Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253 KB, 10 trang )

MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
Nguyễn Khải

Vào bài: Có người đã cho rằng, ai già rồi mới thích đọc Nguyễn Khải, điều đó quả
cũng có lý bởi hầu như tác phẩm nào của ông cũng bắt ta phải suy nghĩ rất nhiều. Ta
khơng thể nhìn đời bằng con mắt hồn nhiên vơ tư được khi lạc bước vào thế giới nhân
vật của ông. Dù giọng văn Nguyễn Khải, cũng có lúc đùa vui, hóm hỉnh thật thú vị. Có
lẽ, đó là tạng riêng của mỗi người cầm bút... Cho nên, dù đã khá quen với kiểu nhân
vật của ông, đọc lại truyện ngắn Một người Hà Nội ta vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Lễ
kỉ niệm một ngàn năm Thăng Long đang đến gần, đọc lại tác phẩm này, ta khơng khỏi
giật mình, vì sao cách đây hơn chục năm, mà tác giả lại đặt ra được những vấn đề đến
hôm nay vẫn cịn rất nóng.
I. Tìm hiểu chung
1. Vài nét về tác giả
- 1930 - 2008
- Là một trong những cây bút hàng đầu của văn xuôi 1945 đến nay. Nhà PBVH Vương
Trí Nhàn viết: “Muốn hiểu con người thời đại với tất cả những hay dở của họ, nhất là
muốn hiểu cách nghĩ của họ, cuộc sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải”.
- Nét phong cách nổi bật: Chất triết lí, chính luận. Hình tượng tác giả - một người trải
nghiệm ln có nhu cầu bàn bạc, chia sẻ với bạn đọc những đúc kết của mình - thường
để lại những ấn tượng sắc nét và thú vị. Ông có khả năng tinh nhạy trong phát hiện và
trình bày vấn đề, phân tích tâm lý sắc sảo; ln đưa ra những bài học nhận thức qua
những hình tượng nghệ thuật có sức kích thích đối thoại.
- Q trình sáng tác: Trước 1978, quan tâm đến các vấn đề thời sự chính trị, con người
được đánh giá chủ yếu qua tiêu chí đạo đức và tiêu chí chính trị. Tác phẩm có khuynh
hướng chính luận với sức mạnh của lí trí tỉnh táo (Tiểu thuyết “Xung đột” 1959, tập
truyện ngắn “Mùa lạc” 1960, truyện “Tầm nhìn xa” 1963… )
Sau 1978, quan tâm nhiều hơn đến cái đời thường, tới số phận cá nhân. Tiêu chí đánh
giá con người mở rộng ở các góc độ văn hố, lịch sử và triết học. Tác phẩm có khuynh
hướng triết luận, giọng điệu đơn hậu, trầm lắng, nhiều chiêm nghiệm: tiểu thuyết “Cha
và Con và…” 1979, tiểu thuyết “Thời gian của người” 1985, tập truyện “Hà Nội trong


mắt tôi” 1995, truyện ngắn “Sống ở đời” 2002, tiểu thuyết “Thượng đế thì cười”
2004… Có thể nói, đời văn Nguyễn Khải phản ánh sinh động và khá chân thực quá
trình vận động của cả nền văn học từ quỹ đạo chiến tranh sang quỹ đạo hoà bình.
2. Tác phẩm:


2
- Xuất xứ: Rút từ tập truyện: "Hà Nội trong mắt tơi".
- Vị trí: Ra đời năm 1995, gắn với cơng cuộc đổi mới của đất nước. Tác giả có ý dành
tập truyện này để trình bày những khám phá, kiến giải của ơng về “đất kinh kì”. Nhu
cầu khẳng định kinh nghiệm cá nhân bộc lộ rõ qua cách đặt nhan đề và nhất là qua cái
tơi mang tính tự truyện - biểu hiện cho xu hướng dân chủ hố trong thời kì đổi mới.
Nhân vật bà Hiền tiêu biểu cho những người “lớn nhanh hơn thời đại” khiến “miếng
đất sinh ra họ trở nên chật chội” mà Nguyễn Khải rất say mê. Nhân vật được xây dựng
như một ngoại lệ so với văn học trước 1978: nổi bật với bản lĩnh cá nhân, khả năng tự
ý thức, nhân cách đẹp…
II. Đọc - hiểu văn bản:
Trước đây, ở giai đoạn văn học 1945 – 1975, ta thương quen với những nữ nhân vật
chính diện thuộc thành phần cơng, nơng, binh giỏi việc nước, đảm việc nhà, hoặc sẵn
sàng xông pha nơi hòn tên mũi đạn, hoặc ở nhà hăng say lao động sản xuất làm hậu
phương vững chắc cho chồng con chiến đấu, cịn sau 1975, ta có thể gặp lại họ trong
những thành tích hoặc những bi kịch đời thường... Tóm lại là một tuýp người quen
thuộc mà khơng cần đọc hết tác phẩm ta cũng có thể hình dung nhà văn sẽ nói gì.
Nhưng nhân vật cơ Hiền trong Một người Hà Nội thì lại khác. Cơ chỉ là một người dân
bình thường của Hà Nội, khơng kì tích, khơng chiến cơng, khơng gặp bi kịch đau đớn
gì về số phận, khơng bị ai áp bức bóc lột đè nén, mọi việc của cuộc đời mình dường
như cô đều chủ động sắp xếp cả. Thế nhưng, qua một cuộc đời của một người bình
thường giản dị như thế, ta lại thấy được những biến động mạnh mẽ của đời sống, của
lịch sử một dân tộc, một đất nước, qua đó tác giả đã gợi cho ta bao ngẫm ngợi về những
điều được, mất trong đời sống, và vẻ đẹp của “một hạt bụi vàng” vẫn lấp lánh trong

thời gian, và qua sự chạm khắc tài tình của người thợ bạc giàu tài năng và tâm huyết nhà văn Nguyễn Khải, đã trở thành một Bông hồng vàng q giá của mảnh đất văn hiến
nghìn năm. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu để thấy rõ hơn những điều mà nhà văn muốn
gửi gắm cùng bạn đọc.
1. Hình tượng nhân vật bà Hiền trong mối quan hệ gia đình.
- Việc hơn nhân: Là phụ nữ có nhan sắc, u văn chương, thời con gái giao du với
nhiều văn nhân nghệ sĩ nhưng khơng chạy theo những tình cảm lãng mạn viển vông.
Cô Hiền chọn bạn trăm năm là ông giáo tiểu học hiền lành, chăm chỉ khiến cả Hà Nội
phải kinh ngạc. Cơ Hiền đã vượt qua thói thường. Vì ơng giáo thời ấy khơng thể đảm
bảo danh lợi. Nhưng ông lại là người khiêm nhường, mô phạm, phù hợp với quan niệm
của cơ về tổ ấm gia đình, gắn với thái độ nghiêm túc của cô đối với hôn nhân (trách
nhiệm làm vợ, làm mẹ… được đặt lên trên mọi thú vui khác).
- Việc sinh con: ở cái thời mà người Việt thích đẻ nhiều con, thì bà Hiền quyết định
chấm dứt sinh đẻ vào năm 40 tuổi. Bà không tin “trời sinh voi, trời sinh cỏ” mà bà tin
con cái phải được nuôi dạy chu đáo để chúng “có thể sống tự lập”. Như vậy, trách
Thuvientoan.net


