MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Dân ca quan họ là một lọai hình văn hóa nghệ thuật đặc sắc, được hình
thành và đi sâu vào đời sống tinh thần của người dân từ lâu đời. Không giống
với các loại hình văn hóa nghệ thuật khác, dân ca quan họ mang một đặc thù
riêng bởi các làn điệu, trang phục, âm thanh và các lễ hội trong nó. Là một
nghệ thuật phi vật thể, quan họ thể hiện đời sống tinh thần phong phú, đa
dạng của nhân dân. Quan họ nổi trội lên như một hiện tượng văn hóa độc đáo,
đặc thù trong hệ thống dân ca vùng Trung du và Đồng bằng Bắc bộ, nơi gắn
liền với thiết chế xóm làng truyền thống và cư dân sinh sống chủ yếu bằng
nghề trồng lúa một nắng hai sương. Nếp sống phong lưu đã trở thành tính
cách văn hóa trong sinh hoạt quan họ, còn ẩn chứa nhiều điều về nguồn gốc,
mà đến nay, chưa hẵn đã được giải thích một cách thỏa đáng. Nhạc sĩ Đỗ
Nhuận qua bài Người sáng tác âm nhạc đối với Quan họ đã từng cảm nhận: "
Quan họ, hình ảnh dư âm của một xã hội thanh bình an cư lạc nghiệp.. Quan
họ của cố đô, con đẻ của những thịnh triều võ công hiển hách, văn học nghệ
thuật và triết học phồn vinh, tiếng hát của cố đô Kinh Bắc"; là một trung tâm
dân ca mà GS. Tô Ngọc Thanh cho là đỉnh cao của nền dân ca Việt Nam
Những năm gần đây, nền kinh tế phát triển, xã hội có nhiều đổi mới,
lọai hình nghệ thuật này cũng có từng bước phát tirển khác nhau trong từng
giai đọan, có q trình giao lưu, ảnh hưởng và có một vị trí quan trọng trong
sự giao lưu với bạn bè Quốc tế, phản ánh đời sống tinh thần của con người
Việt đối với các nước bạn.
Tuy nhiên, cũng trong quá trình hội nhập, giao lưu tiếp biến văn hóa và
đặc biệt là những ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trương, dân ca
quan họ Bắc Ninh đang phải đối mặt với nhiều thử thách to lớn. Lối chơi
1
thanh tao, cao quý xưa kia của người quan họ nay đã như mai một, như là sự
biến dạng của cái gọi là "hiện đại" mà giờ đây đã và đang như trở thành một
xu thế ở miền quê Kinh Bắc. Chính bởi vậy, mà em chọn đề tài “ Phát huy
vai trị của cơng tác tư tưởng trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị dân ca
quan họ ở Bắc Ninh hiện nay” làm đề tài kết thúc môn học và cũng thật sự là
một vấn đề cấp thiết với cấp ủy Đảng, chính quyền cũng như tồn thể nhân
dân Bắc Ninh.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm hai mục đích, một là vận dụng các kiến
thức chuyên ngành đã học để tìm hiểu, đánh giá, phân tích một vấn đề cụ thể
liên quan đến hoạt động quản lý tư tưởng văn hóa, hai là thơng qua q trình
nghiên cứu sẽ có được những hiểu biết sâu sắc hơn về một giá trị văn hóa tinh
thần của quê hương Bắc Ninh.
2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài cần thực hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu là:
+ Trình bày một cách khái quát về dân ca quan họ Bắc Ninh
+ Phát huy vai trị của cơng tác tư tưởng và sinh hoạt biểu diễn quan họ
ở Bắc Ninh hiện nay
+ Đề xuất giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa dân
ca quan họ ở Bắc Ninh hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lenin đó là phép biện chứng duy vật.
Phương pháp cụ thể: Diễn dịch, quy nạp, logic – lịch sử...
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 phần
Mở đầu, nội dung và kết luân. Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1. Một số nét khái quát về quan họ Bắc Ninh
Chương 2. Thực trạng sinh hoạt biểu diễn và vai trị của cơng tác tư
tưởng trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa dân ca quan học Bắc
Ninh hiện nay
Chương 3. Giải pháp bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa quan họ ở
Bắc Ninh hiện nay
3
NỘI DUNG
Chương 1. Một số nét khái quát về quan họ Bắc Ninh
1.1 Nguồn gốc
Ý nghĩa từ "Quan họ" thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa
đen về mặt từ nguyên của "quan" và của "họ". Điều này dẫn đến những kiến
giải về Quan họ xuất phát từ "âm nhạc cung đình", hay gắn với sự tích một
ơng quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh
liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức ("họ"). Tuy nhiên cách lý giải
này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như
hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt
đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ
chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong
sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ
nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan
họ là "quan hệ" của một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh
Bắc.Tuy vậy vẫn chưa có quan điểm nào được đa số các học giả chấp nhận.
Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên giữa "liền anh" và "liền
chị" mà còn là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh, liền chị với khán giả.
Một trong những hình thức biểu diễn hát quan họ mới là kiểu hát đối đáp giữa liền
anh và liền chị. Kịch bản có thể diễn ra theo nội dung các câu hát đã được chuẩn bị
từ trước hoặc tùy theo khả năng ứng biến của hai bên hát
4
Mỗi làng quan họ đều có lễ hội riêng. Quan họ tồn tại song hành cùng
lễ hội làng, nơi mà người dân thờ thành hồng, nữ thần, một đơi trường hợp là
tín ngưỡng phồn thực
Trong số các lễ hội làng quan họ, hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh) mở vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội lớn nhất.
Xuân về trên làng quê quan họ. Ngày 30/9/2009, quan họ đã chính thức
được UNESCO tơn vinh trở thành Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của
nhân loại. Đây không chỉ là tin vui đối với nhân dân tỉnh Bắc Giang và Bắc
Ninh mà còn là niềm vinh dự, tự hào của nhân dân cả nước.
1.2 Làn điệu và ngôn từ trong quan họ
- Làn điệu: Quan họ là thể lọai dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu
trong kho tàng dân ca việt nam. Mỗi một bài quan họ có giai điệu riêng. Cho
đến nay, ít nhất 300 bài ( giai điệu) quan họ đã được ký âm (ghi âm bằng ký
hiệu âm nhạc trên giấy). Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một trong
kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi âm hàng nghìn
bàiquan họ cổdo các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ
tại Sở văn hóa tỉnh Bắc Ninh.
Các làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn kim loan, Cây gạo, Giã
bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sơng, Cái hờn, Gió mát
trăng thanh…
5
- Ngơn từ: Dân ca quan họ là lọai hình nghệ thuật phong phú, độc đáo.
Giá trị dân ca quan họ không chỉ được thể hiện bằng lời ca, hát hay, phong
cách lịch sự, trang nhã mà bằng lề lối, tập tục đặc sắc. Trong ngôn ngữ giao
tiếp, người quan họ thường dùng đại từ: anh Hai (người giỏi nhất trong bọn)
và theo sự phân cấp thứ bậc thì có anh ba, anh tư, anh năm rất ít dùng anh sáu.
Bên liền chị cũng được gọi như thế. Còn anh Cả và chị Cả để dành cho những
người cao tuổi và đáng kính nhất trong bọn. Về cách xưng hơ, quan họ lịch
sự, nhún nhường, tự xưng là em, dù đó là nam hay nữ, già hay trẻ. (vd: thưa
chị hai, biết thì ca trước lên để anh em chúng em tiếp bước theo). Bên liền
anh cũng như bên liền chị đều tôn trọng nhau, cho nên trong quan họ, họ
thường gọi nhau là người. Chữ “chàng” trong câu quan họ là do mượn trong
câu ca dao vào (chăn chiếu ai trải giường này. Đêm qua chàng ngủ đêm nay
chàng nằm). Đến chữ mình người ta cũng thấy suồng sã quá, khi hát quan họ
đã đổi chữ mình thành chữ tình. Trong giao tiếp quan họ, ngịai việc xưng hơ
ý tứ, tôn trọng nhau, lời ăn ý ở cũng được nghệ nhân răn dạy chu đáo, khơng
gặp gì nói nấy, gặp gì làm nấy. Quan họ muốn mời nhau về hát, ăn cơm cũng
ý tứ, nói lễ phép, khiêm tốn. Ngơn ngữ trong quan họ mềm mại, văn hóa,
khéo léo, tinh tế và đậm đà tình người. Họ khơng chấp nhận sự thô kệch, vụng
về, coi trọng sự lịch thiệp trong cử chỉ, giao tiếp.
Hát canh, hát đối đáp, hát hội, hát chúc, hát mừng, hát cầu đảo, hát kết
chạ... Trong đó, hát canh và hát đối đáp là hai hình thức đặc trưng tiêu biểu và
độc đáo của dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Trong sáu tỉnh người đà chưa tỏ
Ngồi năm thành chỉ có Bắc Ninh
u nhau trở lại xn tình
Nghề chơi Quan họ có tinh mới tường.
6
1.3 Trang phục
Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục
của các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục
quan họ. Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài
tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai
áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the, hoặc
đối với người khá giả hơn thì áo ngồi may bằng đoạn mầu đen, cũng có
người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the,
đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng
chanh...gọi là áo kép. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu
có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu may quần cũng bằng diềm bâu,
phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp
quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước, đàn ơng cịn
nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt
tóc, rẽ đường ngơi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa
hàng cho tiện. Cùng với quần, áo, khăn xếp, dép,… các liền anh thường có
thêm nón chóp với các dạng chóp lá thường hoặc chóp dứa, có quai lụa màu
mỡ gà. Ngồi ra cũng thường thấy các liền anh dùng ô đen. Các phụ kiện khác
là khăn tay, lược, những "xa xỉ phẩm" theo quan niệm thời xưa. Khăn tay
bằng lụa hoặc bằng vải trắng rộng, gấp nếp và gài trong vành khăn, thắt lưng
hoặc trong túi trong.
