Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Phân tích ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật đối với việc xác lập quan hệ pháp luật, thực hiện pháp luật, truy cứu trách nhiệm pháp lý và giáo dục pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.57 KB, 12 trang )

lOMoARcPSD|15978022

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT
Đề bài: Phân tích ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp
luật đối với việc xác lập quan hệ pháp luật, thực hiện
pháp luật, truy cứu trách nhiệm pháp lý và giáo dục
pháp luật.

Họ và tên: Nguyễn Phương Thảo
MSSV: 461042

Hà Nội, 2022


lOMoARcPSD|15978022

MỤC LỤC

MỤC LỤC....................................................................................................................................... 2
ĐẶT VẤN ĐỀ:.....................................................................................................3
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:......................................................................................3
Chương I: Một số vấn đề lý luận về văn bản quy phạm pháp luật....................3
1.1.Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật...................................................3
1.2.Những đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật......4
1.3.Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam.................................................................................5


Chương II: Ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật.......................................6
2.1.Xác lập quan hệ pháp luật........................................................................6
2.2.Thực hiện pháp luật..................................................................................7
2.3.Truy cứu trách nhiệm pháp lý..................................................................8
2.4.Giáo dục pháp luật....................................................................................8
Chương III: Giải pháp hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật.......................9
KẾT LUẬN.........................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................12


lOMoARcPSD|15978022

ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong đời sống xã hội hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật ngày càng
đóng vai trị quan trọng không thể tách rời trong hoạt động xã hội của con
người. Mọi giao dịch, mọi hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, từ
các lĩnh vực chính trị, quân sự đến lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội, văn hóa
trong phạm vi quốc tế, đều cần đến văn bản quy phạm pháp luật làm phương
tiện thông tin. Đặc biệt, văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng đối với việc xác lập quan hệ pháp luật; thực hiện pháp luật; truy cứu trách
nhiệm pháp lý và giáo dục pháp luật. Chính vì thế, Nhà nước cần đưa ra một số
chính sách, giải pháp đối với hệ thống pháp luật nói chung, cũng như văn bản
quy phạm pháp luật nói riêng nhằm hoàn thiện khung pháp lý, bảo đảm các
quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về văn bản quy phạm pháp luật
1.1.Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức thể hiện các quyết định pháp luật
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự và hình

thức nhất định, có chứa đựng các quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự chung)
nhằm điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định, được áp dụng nhiều lần
trong thực tiễn đời sống và việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật không
làm chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật1.
Theo quy định Luật Ban hành quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Văn
bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật, được ban
hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này,
1

Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB. ĐHQGHN, Năm 2015, Tr. 454.


lOMoARcPSD|15978022

quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp
dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả
nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực
hiện”2.

1.2.Những đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền theo luật định. Cụ thể, tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 2015 đã đưa ra quy định hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành bao gồm: Quốc
Hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ, Tổng Kiểm toán Nhà nước....
Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo đúng thẩm

quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự từ
khâu lập chương trình, soạn thảo, thẩm tra, thẩm định, lấy ý kiến đóng góp cho
dự thảo, cho đến thông quan, ký, công bố văn bản quy phạm pháp luật. Tất cả
đều phải tuân thủ đúng quy định luật định. Vì thế, mặc dù văn bản được ban
hành bởi chủ thể có thẩm quyền, nội dung hợp pháp nhưng trong quá trình xây
dựng và ban hành không tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thủ tục thì
cũng khơng thể là văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, trong nội dung văn bản quy phạm pháp luật có chứa đựng các quy
tắc xử sự chung có tính bắt buộc chung (quy phạm pháp luật) đối với các các
nhân, tổ chức thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật.
Những quy phạm pháp luật có tính bắt buộc chung được ban hành không phải
cho một trường hợp cụ thể mà là cho tất cả các trường hợp thuộc phạm vi dự
2

Tại Điều 2 & Điều 3 Luật Ban hành quy phạm pháp luật năm 2015


lOMoARcPSD|15978022

liệu của văn bản quy phạm pháp luật. Tính bắt buộc chung của các quy phạm
pháp luật được hiểu là bắt buộc đối với mọi chủ thể nằm trong điều kiện, hoàn
cảnh mà quy phạm pháp luật được đặt ra không phải cho những chủ thể cụ thể
mà cho các chủ thể không xác định. Đây là điểm khác biệt với văn bản áp dụng
pháp luật, bởi vì nội dung văn bản áp dụng pháp luật bao giờ cũng chứa đựng
quy tắc xử sự riêng đối với cá nhân, tổ chức cụ thể được xác định 3. Vì vậy, văn
bản Quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên thực tế cịn văn bản áp
dụng pháp luật chỉ có hiệu lực duy nhất một lần.