3
nhiệm của cha mẹ là cho con một nhân cách, chuẩn bị cho con khả năng sống không
bị lệ thuộc. Đó là tình u sáng suốt của người mẹ giàu tự trọng, biết “nhìn xa trơng
rộng”.
- Việc quản lý gia đình: bà Hiền ln là người chủ động, tự tin. Bà hiểu rõ vai trò của
người mẹ, người vợ. Khi phê bình thói “bắt nạt vợ” của người cháu, bà bảo: “Người
đàn bà khơng biết nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”. Quan niệm “bình
đẳng nam nữ” của bà xuất phát từ thiên chức của người phụ nữ - đấy là một chân lý tự
nhiên, giản dị.
- Việc dạy con: bà Hiền dạy con khi chúng cịn nhỏ và dạy từ những cái nhỏ nhất. Bà
khơng coi chuyện ngồi ăn, chuyện cầm bát, cầm đũa, múc canh… chỉ là chuyện sinh
hoạt vặt vãnh. Bà coi đấy là văn hoá sống, văn hoá người, hơn thế, đấy là văn hoá của
người Hà Nội: “chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn,

không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Cái chuẩn ở đây là lịng tự trọng.
2. Hình tượng nhân vật bà Hiền trong mối quan hệ xã hội.
+ Trước 1955: cô Hiền sinh ra trong một gia đình gốc Hà Nội, giàu có nhưng lương
thiện. Mẹ bn nước mắm, bố đậu tú tài, mê văn thơ, dạy con theo khuôn phép nhà
quan. Cô Hiền đẹp, thông minh, con nhà gia giáo nề nếp, được bố mẹ cho mở phòng
tiếp khách văn chương.
+ Trong kháng chiến chống Pháp: vẫn sống ở Hà Nội, vì khơng thể xa Hà Nội sinh cơ
lập nghiệp ở một vùng đất khác. Điều này khiến ta không khỏi nghi ngại, vì bao nhiêu
người con Hà Nội vẫn sẵn sàng ra đi vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nhưng đấy là cách
cơ thể hiện tình u, sự gắn bó của cơ với Hà Nội thiết thực, cụ thể, theo cách nghĩ của
cô.
+ Trước niềm vui chiến thắng và cách cư xử của mọi người, cô gắt, cau mặt, thở dài
quay đi, cơ khơng bằng lịng với cách bắt chước người cách mạng không phải lối, cô
nhận ra niềm vui hơi thái quá, và có phần thỏa mãn của mọi người sau chiến thắng
“Phải lo mà làm ăn chứ ?”
+ Sau ngày Hà Nội giải phóng, cơ vẫn có hai dinh cơ, nhưng cơ đã khơn ngoan bán
ngôi nhà ở hàng Bún cho một người mới ở kháng chiến về, không đồng ý cho chồng
mua máy, rồi mở cửa hàng lưu niệm làm hoa giấy, bán rất đắt nhưng chịu thuế thấp,...
Tóm lại, cơ là một người nhạy bén và thích ứng rất nhanh với thời cuộc. Dường như
người đàn bà khơn ngoan đó đã lường trước hết mọi việc, nhưng không thực dụng, vị
kỉ. Tự nguyện bỏ ý định làm giàu để thực hiện chủ trương của nhà nước, nhưng cũng
vẫn chua chát nhận thấy mặt trái trong căn bệnh xã hội của một thời. Đó là tâm lý kì
thị với kinh doanh “Thiếu ăn là vinh chứ khơng là nhục... chế độ này khơng thích cá
nhân làm giàu... các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có đủ
tài để khơng phải sống ăn bám”.
Thuvientoan.net


4
- Cơ đối xử rất tình nghĩa với người ở, nhưng luôn bị để ý, căn bệnh ấu trĩ của mọi