Trang phục liền chị thường được gọi là "áo mớ ba mớ bảy", nghĩa là
liền chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng vào
nhau (mớ bảy). Tuy nhiên trong thực tế, các liền chị thường mặc áo mớ ba.
Về cơ bản trang phục bao gồm các thành phần: trong cùng là một chiếc yếm
có màu rực rỡ thường làm bằng lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại là
yếm cổ xẻ và yếm cổ viền Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng,
vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối màu cũng
7
tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân
của nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước. Chất liệu để may
áo đẹp nhất thời trước là the, lụa. Áo dài ngoài thường mang màu nền nã như
màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh dán trong khi áo dài trong thường
nhuộm màu khác nhau: màu cánh sen, màu hoa hiên, màu thiên thanh, màu hồ
thuỷ, màu vàng chanh, màu vàng cốm v.v. Áo cánh mặc trong có thể thay
bằng vải phin trắng, lụa mỡ gà.
Yếm thường nhuộm màu đỏ, vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên
thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)... Giải yếm to bng ngồi
lưng áo và giải yếm thắt vịng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao
và thắt lưng. Bao của các cô gái quan họ xưa thường sử dụng chất liệu sồi se,
màu đen, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền mỏng ở
trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy ba thân áo
trước, thắt múi to để che phía trước bụng. Thắt lưng thường là loại bao nhỏ
bằng chừng 1/3 bao, dùng để thắt chặt cạp váy vào eo. Thắt lưng cũng buộc
múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm tạo nên những múi hoa
màu sắc phía trước người con gái. Liền chị mặc váy váy sồi, váy lụa, đôi khi
8
có người mặc váy kép với váy trong bằng lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy
ngoài bằng the, lụa. Váy màu đen. Người biết mặc váy khéo là không để váy
hớt trước, khơng để váy qy trịn lấy người như mặc quần mà phải thu xếp
sao cho phía trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi
hớt lên chớm tầm đơi con khoai phía gót chân.
Liền chị mang dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ
cơng; có một vịng trịn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai khiến
khi đi lại, không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm dép phải
biết nện, thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che dấu đầu các ngón
chân. Ngồi áo, quần, thắt lưng, dép, người liền chị cịn chít khăn mỏ quạ, đội
nón quai thao, và thắt lưng đeo dây xà tích.
1.4 Các hình thức sinh hoat văn hóa của dân ca quan họ
Dân ca quan họ là hát đối đáp nam,nữ. Họ hát quan họ vào mùa
xuân,mùa thu khi có lễ hội hay khi có bạn bè. Một cặp nữ của làng này hát
với một cặp nam của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và
đối giọng. Cặp hát phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng hát
của hai người phải hợp thành một giọng. Họ hát những bài ca mà lời là thơ, ca
9
dao có từ ngữ trong sáng, mẫu mực thể hiện tình u lứa đơi, khơng có nhạc
đệm kèm theo. Có 4 kỹ thuật hát đặc trưng: Vang, rền nền, nảy. Hát quan họ
có 3 hình thức chính: Hát canh,hát thi lấy giải,hát hội. Hát quan họ gắn liền
với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các bọn quan họ,tục “ngủ bọn”. Mặc dù các
phong tục này không được thực hành nhiều như trước đây, cộng đồng cư dân
các làng quan họ vẫn bảo tồn và truyền dạy nghệ thuật dân ca quan họ này.
Sinh họat văn hóa của các liền anh, liền chị xứ Kinh Bắc có nhiều
hình thức tổ chức khác nhau. Canh hát chính thống phải tuân thủ đủ trình
tự: lề lối, giọng vặt, giã bạn. Lề lối là các bài quan họ cổ, thường hát ở
nhịp độ chậm, bài bản có nhiều tiếng đệm, lời phụ. Người hát quan họ lề
lối phải biết các kĩ thuật như nền, rền, nảy, vang,.. mới có thể thực hiện
đúng và tốt kĩ thuật.
- Nền: là đặc điểm của tiếng đệm tạo nên mặt bằng giai điệu, qua đó làm
nổi bật lời thơ, âm điệu của lời thơ. Tiếng đệm thường có giai điệu nằm trong
quãng 2, 3 thỉnh thỏang có quãng 4,5, ít gặp quãng 6. Đặc điểm nền trong quan
họ là nói đến đặc điểm các tiếng đệm như i, ơ, hự, rằng là, tính tình tang,… tạo
nên các tiếng đệm, làm nền và kết nối lời thơ. Trong quan họ, tiếng đệm có
chức năng đện hơi, đệm nhịp, đệm nghĩa, làm cho giai điệu phát triển.