1.3.Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Cộng hòa Xã

hội Chủ nghĩa Việt Nam
Tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định
về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Ngồi ra, căn cứ vào
tính chất và hiệu lực pháp lý, các văn bản quy phạm được phân thành văn bản
luật và văn bản dưới luật.
Thứ nhất, đối với văn bản luật là những văn bản quy phạm pháp luật do
Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành, có hiệu lực pháp luật
cao hơn và các văn bản dưới luật, các văn bản dưới luật không được trái với văn
bản luật. Văn bản luật bao gồm Hiến pháp, Luật (Bộ luật, luật).
Thứ hai, đối với văn bản dưới luật có hiệu lực pháp lý thấp hơn các văn bản
luật, do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo hình thức, trình tự,
thủ tục nhất định. Các văn bản dưới luật không được trái với các văn bản luật.
Tôn trọng và tuân thủ, đảm bảo tính tối cao của luật là một trong những nguyên
tắc cốt lõi của nhà nước pháp quyền. Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nước cấp dưới ban hành không được trái với văn bản quy phạm pháp
luật của các cơ quan Nhà nước cấp trên.

Trần Mạnh Tuệ, Văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của các cấp chính quyền tại Thành phố Hải Phịng, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà
Nội, Năm 2011, Tr. 13.
3


lOMoARcPSD|15978022

Chương II: Ý nghĩa của văn bản quy phạm pháp luật
2.1.Xác lập quan hệ pháp luật
Có thể khẳng định rằng, quan hệ pháp luật giữ một vị trí đặc biệt trong đời
sống pháp luật quốc gia và là hình thức đặc thù của sự tác động pháp luật. Quan
hệ pháp luật cũng là một trong những hiện tượng pháp lý phức tạp nhất, có ý

nghĩa to lớn về phương diện lý luận và điều quan trọng hơn là về phương diện
thực tiễn. Về cơ bản, quan hệ pháp luật “là quan hệ xã hội được pháp luật điều
chỉnh trong đó các bên tham gia quan hệ pháp luật có các quyền và nghĩa vụ
pháp lý được Nhà nước bảo đảm thực hiện”4. Với vị trí, vai trị là một dạng quan
hệ xã hội đặc biệt trong hệ thống các quan hệ xã hội. Quy phạm pháp luật nói
chung, cụ thể là Văn bản Quy phạm pháp luật chính là cơ sở của quan hệ pháp
luật.
Sự xuất hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dựa trên cơ sở quy phạm
pháp luật. Quy phạm pháp luật được thực hiện thông qua các quan hệ pháp luật,
quan hệ pháp luật là phương tiện thực hiện các quy phạm pháp luật trong đa
phần các trường hợp. Giữa quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật ln có sự
tồn tại, mối quan hệ mật thiết lẫn nhau. Khơng có quy phạm pháp luật thì khơng
có quan hệ pháp luật. Quy phạm pháp luật xác định những hồn cảnh, tình
huống thực tế xảy ra sẽ làm phát sinh hoặc thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp
luật. Quan hệ giữa quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật có thể xem là mối
quan hệ giữa “Cái cần” với cái có thực, cái hiện thực5.
Ngoài ra, quan hệ pháp luật được Nhà nước bảo đảm và bảo vệ dựa trên cơ
sở tác động của các quy phạm pháp luật. Các hình thức, biện pháp bảo đảm thực
hiện, bảo vệ của Nhà nước cũng có sự khác nhau tùy thuộc vào tính chất của các
loại quan hệ pháp luật và những điều kiện khách quan khác. Chính quy phạm
pháp luật sẽ là cơng cụ, phương tiện giúp Nhà nước bảo đảm và bảo vệ tốt nhất
các quan hệ pháp luật.
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội,NXB. Tư
pháp, Năm 2016, Tr. 385.
5 Đào Trí Úc, Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1993, Tr.90.
4


