Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận kinh tế chinh trị, liên hệ thực tiễn về nền kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.57 KB, 12 trang )

Hội nhập KTQT là một nội dung quan trọng trong chính sách đối ngoại của
Đảng, Nhà nước ta. Ngay từ rất sớm, Đảng và Nhà nước ta đã nhận rõ tầm quan trọng
cũng như tính cấp thiết của mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế với thế
giới. Đại hội VIII của Đảng ta đã xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế”, chủ
trương hội nhập KTQT ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và phát triển. Đến Đại
hội IX, Đảng ta đã xác định “Chủ động hội nhập KTQT và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ
và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hố dân tộc, bảo vệ mơi trường”. Nhờ quá trình hội nhập, Việt Nam ngày càng năng
động tiếp thu khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ
cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Mặt khác, hội nhập KTQT đang từng bước đưa
hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo tư
duy làm ăn mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
Tuy nhiên trong thời kỳ đổi mới, chủ trương hội nhập KTQT được Đảng ta đề
ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó
lường trước về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và khoa học kỹ thuật, nên Việt Nam
cũng gặp khơng ít khó khăn, hạn chế trong q trình hội nhập KTQT. Hạn chế dễ
thấy nhất là cơng tác nghiên cứu chuẩn bị và sự phối hợp hiệu quả chưa cao của các
cấp các ngành. Các cấp, các ngành chưa hiểu biết thật sâu, nắm thật vững toàn bộ
định chế của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, nhất là của WTO và nhiều văn
kiện pháp lý quốc tế khác mà chúng ta cần vận dụng, thực hiện khi hội nhập KTQT.
Hơn nữa khơng ít cơ chế, chính sách chậm được đổi mới cho phù hợp với u cầu hội
nhập. Cịn chậm hình thành kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập KTQT và một
lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo, thủ tục hành chính cịn nhiều bất cập
đang là những cản trở rất nghiêm trọng cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta.
1



Đối với doanh nghiệp nước ta thì một trong những hạn chế lớn nhất đó là phần lớn
cịn thiếu hiểu biết về thị trường thế giới và luật pháp quốc tế, thiếu kinh nghiệm làm
ăn với các đối tác quốc tế, năng lực quản lý kém, trình độ cơng nghệ lạc hậu, hiệu
quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh cịn yếu, tư tưởng ỷ lại, trơng chờ
vào sự bảo hộ của Nhà nước còn khá nặng. Đội ngũ cán bộ, cơ quan làm công tác
kinh tế đối ngoại khơng chỉ thiếu về số lượng, yếu về trình độ tác nghiệp mà còn tổ
chức chỉ đạo chưa sát và chưa kịp thời, sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau còn nhiều bất
cập lớn.
Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập trên đây, chúng ta nhất thiết phải
thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ. Trước hết cần tiếp tục nâng cao nhận thức
sâu rộng đối với các cấp, các ngành, nhất là các doanh nghiệp về hội nhập quốc tế,
làm rõ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nội dung, hình thức,… trong quá trình hội nhập.
Các biện pháp cơ bản bao gồm: Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật kinh tế
phù hợp với thiêu chuẩn pháp luật kinh tế thương mại quốc tế. Thứ hai, nâng cao hiệu
lực thi hành pháp luật, thực hiện các cam kết quốc tế. Thứ ba, đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế xã hội, nhằm phát huy tiềm năng của mỗi đơn vị kinh tế và phù hợp với luật lệ
KTQT khi tham gia các tổ chức KTQT. Thứ tư, nâng cao năng lực, tính chủ động,
sáng tạo, tinh thần tự chịu trách nhiệm của các địa phương, các ngành, từng đơn vị
sản xuất kinh doanh. Thứ năm, chú trọng nhân tố con người; đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng nguồn nhân lực có phẩm chất, bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn tốt đáp
ứng yêu cầu hội nhập QTế.
Liên hệ thực tiễn:
Nhờ quá trình hội nhập, Việt Nam ngày càng năng động tiếp thu khoa học và
công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ
kinh doanh. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước đưa hoạt động của
các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo tư duy làm ăn
mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