Tiếng đệm trong quan họ địi hỏi kĩ thuật tương đối khó. Để hát được
nền phải giữ được hơi thở đều, liên tục, khẩu hình vừa phải, vị trí âm thanh ít
thay đổi, hóa quyện, ít thay đổi, đứt qng.
- Rền: là đặc điểm âm thanh trong câu hát có độ rung đều đều, liên tục
không dứt. rền là cách hát nhấn nhá, luyến láy và rung giọng, giai điệu phát
triển liên tục, vì vậy địi hỏi người hát phải đạt trình độ tinh tế. Hát rền cần
phải giữ tư thế, cổ họng thật thỏai mái, tự nhiên, khẩu hình mở vừa phải, đặt
âm thanh ở hàm trên, hàm dưới rơi tự do, lấy hơi vừa đủ. Âm thanh phát ra
vừa phải có độ vang, vừa có độ rung của giọng, khơng bị đứt quãng.
10
- Nảy: là đặc điểm âm thanh bị tắc ở cổ họng, sau đó được bật ra ngịai
tạo thành độ nảy của âm thanh. Nảy thường rơi vào những âm ở họng hoặc
tắc họng như ư, hự, í ợ, ạ. Có 2 kiểu:
+ Kiểu 1: sau khi tắc lại ở họng, âm bật ra, tiếp tục kéo dài và có độ
rung giọng như trường hợp âm ơ, hự, ạ trong câu bỉ của bài gọi đò.
+ Kiểu 2:sau khi tắc giọng, âm bật ra và dừng lại đột ngộtnhư trong câu
la hự, ối hự của bài tìm người, hoặc câu mía í ơ trong bài cái ả,..
Nảy là một kiểu sáng tạo nghệ thuật của dòng âm nhạc dân gian tuy
nhiên mỗi thể lọai có cách nảy khác nhau. Những âm nẩy tưởng đối phong
phú, thường rơi vào âm đệm như ư, hự, í ơ, ạ,… và một số trường hợp những
từ thuộc phần lời thơ của bài hát.
- Vang: là đặc điểm âm thanh truyền đi mạnh và lan tỏa rộng ra xung
quanh, là kết quả cộng hưởng của miệng hát để khuyếch đại âm thanh. Những
yếu tố hỗ trợ vang trong hát quan họ gồm: giai điệu bài hát, sử dụng nhiều âm
thêu, luyến, nốt hoa mỹ, âm đệm mở như ơ, í ơ, í a,.. với độ ngân dài. Vang có
chức năng làm cho tuyến giai điệu của bài hát phát triển ở nhiều cung bậc
trầm bổng khác nhau, làm cho tác phẩm nghệ thuật thật sự sống động. Vang
trong hát quan họ là nhờ tuyến giai điệu phát triển liên tục, kết hợp luyến láy
và ngân những âm đệm mở. Để hát vang cần hát chậm hơi thở đầy, khẩu hình
mở, vịm họng chống lên cao, phát âm phải rõ ràng và có độ sáng.
Quan họ cũng tuân thủ theo luật lệ: đối đáp nam nữ, đối giọng, đối lời
và hát đôi nam đối với nữ. Giọng vặt với số lượng bài bản phong phú, nội
dung văn học cũng như ngơn ngữ âm nhạc có sức hấp dẫn nhiều đối tượng
thưởng thức âm nhạc trong và ngịai nước. Chính những hình thức sinh họat
quan họ này đã góp phần lưu truyền, bảo tồn văn hóa truyền thống của dân
tộc. Hát quan họ cịn có nhiều hình thức khác nhau như lối hát trùm đầu ở
làng viêm xá, hát hiếu ở lũng giang,… hầu như mỗi làng đều có những thêm
bớt đặc thù của từng địa phương nhưng tưu chung thì vẫn cùng mục đích vui
chơi hội hè đình đám trong những ngày nơng nhàn và cầu mong phúc lợi cho
một cuộc sống thanh bình thịnh vượng
11
Chương 2. Thực trạng sinh hoạt và vai trò của công tác tư
trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa dân ca quan
họ ở Bắc Ninh hiện nay
2.1 Thành tựu
Quan họ Bắc Ninh vốn là một đặc sản của người dân Kinh Bắc. Đời
sống của người dân nơi đây đã gắn liền với những làn điệu quan họ. Nói đến
Bắc Ninh là nói đến quan họ, cũng như nói về nơi khởi đầu của quan họ thì
người ta phải nói đến Bắc Ninh. Quan họ khơng chỉ là lời ca, câu hát mà quan
họ còn là máu thịt của người dân Bắc Ninh. Từ khi sinh ra và lớn lên, mỗi
người dân nơi đây ít nhiều cũng biết hát quan họ. Đó chính là điểm mạnh của
tính lưu truyền. Với 49 làng Quan họ cổ trên đất Kinh Bắc xưa - mỗi làng đều
có một phong cách, một lối chơi mang màu sắc riêng của mình. Tiếng hát
Quan họ làng có một thời tưởng như mai một. May thay điều đó đã khơng xảy
ra. Dù phải qua những đoạn thǎng trầm, mờ tỏ - nhưng cho đến hôm nay tiếng
hát Quan họ làng đã và luôn vang lên vào những ngày vui, ngày hội của làng
quê Kinh Bắc cổ.
