủ trưởng cơ quan có tác dụng thi hành vượt ra ngoài phạm vi
cơ quan (hoặc trong cả nước, đối với một địa phương hay cả một khu vực),
đảng bộ cơ quan khơng thể có quyết định về cơng tác chuyên môn của cơ quan
trong phạm vi này. Ở đây có thể nhận thấy lúc bấy giờ chúng ta chưa phân biệt
được rõ tác dụng của các quyết định của thủ trưởng cơ quan trong việc thực
hiện chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước “được thực hiện trong



phạm vi cơ quan” mà điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ IV cho
phép đảng bộ cơ quan có quyền kiểm tra và uốn nắn các sai xót (với quan điểm
kiểm tra là một chức năng lãnh đạo), khác với các quyết định khác của thủ
trưởng cơ quan mà phạm vi thi hành vượt ra khỏi cơ quan. Đối với các quyết
định này, tổ chức cơ sở đảng chỉ có quyền “kiểm tra đảng viên kể cả đảng viên
là thủ trưởng quán triệt và chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết
của Đảng” để góp phần giúp cho đảng viên đó kịp thời phát huy ưu điểm, sửa
chữa các thiếu xót và báo cáo các vấn đề xét thấy cần lên tổ chức đảng cấp trên
như các điều lệ được thông qua các Đại hội lần thứ IV, V và VI của Đảng đã
quy định.
Đại hội lần thứ IV đã tổng kết năm bài học kinh nghiệm về tổ chức cơ sở
đảng và từ đó rút ra năm yêu cầu, đồng thời cũng là năm bài học kinh nghiệm
đối với tổ chức cơ sở đảng. Những bài học đó được khái quát lại như sau:
a/ Trước hết, các chi bộ, đảng bộ cơ sở pải nắm vững đường lối, chính
sách của Đảng, nắm vững tình hình, đặc điểm của đơn vị; trong từng thời gian,
đề ra những nhiệm vụ, phương hướng, mục tiêu, biện pháp chính xác, bảo đảm
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng…
b/ Các chi bộ, đảng bộ cơ sở phải phát huy mạnh mẽ và thực sự bảo đảm
quyền làm chủ tập thể của quần chúng lao động, kiện tồn tổ chức và phối hợp
hoạt động của chính quyền, của các đoàn thêt quần chúng tạo nên sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở dưới sự lãnh đạo của chi ủy, đảng ủy.
Sự lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ phải nhằm vào mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ
phong trào quàn chúng tiến hành ba cuộc cách mạng, bảo đảm hoàn thành
nhiệm vụ của đơn vị cơ sở…
c/ Phải nắm chắc khu trung tâm của công tác củng cố cơ sở đảng là củng
cố chi bộ, thường xuyên giữ vững chế độ và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi
bộ, làm cho chi bộ, tổ chức tế bào đầu tiên của Đảng thực sự là hạt nhân lãnh



đạo chính trị, là đơn vị chiến đấu ở cơ sở và là trường học giáo dục, rèn luyện
đảng viên…
d/ Phải bố trí bồi dưỡng tốt đội ngũ cốt cán, làm cho đội ngũ ấy thực sự
vững vàng, gương mẫu, có năng lực lãnh đạo văn hóa, kinh tế chuyên mơn… và
biết giữ gìn đồn kết nội bộ… bồi dưỡng bố trí đội ngũ cán bộ cơ sở phải được
coi là biện pháp hết sức quan trọng để củng cố cơ sở đảng, nâng cao chất lượng
chi bộ, đảng bộ cơ sở.
đ/ Phải vừa phát huy tính chủ động và sáng tạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở,
vừa tăng cường sự chỉ đạo cụ thể của cấp trên.
Xuất phát từ sự phân tích những bài học kinh nghiệm trên đây về xây
dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng và căn cứ vào những yêu cầu của nhiệm vụ
lãnh đạo kinh tế, đời sống và các mặt công tác trong thời kỳ mới mà Đại hội lần
thứ IV đã quyết định bổ sung, sắp xếp lại những nhiệm vụ của tổ chức cơ sở
đảng thành năm nhiệm vụ cơ bản sau đây:
1/ Theo chức trách lãnh đạo của mình, bảo đảm cho đường lối, chính
sách của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, các chủ trương, chính sách
và pháp luật của Nhà nước được thực hiện ở cơ sở.
Các tổ chức cơ sở đảng nói chung phải đặt trọng tâm sự lãnh đạo của
mình vào việc hồn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước, khơng
ngừng củng cố và hồn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiến hành cải
tạo xã hội chủ nghĩa (nơi chưa tiến hành); tăng cương công tác quản lý, hiệu
quả chiến đấu, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của quần
chúng.
2/ Bảo đảm quyền làm chủ tập thể của quần chúng, thắt chặt mối liên hệ
giữa Đảng với quần chúng, phát huy tính tích cực và tính sáng tạo của quần
chúng. Các tổ chức cơ sở đảng phải chăm lo củng cố tổ chức và phát huy vai trị
của chính quyền và của các đoàn thể quần chúng, xây dựng và nắm vững lực
lượng vũ trang nhân dân, lực lượng an ninh nhân dân của địa phương, đơn vị;