lOMoARcPSD|15978022


2.2.Thực hiện pháp luật
Bản chất của việc thực hiện pháp luật là sự chuyển hóa các yêu cầu của pháp
luật bao gồm các quy phạm pháp luật và các nguyên tắc pháp luật vào trong
hành vi cụ thể của các chủ thể 6. Dưới góc độ khoa học pháp lý, chỉ những xử sự
phù hợp với những quy định của pháp luật, được tiến hành bởi những chủ thể có
đủ khả năng nhận thức được yêu cầu của pháp luật, có khả năng tự mình xác
lập, thực hiện hành vi do pháp luật quy định... thì mới được coi là biểu hiện thực
tế của việc thực hiện pháp luật. Có thể hiểu, thực hiện pháp luật “là hoạt động
có mục đích làm cho quy định của pháp luật trở thành những hành vi thực tế,
hợp pháp của các chủ thể pháp luật”7.
Thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Vì thế, việc quy định văn bản quy phạm pháp
luật sẽ hỗ trợ Nhà nước trong việc thể chế hóa các chính sách, đường lối, định
hướng mà bộ máy cầm quyền muốn xây dựng và hướng tới trong thực tiễn. Cụ
thể trong bốn hình thức thực hiện pháp luật. Thứ nhất, đối với tuân thủ pháp
luật, các văn bản quy phạm pháp luật quy định sẽ hạn chế được tỷ lệ hành vi vi
phạm pháp luật. Các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hiện những hành vi
mà pháp luật ngăn cấm. Ví dụ như, khơng thực hiện những hành vi tội phạm
được quy định trong Bộ luật Hình sự. Thứ hai, đối với chấp hành pháp luật,
văn bản quy phạm pháp luật sẽ giúp các chủ thể có cách nhìn nhận đúng hơn về
pháp luật, giúp các chủ thể hiểu và thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng
hành động tích cực. Việc chấp hành pháp luật cũng chính là nghĩa vụ đối với
mọi cá nhân, tổ chức. Đối với các cán bộ nhà nước có thẩm quyền, việc thực
hiện thẩm quyền của họ không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ pháp lý.
Thứ ba, đối với sử dụng pháp luật, quy định văn bản quy phạm pháp luật
thể hiện quyền và tự do dân chủ của công dân khi các chủ thể pháp luật thực
hiện quyền chủ thể của mình khi được thực hiện những hành vi mà pháp luật
cho phép.
Đào Trí Úc, “Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, Số 3/2012, Tr.5.
7 Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội,NXB. Tư
pháp, Năm 2016, Tr.403.
6


lOMoARcPSD|15978022

Thứ tư, đối với áp dụng pháp luật, việc quy định văn bản pháp luật là
hình thức mà trong đó nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà
chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp
luật ban hành các quyết định của pháp luật ban hành các quyết định làm phát
sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.

2.3.Truy cứu trách nhiệm pháp lý
Truy cứu trách nhiệm pháp lý là những hậu quả pháp lý bất lợi về vật chất
hoặc tinh thần được áp dụng bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với
các chủ thể vi phạm pháp luật, Những hậu quả pháp lý bất lợi này là những hình
thức cưỡng chế pháp lý được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm
pháp luật tương ứng. Trên cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý là vi phạm
pháp luật. Một cá nhân, tổ chức chỉ bị truy cứu trách nhiệm pháp lý về hành vi
vi phạm pháp luật đã xảy ra. Việc quy định văn bản quy phạm pháp luật sẽ hỗ
trợ Nhà nước trong việc duy trì và ổn định trật tự, an ninh của xã hội. Khi có
hành vi vi phạm pháp luật, các biện pháp trách nhiệm pháp lý sẽ được áp dụng
đúng theo các thủ tục, trình tự do pháp luật quy định. Ngoài ra, các biện pháp
cưỡng chế của nhà nước có nhiều loại và được quy định trong bộ phận chế tài
của các quy phạm pháp luật, như chế tài hình sự, chế tài kỷ luật, chế tài hành
chính, chế tài dân sự. Việc đưa ra các biện pháp cưỡng chế được xây dựng trên
cơ sở của quy phạm pháp luật, cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật mà
Nhà nước đã quy định và đảm bảo, bảo vệ các quan hệ pháp luật.


2.4.Giáo dục pháp luật
Giáo dục pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế, phát triển bền vững. Giáo dục pháp luật
nhằm mục đích cung cấp kiến thức pháp luật cần thiết cho các cá nhân, hình
thành ở họ thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật, ý thức thượng tôn Hiến pháp
và pháp luật, tích cực pháp luật trong cuộc sống. Theo Từ điển Tiếng Việt:

Downloaded by Quang Quang ()


lOMoARcPSD|15978022

“Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển
tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có
những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”8.
Trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, Nhà làm luật
cũng đưa ra các kế hoạch, dự thảo xem xét đến tính hiệu quả của văn bản khi áp
dụng trong thực tiễn. Chính vì thế, văn bản quy phạm pháp luật sẽ hỗ trợ giáo
dục pháp luật thơng qua các hoạt động có tổ chức, có định hướng, có hệ thống,
kế hoạch do các cơ quan, tổ chức, cộng đồng và cá nhân (chủ thể giáo dục) thực
hiện nhằm mục đích xây dựng ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật ở các cá nhân
với nội dung trang bị kiến thức pháp luật cần thiết, xây dựng thái độ, tình cảm
tơn trọng, hiểu biết giá trị, ý nghĩa của pháp luật, các quyền, nghĩa vụ pháp luật,
thói quen tuân thủ và sử dụng pháp luật.