12
Trước đây, việc truyền dạy dân ca quan họ là trách nhiệm của thế hệ
trước. Mỗi làng quan họ lại có bản sắc riêng và họ có nhiệm vụ truyền dạy
quan họ cho con em mình. Ngày nay, bên cạnh việc truyền dạy mang tính địa
phương như vậy, ở Bắc Ninh đã có cơ sở đào tạo nghệ sĩ hát quan họ chuyên
nghiệp đó là trường “Trung cấp văn hóa nghệ thuật Bắc Ninh”, đồng thời ở
Bắc Ninh cũng đã thành lập “Đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh” chuyên biểu
diễn quan họ phục vụ trong nước và quốc tế.
Ở Bắc Ninh, sinh hoạt ca hát quan họ được diễn ra thường xuyên. Khi
nhắc đến ngày hội hát quan họ là nhắc tới hội Lim. Hội được mở trên đồi
Lim, tên nôm của xã Lũng Giang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh; nơi có
chùa Lim thờ ơng Trung Hiếu Hầu là người sáng lập ra tục hát quan họ. Hội
Lim mở vào ngày 13 tháng giêng âm lịch hàng năm. Theo sách “Diễn xướng
dân gian Việt Nam” của giáo sư Vũ Ngọc Khánh và Phạm Minh Thảo, vào
ngày tổ chức hội lim, có một ơng trùm hoặc bà trùm đứng ra làm “cơm quan
họ” và sửa soạn chuẩn bị cho hát quan họ tại gia đình mình. Mờ sáng, các liền
anh liền chị đến giúp gia chủ têm trầu, làm gà, thổi xôi rồi lên chùa chờ
khách. Quan họ bạn mặc lễ phục ngày hội, đi thành từng nhóm tới chùa Lim.
ở đây, quan họ chủ và khách vào lễ Phật rồi kéo về gia đình ơng trùm tổ chức
hát. Vào đến cổng, quan họ bạn cất tiếng hát mừng làng đầu năm, mừng nhà,
mừng bạn. Quan họ chủ đứng giữa sân hát “đón nhời”, chúc và chào bạn.
Quan họ chủ đỡ ơ, đỡ nón cho quan họ bạn, đón quan họ bạn vào phản hoặc
tràng kỷ rồi mời quan họ bạn xơi trầu, uống nước. Quan họ bạn liền hát đáp
lời cảm ơn. Hát đến trưa thì cỗ bàn làm xong, quan họ chủ hát mời quan họ
bạn ăn cơm, nâng chén. Quan họ bạn hát cảm ơn và hát mời quan họ chủ
ngồi. Buổi chiều, mọi người cùng đi xem hội. ở đây, họ có thể hát với nhau
đơi câu, thành từng đám. Nếu hợp thì hát tiếp, cịn khơng hợp thì họ chào
nhau rồi đi tìm bạn hát khác. Đến tối, cuộc hát quan họ lại tiếp tục ở nhà, các
13
quan họ hát từ bài “Hừ la” giọng lề lối trở đi. Nửa đêm, họ tạm nghỉ xơi tiệc
nước rồi lại hát tiếp tục đến sáng mới giải tán.
Cho tới nay, hằng năm cứ từ ngày mồng 4 tháng giêng âm lịch, các
làng quan họ ở Bắc Ninh bắt đầu rộn ràng tiếng hát của các liền anh liền chị
để chuẩn bị cho ngày hội quan họ. Những câu ca quan họ mộc mạc, nhưng rất
trọng nghĩa tình giống như con người của vùng quê Kinh Bắc. Ngày 10 và 11
tháng giêng âm lịch, ở Bắc Ninh thường tổ chức những cuộc thi hát quan họ.
Với các giọng hát quan họ trẻ các thí sinh phải thuộc trăm làn điệu, còn với
các liền anh liền chị lớp trước, họ phải thuộc từ 150 làn điệu trở lên. Ngày mở
hội, khách về dự hội Lim rất đông để được xem các liền anh liền chị hát quan
họ, họ hát ở sau chùa, hát trên đồi, hát đối đáp từng cặp đôi, hát trên thuyền...