khơng ngừng nâng cao giác ngộ và trình độ mọi mặt của quần chúng, tuyên
truyền vận động quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đanhgr
và Nhà nước chấp hành pháp luật của nhà nước.
3/ Thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng về mọi mặt: chính trị,
tư tưởng và tổ chức, ra sức xây dựng các đảng ủy, các chi bộ thực sự thành hạt
nhân lãnh đạo chính trị của Đảng ở cơ sở.
Thường xuyê giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt của đảng viên;
tăng cường đoàn kết nội bộ, thực hiện tự phê bình và phê bình; phân cơng và
kiểm tra cơng tác của đảng viên, quản lý chặt chẽ đảng viên, kết nạp đảng viên
mới thi hành kỷ luật nghiêm minh của Đảng.
4/ Ra sức xây dựng và cùn với cấp trên xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có
phẩm chất có năng lực có kiến thức văn hóa chun mơn kỹ thuật nghiệp vụ và
quản lý tốt đội ngũ cán bộ đó.
5/ Thảo luận và tham gia ý kiến vào việc quyết định các vấn đề thuộc về
đường lối, chính sách chung của Đảng; tập hợp ý kiến kinh nghiệm sáng tạo của
cán bộ đảng viên và quần chúng để phản ánh lên cấp trên.
Các tổ chức cơ sở đảng phải theo đúng chế độ báo cáo tình hình chung và
cơng việc đã làm lên cấp trên thu đảng phí và nộp tài chính lên trên theo quy
định.
Năm nhiệm vụ trên đây của tổ chức cơ sở đảng phản ánh năm mối liên hệ
mà tổ chức cơ sở đảng phải bảo đảm lãnh đạo và thực hiện tốt để trở thành dảng
bộ tốt: mọt là, đối với nhiệm vụ chính trị của Đảng, của địa phương đơn vị; hai
là, đối với quần chúng trong điều kiện một đảng cầm quyền; ba là, đối với xây
dựng nội bộ đảng; bốn là, đối với việc xây dựng đội ngũ cốt cán ở cơ sở; năm
là, đối với việc phát huy tính tích cực chủ động của cơ sở nhằm đóng góp vào
sự lãnh đạo chung của Đảng của cấp trên.
Do tính chất cong tác quyền hạn nhiệm vụ của các tổ chức cơ sở đảng ở
từng loại cơ sở có những đặc điểm khác nhau nên điều lệ Đảng lần này phát



triển thêm một nội dung là các “tổ chức đảng phải theo đúng chức trách và
cương vị lãnh đạo của mình mà quyết định nhiệm vụ các chủ trương biện pháp
chủ yếu và toàn diện, nhằm thúc đẩy các mặt công tác trong đơn vị, và kiểm tra
việc thực hiện, nhưng khơng bao biện, làm thay cơng việc của chính quyền và
tổ chức quần chúng. Đối với các vấn đề về phương hướng, nhiệm vụ, chủ
trương, biện pháp thuộc quyền quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, tổ
chức đảng đóng góp ý kiến với cấp trên và phải bàn biện pháp chấp hành.
Ở những đơn vị thực hiện chế độ thủ trưởng thì tổ chức đảng phải phát
huy đầy đủ chế độ đó. Tổ chức đảng khơng quyết định các vấn đề thuộc phạm
vi chỉ huy sản xuất, kinh doanh và quản lý công việc hàng ngày của thủ trưởng
và cơ quan quản lý” (trích Điều 36).
Cũng tại điều này, điều lệ Đảng cũng quy định chức trách lãnh đạo của
đảng bộ cơ quan: không quyết định chủ trương, biện pháp về công atcs chuyên
môn của cơ quan, nhưng có trách nhiệm đóng góp ý kiến về việc xây dựng kế
hoạch công tác hằng năm và việc thực hiện chủi trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước trong cơ quan, tăng cường kỷ luật công tác, động viên cải tiến
cơng tác của cơ quan, tích cực đấu tranh chống quan liêu… phải giám sát tình
hình đảng viên trong cơ quan kể cả người phụ trách thực hiện đường lối chính
sách và pháp luật.
Chính từ quy định này mà Đại hội lần thứ V và Đại hội lần thứ VI đã
nâng lên chức năng kiểm tra của đảng bộ cơ quan như đã được nói ở phần trên
về việc lập ban cán sự đảng ở các bộ, ty, sở. Sau khi có Nghị quyết số 10/NQTW(tháng 8 – 1978) về việc kiện toàn tổ chức, cải tiến cách làm việc của Ban
chấp hành trung ương khóa IV, trong đó có chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, giao quyền tự chủ về tài chính cho đơn vị cơ sở, nhưng lúc
này vẫn chưa có văn bản cụ thể của nhừ nước về nọi dung quyền tự chủ của đơn
vị quốc doanh một cách tương đối rõ ràng, điều lệ Đảng do Đại hội lần thứ V
thông qua vẫn giữ nguyên nội dung Điều 35 của điều lệ trước đó về nhiệm vụ