thời, đến bây giờ chúng ta có thể trả lời được, nhưng cơ Hiền đã nhìn thấy trước “Chính
phủ can thiệp vào việc của dân nhiều quá”, người đàn bà lịch lãm, từng trải, bản lĩnh
đầy mình đó vẫn giữ nếp sinh hoạt khác hẳn mọi người, mà không sợ lời đàm tiếu của
dư luận. Thấy đúng thì làm, đã làm khơng sợ. Đó quả là một tay nội tướng giỏi.
Tuy nhiên, cách quản lý gia đình tháo vát của cô Hiền khiến ta không khỏi băn khoăn,
tâm lý vẫn có gì vương vướng như ta phải gặp lại một Hồng trong Đơi mắt của Nam
Cao. Nhưng khơng, hãy xem cô Hiền đã dạy bảo con như thế nào khi tổ quốc lâm nguy,
hãy xét tư cách công dân của một người như cô Hiền, trong giờ phút nước sôi lửa bỏng
của dân tộc.
+ Miền Bắc bước vào thời kỳ đương đầu với chiến tranh phá hoại bằng không quân
của Mĩ. Cô Hiền dạy con cách sống “biết tự trọng, biết xấu hổ”, biết sống với bản chất
người Hà Nội. Đó cũng là lí do vì sao cơ sẵn sàng cho con trai ra trận: “Tao đau đớn
mà bằng lòng, vì tao khơng muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng
là biết tự trọng”. Con người đánh mất lịng tự trọng thì cũng coi như chết về nhân cách.
Có lịng tự trọng sẽ có lịng u nước, có ý thức trách nhiệm với cộng đồng. Có thể
nói, với những người như bà Hiền, lịng yêu nước cũng là một nhu cầu tự nhiên, muốn
được sống bình đẳng với những bà mẹ khác, muốn con người được sống với lịng tự
trọng... Cơ khơng để mình bị điều gì cám dỗ nhưng trái tim lại tự nguyện gắn bó với
số phận của đất nước, thao thức cùng Hà Nội.
+ Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước trong thời kỳ đổi mới, giữa khơng khí xơ
bồ của thời kinh tế thị trường, cô Hiền vẫn là “một người Hà Nội của hôm nay, thuần
túy Hà Nội, khơng pha trộn”. Người kể chuyện thì khơng giấu nỗi thất vọng, hoài nghi,
lo âu khi thấy Hà Nội đang giàu lên, vui hơn, nhưng chỉ là “phần xác”. Ông khơng tin
lớp người đang hăm hở làm giàu cịn biết yêu cái đẹp, còn giữ được nét hào hoa, thanh
lịch của đất kinh kì (biết gọt tỉa và thưởng thức hoa thủy tiên…). Ông “tức và đau” khi
gặp những người Hà Nội thiếu lễ độ, thiếu văn hoá một cách trắng trợn (người hỏi
đường, anh chàng đi xe đạp, cô con gái anh bạn…). Nhưng bà Hiền, người mà ông một
mực q trọng lại “khơng bình luận một lời nào về những nhận xét không mấy vui vẻ
của người cháu. Trước những mảng tối, những góc khuất của Hà Nội hôm nay, bà chỉ
kể cho người cháu chuyện cây si sống lại nhờ nỗ lực của thành phố. Đấy là bằng chứng

cho thấy người Hà Nội hôm nay không chỉ trọng vật chất mà còn quan tâm đến văn
hoa tinh thần. Bà vẫn tin “Hà Nội thời nào cũng đẹp” => Thái độ ung dung tự tại trước
những biến động bên ngoài, trước những nhận xét “hơi nghiệt” của người cháu. Khơng
có một thái độ sống sâu sắc mà chỉ dừng lại ở một cái nhìn hời hợt hay cảm tính thì
khơng thể có một niềm tin như vậy. “Xã hội nào cũng có một giai tầng thượng lưu của
nó để làm chuẩn cho mọi giá trị” - Một quan niệm khiến ta lạnh người, vì nó có thể bị
coi là “phản động” ở thời kì lúc nào ta cũng nghe thấy khẩu hiệu: “Kháng chiến hóa
sinh hoạt, quần chúng hóa tư tưởng”, và chúng ta cũng đang phấn đấu vì một xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh... nhưng ngẫm nghĩ lại một cách sâu xa, nó khơng phải
Thuvientoan.net