Cũng như nhiều nước trên thế giới, âm nhạc dân gian Việt Nam là
nguồn cội để nền âm nhạc Việt Nam phát triển. Quan họ Bắc Ninh là một sinh
hoạt văn hóa nghệ thuật đặc sắc của văn hóa dân gian Việt Nam. Cùng với
thời gian, quan họ Bắc Ninh khơng cịn chỉ bó gọn là “quan họ làng” mà đã
lan tỏa tới khắp mọi miền của tổ quốc, thậm chí cịn bay qua biên giới tới bè
bạn năm châu. Việc giới thiệu truyền bá cho dân ca quan họ là rất nên làm,
bởi chúng ta đã biết và có ý thức đến việc bảo tồn lưu giữ vốn cổ của dân tộc.
Chúng ta cũng đã biết dùng vốn cổ đó để làm niềm tự hào cho nghệ thuật
nước nhà. Trước kia, các liền anh liền chị quan họ chỉ được hát trong sinh
hoạt của “quan họ làng”, còn nay, tiếng hát của họ đã được phát trên làn sóng
đài phát thanh, trên làn sóng truyền hình- trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Quan họ không chỉ là các cuộc thi hát giữa các làng với nhau mà đã
trở thành những cuộc thi hát dân ca tiêu biểu của đất Bắc, trở thành những làn
điệu quen thuộc của người Việt Nam.
Trong kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban Liên Chính phủ Cơng ước
UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, diễn ra tại Abu Dhabi, thủ đô của
Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, đợt công nhận di sản vào danh sách Đại
14
diện của nhân loại có 111 hồ sơ đề cử từ 34 quốc gia. Trải qua 3 vòng thẩm
định khoa học nghiêm ngặt, Ủy ban đã cơng bố chỉ có 76 di sản được cơng
nhận, trong đó có Quan họ Bắc Ninh của Việt Nam. Quan họ Bắc Ninh được
Ủy ban Liên Chính phủ Cơng ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật
thể long trọng cơng bố là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Quan họ Bắc Ninh được Hội đồng chuyên môn của UNESCO đánh giá cao cả
về nghệ thuật trình diễn lẫn trang phục, về giá trị văn hóa đặc biệt, về tập
quán xã hội, nghệ thuật trình diễn, kỹ thuật hát, phong cách ứng xử văn hóa,
bài bản, ngơn từ và cả về trang phục. Hồ sơ đã đáp ứng đầy đủ tiêu chí để
quan họ Bắc Ninh trở thành di sản đại diện của nhân loại với các kết luận:
Quan họ luôn được thực hành trong các hoạt động văn hóa, xã hội của cộng
đồng, được cộng đồng hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang lưu giữ, trao truyền từ
nhiều thế hệ trở thành bản sắc của địa phương và lan tỏa trở thành khơng gian
văn hóa đặc thù.
2.2 Hạn chế
Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, các giá trị âm nhạc cổ
truyền Việt Nam đã, đang và sẽ chịu nhiều ảnh hưởng trước những tác động
từ sinh hoạt hiện đại của xã hội. Trong bối cảnh đó, cũng như nhiều loại hình
âm nhạc khác, quan họ cũng có những vấn đề riêng của nó, nhất là khi quan
họ đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Hàng chục năm trời, chúng ta đã có một niềm tin chân thành vào mơ
hình bảo tồn nghệ thuật quan họ kiểu dạng đồn văn cơng chun nghiệp. Ở
đó, lúc ban đầu, các nghệ sĩ đã tỏa đi khắp các làng quê quan họ, tìm đến
những bậc tài danh để học hỏi, sưu tầm vốn liếng cho riêng mình. Song, điều
đáng nói hơn cả là phương thức lưu truyền và thụ hưởng của mơ hình này, cái
mà các cụ nghệ nhân thường gọi là "quan họ đoàn, quan họ đài". Ở đây,
nguyên tắc nghệ thuật có tính cơ bản của "quan họ đồn, quan họ đài" là phải
có nhạc cụ đệm, với nền tiết tấu chu kỳ "xập xình" cơ bản, và xét từ mặt nào
15
đó, quan họ như thế cũng có tính hấp dẫn riêng của nó và một thời được coi
như là đại diện cho dân ca quan họ Bắc Ninh, được mang đi giới thiệu khắp
năm châu bốn bể. Giới nghiên cứu thường gọi đó là "quan họ cải biên" để
phân biệt với quan họ cổ truyền - vốn là hình thức thanh nhạc từng cặp hát
đồng giọng không nhạc đệm.