2



Tuy nhiên trong thời kỳ đồi mới, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được
Đảng ta đề ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, khó lường trước về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và khoa học kỹ thuật,
nên Việt Nam cũng gặp khơng ít khó khăn, hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Hạn chế dễ thấy nhất là công tác nghiên cứu chuẩn bị và sự phối hợp hiệu
quả chưa cao của các cấp các ngành. Các cấp, các ngành chưa hiểu biết thật sâu, nắm
thật vững toàn bộ định chế của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, nhất là của
WTO và nhiều văn kiện pháp lý quốc tế khác mà chúng ta cần vận dụng, thực hiện
khi hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa khơng ít cơ chế, chính sách chậm được đổi mới
cho phù hợp với u cầu hội nhập. Cịn chậm hình thành kế hoạch tổng thể và dài hạn
về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết
quốc tế.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo, thủ tục hành chính cịn nhiều bất cập
đang là những cản trở rất nghiêm trọng cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta.
Đối với doanh nghiệp nước ta thì một trong những hạn chế lớn nhất đó là phần lớn
cịn thiếu hiểu biết về thị trường thế giới và luật pháp quốc tế, thiếu kinh nghiệm làm
ăn với các đối tác quốc tế, năng lực quản lý kém, trình độ cơng nghệ lạc hậu, hiệu
quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh còn yếu, tư tưởng ỷ lại, trông chờ
vào sự bảo hộ của Nhà nước còn khá nặng. Đội ngũ cán bộ, cơ quan làm công tác
kinh tế đối ngoại không chỉ thiếu về số lượng, yếu về trình độ tác nghiệp mà còn tổ
chức chỉ đạo chưa sát và chưa kịp thời, sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau còn nhiều bất
cập lớn.
Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập trên đây, chúng ta nhất thiết phải
thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ. Trước hết cần tiếp tục nâng cao nhận thức
sâu rộng đối với các cấp, các ngành, nhất là các doanh nghiệp về hội nhập quốc tế,
làm rõ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nội dung, hình thức,… trong quá trình hội nhập.
Các biện pháp cơ bản bao gồm: Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật kinh tế
phù hợp với thiêu chuẩn pháp luật kinh tế thương mại quốc tế. Thứ hai, nâng cao hiệu
lực thi hành pháp luật, thực hiện các cam kết quốc tế. Thứ ba, đổi mới cớ chế quản lý

3


kinh tế xã hội, nhằm phát huy tiềm năng của mỗi đơn vị kinh tế và phù hợp với luật lệ
kinh tế quốc tế kinh tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. Thứ tư, nâng cao năng lực,
tính chủ động, sáng tạo, tinh thần tự chịu trách nhiệm của các địa phương, các ngành,
từng đơn vị sản xuất kinh doanh. Thứ năm, chú trọng nhân tố con người; đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực có phẩm chất, bản lĩnh chính trị, năng lực chun
mơn tốt đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
C. Chính sách chủ động hội nhập của Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới đất nước trong hơn 20 năm qua đã tạo thế và lực mới cho
nước ta trong quá trình hội nhập, bảo đảm điều kiện để nước ta đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. Song, trên thực tế phải thấy rằng nền kinh tế nước
ta còn kém phát triển, sức cạnh tranh còn rất thấp; lực lượng lao động tuy dồi dào,
song trình độ kỹ thuật và kỹ năng còn thấp; hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập; hệ
thống tài chính, ngân hàng cịn yếu kém nên khả năng đương đầu với xu hướng tự do
hoá kinh tế, tài chính tồn cầu rất khó khăn; chưa đuổi kịp sự phát triển nhanh chóng
của hệ thống thơng tin – viễn thơng tồn cầu.
Q trình tồn cầu hố, phát triển sự hợp tác đa phương và song phương với
các nước tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá
sang các nước. Tất nhiên, vấn đề này còn gắn với cuộc cạnh tranh, vừa hợp tác vừa
đấu tranh rất phức tạp. Chúng ta cần tranh thủ các nguồn vốn đầu tư, nhập khẩu kỹ
thuật cao, tranh thủ kinh nghiệm quản lý của thế giới, mở rộng thị trường để nhanh
chóng đi tắt, đón đầu, xây dựng nền kinh tế mới phù hợp với sự phát triển chung và
thực tiễn nền kinh tế Việt Nam.
Những khó khăn, thách thức rất to lớn đang đặt ra trước chúng ta. Bởi vậy,
chúng ta phải trên cơ sở kinh nghiệm của mình trong những năm đổi mới và kinh
nghiệm của các nước đang phát triển mà thúc đẩy sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực của nước ta. Chiến lược hội nhập quốc tế của nước ta là chiến lược chủ động hội
nhập, nhằm tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, khai thác tốt nhất nội lực của ta để