Chương III: Giải pháp hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật
Để ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật, Việt Nam cần đưa ra những giải
pháp kịp thời, đảm bảo chất lượng để khắc phục những nhược điểm, hạn chế
trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hiện nay. Người viết đưa ra

một số đề xuất như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ và thống nhất.
Pháp luật cần xây dựng một quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật
thống nhất, gọn nhẹ, áp dụng chung cho tất cả các loại văn bản quy phạm pháp
luật theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập vào các điều ước quốc tế mà vẫn
bảo đảm được các yêu cầu về chất lượng do Quốc Hội, Chính phủ đặt ra. Đặc
biệt, để có một văn bản quy phạm pháp luật khả thi, phải đề cao năng lực và
tính chịu trách nhiệm của chủ thể soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Bởi vì, bất cứ một việc làm thiếu trách nhiệm của chủ thể soạn thảo, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật đều có thể dẫn đến hậu quả những văn bản
quy phạm khi ban hành ra có chất lượng thấp, thiếu tính khả thi. Vì thế, cần

8

Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2006.

Downloaded by Quang Quang ()


lOMoARcPSD|15978022

hồn thiện chế độ trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền trong quy trình soạn
thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, đổi mới quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Để quy
trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất lượng văn bản, thì một việc
làm rất cần thiết là trong quá trình soạn thảo phải có sự tham gia của các cán bộ
làm cơng tác tư pháp. Các cán bộ tư pháp tham gia vào q trình soạn thảo phải
là những người có chun môn về soạn thảo, kiểm tra và thẩm định văn bản quy
phạm pháp luật. Với sự tham gia của các cán bộ tư pháp có chun mơn sẽ tránh

được các lỗi trong quá trình soạn thảo như lỗi về căn cứ pháp lý và các lỗi về
nội dung. Việc tham gia của các cán bộ tư pháp sẽ kết hợp được việc soạn thảo
với việc thẩm định văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, đổi mới quy trình lấy ý kiến, thông qua và công bố văn bản quy
phạm pháp luật. Việc lấy ý kiến của nhân dân vào dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật là một trong những việc rất cần thiết, bảo đảm tính khả thi của văn
bản. Cần phải có quy định về trách nhiệm các chủ thể liên quan đối với việc văn
bản quy phạm pháp luật được thơng qua bằng hình thức do Lãnh đạo ký ban
hành trực tiếp mà khơng có ý kiến của các thành viên khác.
Thứ tư, tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Thường
xuyên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là kiến thức về
pháp luật quản lý Nhà nước, các kiến thức về văn bản cho cán bộ, công chức nói
chung và đội ngũ làm cơng tác văn bản nói riêng. Tổ chức những hội thảo khoa
học để cán bộ làm cơng tác văn bản có thể trình bày những quan điểm, những
khó khăn, vướng mắc trong cơng tác văn bản, từ đó tìm ra những hướng xử lý
tốt nhất, phù hợp nhất và có những kiến nghị, đề xuất đến cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp.

Downloaded by Quang Quang ()


lOMoARcPSD|15978022

KẾT LUẬN:

Việc quy định văn bản quy phạm pháp luật có nội dung phù hợp sẽ đáp ứng
được nhu cầu phát triển khách quan của xã hội, đáp ứng được những đòi hỏi của
quản lý Nhà nước trong việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước. Một văn bản
quy phạm pháp luật được coi là chất lượng khi nội dung của nó phù hợp với
đường lối, chính sách của Đảng, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân

dân; có nội dung hợp pháp, được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức và thủ
tục; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội tại thời điểm ban hành, đồng thời
phải có kỹ thuật pháp lý cao. Văn bản quy phạm pháp luật chính là cơng cụ,
phương tiện của Nhà nước trong việc giữ gìn, đảm bảo an ninh trật tự xã hội nói
chung, cũng như đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập quan hệ pháp luật;
thực hiện pháp luật; truy cứu trách nhiệm pháp lý và giáo dục pháp luật trong
thực tiễn thi hành.

Downloaded by Quang Quang ()


lOMoARcPSD|15978022

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Đào Trí Úc, Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, NXB. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1993, Tr.90.
(2) Đào Trí Úc, “Thực hiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật ở Việt
Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 3/2012, Tr.5.
(3) Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB. ĐHQGHN, Năm 2015,
Tr. 454.
(4) Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Trường Đại học
Luật Hà Nội,NXB. Tư pháp, Năm 2016, Tr.385, 403.
(5) Tại Điều 2 & Điều 3 Luật Ban hành quy phạm pháp luật năm 2015
(6) Trần Mạnh Tuệ, Văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền tại Thành phố Hải
Phòng, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội, Năm 2011, Tr. 13.
(7)

Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2006.


Downloaded by Quang Quang ()



×