Sau nhiều năm tồn tại, khi cây đàn organ điện tử bắt đầu xuất hiện, tính
tiện dụng của nó cùng với cơ chế thị trường đã nhanh chóng tác động vào
nhạc quan họ cải biên. Thời nay, đi điền dã khắp miền quê Kinh Bắc, không
đâu là không thấy những nhạc công đánh đàn organ, kèm theo có dàn phóng
thanh tân kỳ làm nền cho các tiết mục trong kỳ lễ hội. Mấy năm qua, đó là
một dịch vụ rất "đắt khách", một nhu cầu không thể thiếu của miền quê quan
họ. Cũng cần phải nói thêm rằng, nhu cầu văn nghệ làng quê quan họ bây giờ
đã khác xưa rất nhiều. Bên cạnh quan họ, thấy sự góp mặt khá nhiều ca khúc
mới, đủ loại, được "nhái" lại từ nhiều khuôn dạng của âm nhạc mới Việt Nam.
Bên cạnh sự hoạt động của các mơ hình trong thiết chế văn hóa nghệ
thuật, hơn mười năm qua, sự nở rộ của các sân chơi quan họ cải biên là điều
dễ nhận thấy. Dường như làng nào cũng có một câu lạc bộ quan họ để phục
vụ nhu cầu văn nghệ cho các lễ hội, đám cưới, đám khao... Ở những chốn ăn
chơi sầm uất, các "nhà hàng quan họ" cũng chen nhau đua nở. Một dạo, báo
chí đã có những phản ứng về mặt trái của lối văn nghệ còn kém lành mạnh
này. Vào đó sẽ thấy ngay, mâm cơm có quan họ sẽ kèm theo một giá cắt cổ so
với các mâm cơm thường như thế nào... Giờ đây, về với các lễ hội, sẽ là bình
thường khi thấy cảnh các thuyền rồng bằng tôn sơn xanh đỏ lượn lờ, men theo
mép nước để các "liền anh liền chị" làng quê ngả nón thúng quai thao ra nhận
tiền thưởng của người dân đứng xem trên bờ. Cẩn thận hơn, có đội quan họ,
người ta để hẳn một cái hộp giấy khá to trên thuyền đề chữ "Quỹ bảo tồn quan
họ" để tránh việc thị phi rằng... "quan họ xin tiền"!
16
Bấy lâu nay, Nhà nước đã cố gắng rất nhiều để có thể tơn vinh, phục
dựng nghệ thuật quan họ cổ truyền với các cuộc thi hát hằng năm, hay sự tôn
vinh, phong danh hiệu cho các nghệ nhân lão thành. Và gần đây là các cuộc
điền dã để nghiên cứu xây dựng hồ sơ quan họ trình UNESCO... Song tất cả
mọi cố gắng đó vẫn chỉ như việc "ném đá ao bèo", không thể cưỡng lại được
xu thế chung - cái mối quan hệ cung - cầu quan họ cải biên (tức quan họ "xập
xình"). Trong những cuộc điền dã năm 2006, chúng tôi đã thật sự vất vả với
mọi biểu hiện từ toàn bộ đến từng bộ phận của thực trạng này. Vài năm trở lại
đây, những người có nhu cầu nghe một canh hát tái hiện kiểu quan họ cổ
truyền thường tự bảo nhau liên hệ, tổ chức như những sinh hoạt tự phát. Ðây
đó, vẫn cịn các "liền anh, liền chị" tâm huyết với quan họ cổ truyền sẵn lòng
đáp ứng những nhu cầu về cái cổ truyền. Cịn ngồi ra, đơi khi những sinh
hoạt này dường như chỉ còn để phục vụ yêu cầu của các đợt điền dã, nghiên
cứu quan họ của giới chuyên mơn mà thơi.
2.3 Vai trị của cơng tác tư tưởng trong việc bảo tồn và phát triển
các gía trị văn hóa Dân ca quan họ Bắc Ninh hiện nay.
Cơng tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong
toàn bộ hoạt động của Ðảng, gắn liền với mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập, công tác tư tưởng càng
trở nên đặc biệt quan trọng.
Quan họ Bắc Ninh là một trong những phần hồn quan trọng nhất của
văn hóa đồng bằng Bắc bộ
Hàng chục năm nay theo thống kê nho nhỏ thì nhận thấy rằng Quan họ
Bắc Ninh hầu như ngày nào cũng " phát sóng , phát hình " trên đài phát thanh
và truyền hình tỉnh Bắc Ninh và các đài Trung ương và tỉnh Bạn.
Nhưng quan họ Bắc Ninh cũng đang đứng trước thử thách khốc liệt
trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế , bởi vì lớp già lần lượt ra đi , lớp
17
trẻ thì phải lăn lộn mưu sinh, khơng gian Quan họ Bắc Ninh ngày ngày bị thu
hẹp , luỹ tre làng , ruộng lúa bị các Khu công nghiệp đẩy lùi ., đặc biệt nữa là
nếu làm nghệ sỹ quan họ chuyên nghiệp phải hàng chục năm khổ luyện thì
liệu thế hệ trẻ có đeo đuổi tận tậm khơng ? Và tương lai hành nghề họ có ni
được con ăn học hoặc đi du học nước ngoài như con người làm nghề khác
khơng ?