4


phát triển đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chiến lược chủ động hội
nhập của nước ta xuất phát từ việc thừa nhận lợi ích to lớn của hội nhập; đồng thời ý
thức rằng sự hội nhập đó cũng đưa lại những thách thức to lớn, những nguy cơ không
thể xem thường.
Thời cơ và nguy cơ thường đan xen với nhau, do đó phải hết sức tỉnh táo để
bảo đảm hội nhập và giữ được bản sắc văn hóa dân tộc; hội nhập và giữ vững độc lập
tự chủ; hội nhập và bảo vệ được lợi ích dân tộc; hội nhập và góp phần vào cuộc đấu
tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân loại. Chúng ta chủ động
hội nhập quốc tế để phát triển bền vững, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
*Bản chất khách quan của xu thế toàn cầu hoá được quy định bởi bốn yếu tố
chủ yếu là:
- Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và những thành tựu kỳ diệu của
cách mạng khoa học, công nghệ mang tính quyết định đến sự ra đời và phát triển của
tồn cầu hố, đặt biệt là cơng nghệ thông tin.
- Sự gia tăng cả bề rộng lẫn bề sâu của phân công lao động quốc tế chỉ mới
phát triển từ một, hai thập kỷ gần đây. Trên cơ sở phát triển tối đa lợi thế so sánh,
từng chủ thể sản xuất, kinh doanh đã chủ động tìm kiếm, xác lập cho mình chỗ đứng
trong hệ thống sản xuất, kinh doanh toàn cầu.
- Sự phát triển mạnh mẽ và phổ biến của kinh tế thị trường từ hơn một thập kỷ
qua trên toàn thế giới cũng là một yếu tố thúc đẩy tồn cầu hố như xu thế khách
quan. Ngày nay nền kinh tế thế giới đã được nhất thể hoá về mặt thị trường và về cơ
chế vận hành. Giá rẻ sản phẩm là trọng pháo bắn thủng vạn lý trường thành của các
quốc gia. Các nước tư bản có hàng trăm năm phát triển kinh tế thị trường và đã thành
công. Phổ biến của kinh tế thị trường là tư khi các nước XHCN chấp nhận kinh tế thị
trường và thực hiện cụ thể vào từng mặt.


5


- Sự hiện diện của những vấn đề toàn cầu là yếu tố khách quan thúc đẩy xu
thế toàn cầu hố hiện nay. Những vấn đề tồn cầu là những vấn đề đặt ra trước mắt
của toàn nhân loại, mà buộc nhân loại phải tìm cách giải quyết. Đảng ta đặt ra có 4
vấn đề tồn cầu cấp bách đó là: một là chiến tranh và chống chiến tranh, bảo vệ hồ
bình. hai là mơi trường và bảo vệ mơi trường. ba là những biến động bất lợi của dân
số tgiới và cách giải quyết.bốn là dịch hiểm nghèo và cách phịng chống
*Bên cạnh bản chất khách quan, tồn cầu hố cịn có bản chất là hệ quả của
các nhân tố chủ quan. Với ưu thế về vốn, công nghệ, thơng tin, thị trường… các tập
đồn tư bản độc quyền, các nước tư bản phát triển, các trung tâm kinh tế, tài chính tiền tệ và thương mại quốc tế… đã chủ động tác động, chi phối và áp đặt xu thế tồn
cầu hố vào khn khổ của qua trình tư do hố tư bản chủ nghĩa.
- Tồn cầu hố hiện nay là tồn cầu hố tư bản chủ nghĩa, mà trước hết là các
công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên tồn cầu. Những cơng ty xun quốc gia
có tiềm lực, thực lực chủ yếu là các nước tư bản phát triển, trong đó các cơng ty
xun quốc gia của Mỹ là những công ty xuyên gia lớn nhất.
- Sự kết thúc chiến tranh lạnh và sự đối đầu giữa 2 cực là nhân tố góp phần
nhất định thúc đẩy tồn cầu hố.
Do sự tác động của nhân tố chủ quan, hiện đang làm cho tồn cầu hố bị méo
mó, biến dạng thành q trình Phương Tây hố, tư bản hố tồn thế giới. Trên thực tế
tồn cầu hố khơng chỉ là một q trình kinh tế - kỹ thuật, mà chủ yếu là một quá
trình kinh tế - xã hội chứa đựng những bất công và nghịch lý lớn. Bởi vậy tồn cầu
hố chính là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay gắt vì những mục tiêu
vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài.
3. Quan điểm đánh giá của Đảng ta về xu thế TCH:
Trước sự gia tăng cả về bề rộng lẫn chiều sâu của xu thế TCH, vì vậy VN
khơng thể đứng ngồi, khơng tham gia q trình TCH (hay hội nhập QT), cũng như
các nước đang phát triển khác, TCH tạo ra nhiều cơ hội để phát triển, nhưng cũng đặt
ra khơng ít thách thức cho VN. Đại hội IX, Đảng ta đã xác định “Chủ động hội nhập