của tổ chức cơ sở đảng (tại Điều 34 của điều lệ trước). Tuy vậy tại Điều 35 điều

lệ lần này đã xác định lại chức trách lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở các đơn
vị cơ sở thực hiện chế độ thủ trưởng và ở các cơ quan.
Tiếp tục khẳng định lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chi bộ là nền
móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt. Trong giai đọan cách mạng mới
của Đảng ta, hiện tại đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với chất
lượng của các tổ chức cơ sở Đảng. Có nghĩa là trong giai đọan này cần nhìn
nhận lại chất lượng mà các tổ chức cơ sở Đảng họat động trong thời gian quan
và những ngày sắp tới. Chính vì thế cho nên trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã nêu: “Trong điều kiện
chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý mới, phát huy vai trò, chủ trương, sáng
tạo của các đơn vị kinh tế cơ sở, mở rộng dân chủ XHCN, các tổ chức cơ sở
Đảng phải thật sự làm hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các tập thể lao động …”
với vai trị đó, các đảng bộ, chi bộ cơ sở nói chung phải nâng cao chất lượng
trong họat động thực tiễn của mình; đảm bảo cho cơng cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thục hiện trên thực tế ở cơ sở. Đồng thời, từ thực tiễn
cuộc sống sẽ có ý kiến đóng góp với Đảng và Nhà nước để giúp cho Đảng hịan
chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật. Nhằm xây dựng tổ chức
Đảng ngày càng vững mạnh.
Sau Điều 34 quy định về trách nhiệm lãnh đạo mọi mặt (toàn diện) của
các tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị sản xuất kinh doanh như xí nghiệp, nông
trường…Điều 35 quy định thêm: ở những đơn vị sản xuất kinh doanh, viện
nghiên cứu, bệnh viên, trường học…thực hiện chế độ thủ trưởng, trong khi thực
hiện năm nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng, tổ chức đảng phải phát huy đầy đủ
chế độ thủ trưởng.
Tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm kiểm tra hoạt động của cơ quan quản
lý và của người thủ trưởng bảo đảm cho đường lối chính sách các nghị quyết
của Đảng, pháp luật của nhà nước được quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh.
Qua kiểm tra cần rút ra những ưu điểm, khuyết điểm trong công tác của đơn vị,
nêu ra các vấn đề cần thiết giúp cho người thủ trưởng nghiên cứu để phát huy
hoặc bổ khuyết và đấu tranh chống các mặt tiêu cực, uốn nắn những việc làm

trái với nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước, tạo điều kiện phát huy
sức mạnh của đơn vị và nâng cao hiệu quả quản lý của người thủ trưởng.


Kế hoạch kinh tế - xã hội (hoặc chuyên môn nghiệp vụ) của đơn vị do
người thủ trưởng nghiên cứu đề nghị lên cấp trên. Tổ chức đảng phải theo
đường lối và quan điểm của Đảng để lãnh đạo, giáo dục đảng viên và quần
chúng tham gia xây dựng kế hoạch. Người thủ trưởng có trách nhiệm báo cáo
dự án kế hoạch để đảng ủy góp ý kiến và đề xuất các vấn đề cần thiết với cấp
trên trước khi cấp trên có thẩm quyền quyết định.
Tổ chức đảng khơng quyết định chỉ tiêu cụ thể của kế hoạch và các biện
pháp về kinh tế, kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ của người thủ trưởng, người
thủ trưởng phải chỉ đạo hàng ngày việc thực hiện kế hoạch theo hệ thống quản
lý của đơn vị.
Tổ chức đảng phải lãnh đạo các tổ chức của đảng, các đoàn thể trong đơn
vị và động viên, giáo dục đảng viên, quần chúng làm tốt trách nhiệm của mình
để bảo đảm cho kế hoạch của đơn vị. mệnh lệnh của người thủ trưởng được
thực hiện đầy đủ.
Phải lãnh đạo phong trào quần chúng thi đua thực hiện kế hoạch nhà
nước trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của
tập thể và lợi ích của người lao động. Phải lãnh đạo quần chúng làm tốt nghĩa
vụ của công dân và trách nhiệm đối với đơn vị, phát huy kinh nghiệm sáng tạo
của quần chúng, động vien quần chúng phát huy sáng kiến, phát hiện và sử
dụng tốt các tiềm năng về lao động, vật tư sẵn có của đơn vị, áp dụng các thành
quả của khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm tiến tiến vào sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm và thực hành tiết kiệm, bảo vệ của cơng và chống lãng phí
tham ơ.
Quyền hạn của đảng ủy cơ sở trong việc chọn đề bạt cán bộ do Ban chấp
hành trung ương quy định. Theo quy định của trung ương thì vấn đề đề bạt thi
hành kỷ luật cán bộ thuộc diện cấp trên quản lý cơng tác ở xí nghiệp như giám

đốc, phó giám đốc, cấp trên trước khi ra quyết định cần thảo luận với đảng ủy
cơ sở; đối với diện cán bộ giao cho giám đốc quyết định thì thuộc danh mục



×