Vì vậy cần đi sâu đi sát vào đời sống nhân dân, nâng cao hơn nữa công
tác tư tưởng, tuyên tuyền, giáo dục các thế hệ trẻ.
Hầu như từ Bắc chí Nam ai cũng thích nghe quan họ , đó chính cịn là
đất lành để quan họ Bắc Ninh đó đất trường tồn.
Việc gìn giữ và phát huy những câu hát Quan họ đối với thế hệ sau này
là việc làm rất quan trọng. Nhưng nếu cứ đưa y nguyên những lời ca, giai điệu
của Quan họ cổ vào đời sống thì rất ít người có thể nghe và u thích nó. Vì
thế, việc các bạn trẻ hiện nay đã sáng tạo Quan họ sao cho phù hợp với người
nghe là một việc làm rất thiết thực, có ý nghĩa.
Bằng những cách làm rất sáng tạo, mới mẻ như việc hát Quan họ với
trống, với piano, đệm đàn organ, ghi-ta,... những làn điệu, câu hát Quan họ đã
thực sự trở nên gần gũi với giới trẻ hơn. Như bạn trẻ Anh Khang đã từng làm
mưa làm gió với các làn Điệu quan họ được đệm thêm đàn guitar như: Bèo
dạt mây trôi, Đi học… Phong cách thể hiện mới mẻ, độc đáo đó được các bạn
trẻ hưởng ứng rất nhiệt tình
Việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa cổ, nguyên sơ đang
được nhà nước ta rất chú trọng. Bảo tồn là gìn giữ những làn điệu dân ca,
những nét đặc trưng, cô đọng nhất của mỗi vùng miền. Việc phát huy những
giá trị văn hóa đó là đưa những làn điệu Quan họ mượt mà, đằm thắm đó đến
với đơng đảo cơng chúng, đến gần hơn với tất cả mọi người.
18
Hệ thống tư liệu lưu trữ, phục vụ cho việc tiếp cận của cộng đồng với
các tư liệu về quan họ Bắc Ninh. Tổ chức các liên hoan (festival) quan họ
theo địa bàn huyện, thành phố, thị xã. Phối hợp với Viện Văn hóa nghệ thuật
Việt Nam, Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam nghiên cứu, triển khai các
chương trình truyền dạy, phục hồi kĩ thuật hát quan họ truyền thống, tìm các
giải pháp để quan họ thích ứng với sự phát triển của các phương tiện âm
thanh trong đời sống đương đại. Thành lập Khoa Dân ca quan họ trong
Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật của tỉnh và xúc tiến thành lập Nhà hát
dân ca quan họ Bắc Ninh, tiếp tục duy trì chuyên mục giới thiệu, quảng bá và
truyền dạy quan họ trên Báo Bắc Ninh, Đài Phát thanh - Truyền hình Bắc
Ninh và trên hệ thống đài phát thanh, truyền thanh huyện, thị xã, thành phố và
cơ sở. Xây dựng một số trang web thành trung tâm lưu trữ hoặc thư viện điện
tử về dân ca quan họ Bắc Ninh. Tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức của
cộng đồng về giá trị của di sản và trách nhiệm đối với di sản, thông qua việc
xuất bản và cung cấp cho cộng đồng những sản phẩm văn hóa quan họ, dân ca
quan họ dưới nhiều hình thức như xuất bản sách, sản xuất đĩa CD, VCD,
DVD… Tạo điều kiện để cộng đồng trình diễn và giao lưu dân ca quan họ
Bắc Ninh với các cộng đồng khác trong nước và ngoài nước. Phối hợp với
hoạt động du lịch, gắn kết các tour du lịch với các làng quan họ gốc, khai thác
và phát huy giá trị di sản quan họ một cách bền vững.
Văn hóa quan họ là tài sản quý báu về nhiều mặt
+ Dân ca quan họ: Là trung tâm, là đỉnh cao của đời sống văn hóa, là
phương tiện thể hiện văn hóa quan họ qua lời ca tiếng hát.
+ Lễ hội Quan họ: Là mơi trường thể hiện văn hóa quan họ. Phần lễ,
phần hội đều xoay xung quanh văn hóa quan họ.
19
+ Tín ngưỡng Quan họ: Thể hiện đức tin của con người vào tình cảm
chân thật, tình người, nghĩa cử, tình bạn, phong cách sống thanh bạch, trong
sáng.
+ Tục kết bạn, ngũ bọn quan họ: Là biện pháp sinh hoạt, giao lưu kết
nghĩa, là cách tốt nhất cho sự tồn tại, thăng hoa của quan họ.
+ Hành vi văn hóa Quan họ: Đó là nét nhân văn ứng xử của con người
vùng quan họ. Như thế để tìm hiểu, khai thác, thưởng thức quan họ cần quan
tâm đến cả không gian quan họ rộng lớn, nhiều mặt chứ không chỉ là ca hát.
20