6


kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân
tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ môi trường”. đến ĐH
X, Đảng ta nhận định “TCH K.tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước , bao trùm
hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tùy
thuộc lẫn nhau giữa các nền KT”
II. Những tác động của TCH đến đời sống quan hệ quốc tế: Do tác động của
nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan, tồn cầu hố hiện nay là một q trình đầy
mâu thuẫn và mang tính 2 mặt: vừa tích cực, vừa tiêu cực.
* Tác động tích cực:
- Xu thế tồn cầu hố thúc đẩy sự phát triển sâu rộng của các quan hệ kinh tế
quốc tế, tạo cơ hội cho các quốc gia tận dụng được thị trường thế giới; tiếp cận và sử
dụng được nguồn vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại,
phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Tồn cầu hố mở ra khả năng cho các quốc gia nhất là những quốc gia đang
phát triển tham gia nhanh chóng và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc
tế nhằm tận dụng được mọi nguồn lực để phát triển
- Thông qua diễn đàn quốc tế, các nước có cơ hội tham gia vào đời sống quốc
tế bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích quốc gia (nhất là đới với các quốc gia đang phát
triển); tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, tiến tới
sự chủ động trong việc đấu tranh thiết lập một trật tự thế giới dân chủ cơng bằng,
bình đẳng hơn giữa các dân tộc (nhất là trong quan hệ giữa các siêu cường với các
nước đang phát triển).
- Tồn cầu hố thúc đẩy giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự
hiểu biết, tin cậy, hữu nghị giữa các dân tộc, thúc đẩy sự phát triển tri thức nhân loại.
- Xu thế tồn cầu hố làm cho các quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn
nhau. Đây là cơ hội tích cực để loại bỏ mọi biểu hiện của ý đồ thiết lập mối quan hệ

7


một chiều chứa đựng sự áp đặt, chi phối, thống trị của các siêu cường đối với đông
đảo các quốc gia dân tộc khác trên thế giới. Đây cũng là cơ hội cho sự hình thành một
trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm như khuôn khổ tiềm lực cho cơ chế sinh hoạt
quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc.
* Tác động tiêu cực: Xu thế tồn cầu hố có thể gây ra những tác động tiêu
cực sau đây đối với các quốc gia, dân tộc, nhất là các nước đang phát triển.
- Trên lĩnh vực kinh tế, đông đảo các nước trên thế giới phải chịu sự ràng
buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư… chủ yếu do các
nước phương Tây áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ
mô bất hợp lý của các nước tư bản phát triển hàng đầu.
- Trên lĩnh vực xã hội, cơn lốc tồn cầu hố đang và có thể tiếp tục làm trầm
trọng thêm tình trạng loại trừ xã hội. Đó là hàng tỷ con người hầu như khơng được
hưởng một chút thành quả gì của tồn cầu hố ngồi sự bần cùng hố, nghèo đói, thất
nghiệp, khơng được giáo dục – đào tạo, khơng được chăm sóc sức khỏe, thiếu thông
tin, nước sạch, an sinh xã hội.
- Trên lĩnh vực văn hố, xu thế tồn cầu hố đặt các quốc gia vào nguy cơ bị
các giá trị phương Tây nhất là các giá trị văn hoá Mỹ xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản
sắc văn hoá dân tộc. Lợi dụng ưu thế về công nghệ truyền thông, Mỹ và các nước tư
bản phát triển ráo riết triển khai áp đặt các giá trị văn hố của mình trên toàn thế giới.
- Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, xu thế tồn cầu hố đặt ra cho mỗi nước
hàng loạt vấn đề và đòi hỏi mới. Nội dung khái niệm “an ninh quốc gia” được mở
rộng; các nguy cơ đe dọa an ninh ngày càng phức tạp hơn, đã xuất hiện các nguy cơ
phi truyền thống; cục diện an ninh đã thay đổi; cơng cụ, biện pháp, hình thức, cơ chế
bảo đảm an ninh đã đổi mới.
- Trên lĩnh vực chính trị, xu thế tồn cầu hố đang tạo ra một số nguy cơ đe
dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, vai trò nhà nước


8


Những tác động tích cực và những tác động tiêu cực nêu trên do xu thế tồn
cầu hố tạo ra đối với các quốc gia dân tộc đều tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng
chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trị của nhân tố chủ
quan có tính quyết định rất lớn. Mặt tích cực và mặt tiêu cực cùng tồn tại một cách
hữu cơ trong một xu thế, có thể chuyển hố lẫn nhau và có thể tạo ra thuận lợi hay
khó khăn, cơ hội hay thách thức; thời cơ hay nguy cơ. Điều đó phụ thuộc vào tình
hình cụ thể và hiệu quả hoạt động thực tiễn của nhân tố chủ quan.
Nhờ quá trình hội nhập, Việt Nam ngày càng năng động tiếp thu khoa học và
công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ
kinh doanh. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước đưa hoạt động của
các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo tư duy làm ăn
mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên trong thời kỳ đồi mới, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được
Đảng ta đề ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, khó lường trước về chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội và khoa học kỹ thuật,
nên Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn, hạn chế trong q trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Hạn chế dễ thấy nhất là công tác nghiên cứu chuẩn bị và sự phối hợp hiệu
quả chưa cao của các cấp các ngành. Các cấp, các ngành chưa hiểu biết thật sâu, nắm
thật vững toàn bộ định chế của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, nhất là của
WTO và nhiều văn kiện pháp lý quốc tế khác mà chúng ta cần vận dụng, thực hiện
khi hội nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa khơng ít cơ chế, chính sách chậm được đổi mới
cho phù hợp với yêu cầu hội nhập. Còn chậm hình thành kế hoạch tổng thể và dài hạn
về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết
quốc tế.
Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập trên đây, chúng ta nhất thiết phải
thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ. Trước hết cần tiếp tục nâng cao nhận thức
sâu rộng đối với các cấp, các ngành, nhất là các doanh nghiệp về hội nhập quốc tế,

làm rõ quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nội dung, hình thức,… trong quá trình hội nhập.
9


Các biện pháp cơ bản bao gồm: Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật kinh tế
phù hợp với tiêu chuẩn pháp luật kinh tế thương mại quốc tế. Thứ hai, nâng cao hiệu
lực thi hành pháp luật, thực hiện các cam kết quốc tế. Thứ ba, đổi mới cớ chế quản lý
kinh tế xã hội, nhằm phát huy tiềm năng của mỗi đơn vị kinh tế và phù hợp với luật lệ
kinh tế quốc tế kinh tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. Thứ tư, nâng cao năng lực,
tính chủ động, sáng tạo, tinh thần tự chịu trách nhiệm của các địa phương, các ngành,
từng đơn vị sản xuất kinh doanh. Thứ năm, chú trọng nhân tố con người; đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực có phẩm chất, bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên
môn tốt đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Liên hệ thực tiễn nước ta:
Việt Nam là một trong các nước đang phát triển. Con đường lựa chọn của dân
tộc VN đó là xây dựng một nước VN “Dân giàu…văn minh”, tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng vận động của VN có thể coi là một
đại biểu cho xu thế vận động của các nước đang phát triển, đó là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; đấu tranh thiết lập một trật tự thế giới mới công bằng dân chủ và sự
thành công của chủ nghĩa xã hội; chủ động và tích cực hợp tác quốc tế. Những nội
dung của xu thế vận động của các nước đang phát triển đã được thể hiện cụ thể trong
chính sách đối ngoại Đảng và nhà nước ta
- Một là, đối với xu hướng giữ vững độc lập về chính trị, giành và củng cố
độc lập về kinh tế. Văn kiện ĐH IX Đảng ta xác định “giữ vững độc lập tự chủ, tư
cường đi đơi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế”. Đây là
phương châm đồng thời là một nhiệm vụ của hoạt động đối ngoại việt Nam. Dân tộc
Việt Nam phải hy sinh rất nhiều để giành độc lập tự do cho Tổ quốc mình,và “dân tộc
VN quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ nền tụ do độc
lập ấy”. Ngày nay, VN dang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất
nước, trong điều kiện cuộc CMKH – CN đang có những bước phát triển mạnh mẽ, xu

hướng tồn cầu hóa ngày càng diễn ra sâu sắc, đời sống chính trị thế giới ln có

10


những diễn biến rất khó lương và các thế lực thù địch ln tìm mọi cách chống phá
cách mạng VN.
- Hai là, Xu hướng giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định tạo điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế. VK ĐH X của Đảng khẳng định “Nhiệm vụ của công tác đối
ngoại là giữ vững môi trường hào bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, CNH,HĐH đất nước xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của thế giới
vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Đây là nhiệm vụ bao trùm
của hoạt động đối ngoại VN.
- Ba là, Thực hiện hợp tác, liên kết quốc tế. VK ĐH X chỉ rõ “Chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thòi mở rộnghợp tác trên các lĩnh vực. VN muốn
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào
tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. chủ động và tích cực tham gia hội nhập kinhtế
quốc tế và khu vực là xu hướng vận động chủ yếu cảu VN trong giai đạon hiện nay,
nhằm tận dụng các nguồn ngoại lực, kết hợp với nội lực tạo lên sức mạnh tổng hợp
để phát triển nhanh nền kinh tế đất nước. Thành tựu đạt được trong công tác đối
ngoại của VN đã chứng minh tính đúng đắn của xu hướng vận động này. Hiện nay
VN có quan hệ ngoại giao với 174 trên 192 nước là thành viên LHQ, quan hệ thương
mại với 222 nước và các tổ chứ, đối tác quốc tế. Xây dựng quan hệ với tẩtc các tổ
chức quốc tế và các thiết chế tài chính quốc tế. Năm 2006, VN trở thành thành viên
150 của WTO, trở thành thành viên không thường trực hội Hồng Bảo an LHQ NK
2008-2009, đánh dấu bước hội nhập vào đời sống chinh trị quốc tế
Hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phát triển mạnh, góp
phần giữ vững mơi trường hồ bình, phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao uy tín của

Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Đã giải quyết được một số vấn đề về biên
giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn trên biển với một số quốc gia; chủ động và tích cực
tham gia các diễn đàn thế giới; tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế và khu vực
11


tại Việt Nam. Những thành tựu đó, trong bối cảnh thế giới phức tạp và biến động
nhanh, chứng tỏ đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng là đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với tình hình thế giới, khu vực, với xu thế của thời đại và thực tiễn tại Việt
Nam. Đến nay, thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại, chúng ta thu hút đầu tư hơn 8
nghìn dự án của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; dã thu hút trên 100 tỷ
USD vốn FDI, cam kết vốn hỗ trợ đầu tư ODA ngày càng tăng, năm 2004 là 4 tỷ
USD thì đến năm 2007 là 5,4 tỷ USD, năm 2008: …
* Kết luận: Tóm lại, Ngày nay, tồn cầu hóa đang trở thành một xu thế tất
yếu, khách quan của thời đại. Các nước đang phát triển, trong đó có VN đang chịu sự
tác động mạnh mẽ của tồn cầu hóa trên các mặt của đời sống xã hội, trước hết là về
mặt kinh tế. Trong bối cảnh tình hình đời sống chính trị quốc tế đang có nhữn diễn
biến hết sức phức tạp. Thời cơ và thách thức đang đan xen với nhau. Do đó, việc
nhận thức đúng đắn xu thế vận động của thời đại và xu thế vận động của các nước
đang phát triển trong xu thế tồn cầu hóa, là cơ sở lý luận và cả thực tiễn có ý nghĩa
hết sức quan trong để các quốc gia, dân tộc, nhất là các nước đang phát triển hoạch
định đuờng lối, chính sách phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại phù hợp với điều
kiện thực tiễn của mỗi quốc gia, dân tộc. Việt Nam là một nước đang phát triển, là
đại biểu tiêu biểu của xu thế vận động các nước đang phát triển. Xu thế vận động đó
được thể hiện cụ thể trong chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và nhà nước VN,
góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ vững chắc nền độc
lập dân tộc.

12




×