5
là khơng có cơ sở. Hà Nội là chuẩn mực văn hố của người Việt. Mỗi cơng dân Hà Nội
càng tự hào về điều đó càng phải có ý thức giữ gìn và phát huy chuẩn mực đó.
+ Thái độ của cô Hiền trước lối sống của người Hà Nội trong cơ chế thị trường hơm
nay càng lý giải...
*Vì sao nhà văn đặt tên truyện “Một người Hà Nội”?
Có lẽ tác giả muốn khắc đậm cốt cách, bản lĩnh của người Hà Nội. Họ ln “là mình”
với cốt cách, bản lĩnh riêng (đại diện cho tinh hoa một dân tộc, một đất nước: Chẳng
thơm cũng thể hoa lài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An)
+ Nét văn hoá lịch lãm, sang trọng: Phòng khách nhà bà như lưu giữ cái hồn cốt Hà
Nội: cổ kính, quý phái và tinh tế “suốt mấy chục năm không hề thay đổi”.
+ Qua sự khơn ngoan, sâu sắc, trí tuệ: Bà nói về tự nhiên, về niềm tin “Thời nào nó
cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi”.
+ Bà khiêm tốn và rộng lượng, hịa mình vào cái mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ
không làm ướt áo, bà lau chùi cái bát cổ để cắm hoa thuỷ tiên. Tất cả làm nên cái duyên
riêng của Hà Nội, khiến người Hà Nội xa xứ phải kêu thầm “Thấy Tết quá, Hà Nội
quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội”. Những phẩm chất đó được nhào
nặn từ truyền thống gia đình, từ năng lực tự ý thức, từ kinh nghiệm sống mà bà đúc rút

được trong chính cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ, và đó là “một
người Hà Nội”.
=> Như vây, sự đối lập giữa Hà Nội xưa và nay chỉ là nhất thời, khi con người quan
quan tâm đến vẻ đẹp văn hố, ta sẽ cịn gặp lại các giá trị truyền thống.
Có thể coi chuyện cây si cổ thụ bị bão đánh bật rễ vẫn sống lại là quy luật bất diệt của
sự sống. Quy luật này được khẳng định bằng niềm tin bất diệt của con người: thành
phố đã kiên trì cứu sống cây si. Cây si cũng là một biểu tượng nghệ thuật, một hình
ảnh ẩn dụ về vẻ đẹp Hà Nội: Hà Nội có thể bị tàn phá, bị nhiễm bệnh, nhưng Hà Nội
vẫn là Hà Nội với truyền thống văn hố được ni dưỡng suốt trường kì lịch sử.
Cịn điều gì khiến cần nói thêm về thái độ, quan điểm sống hoặc tính cách của bà Hiền?
+ Con người luôn tỉnh táo sáng suốt như vậy thật đáng quí, thời nào cũng quí và càng
trong thời hội nhập càng đáng quí. Nhưng ta vẫn thèm một chút thái quá, một chút sứt
mẻ, yếu đuối, hoặc khiếm khuyết trong tính cách để con người thực sự là người hơn
trong nỗi buồn và cả nỗi đau. Cô Hiền thật đáng khâm phục trong mọi mặt, nhưng ta
vẫn băn khoăn tự hỏi, mọi người có thực sự hạnh phúc không khi đều phải tuân theo
sự sắp đặt, tính tốn như thần của cơ? Một người giỏi giang sẽ ln khơng bằng lịng
khi thấy mọi người khơng được như mình, và trong cách nói, cách nghĩ của cơ, ta cảm
thấy thống có chút coi thường người chồng nhút nhát do chính cơ chọn để sống n
phận...
Thuvientoan.net


6
- Ta có thể chưa đồng ý với nhân vật ở điểm này điểm khác, nhưng rõ ràng, qua tâm
trạng và tính cách được khám phá, khắc họa sinh động bằng ngôn ngữ nhân vật, ta thấy
hiện lên một chân dung người phụ nữ đầy nghị lực, giàu tình thương con, yêu Hà Nội,
yêu nước, và luôn muốn sống đẹp cho đúng nghĩa là người con của đất kinh kỳ. Khi
năm 2014 đã qua đi, 2015 sắp đến gần, lại nghĩ đến lời nhân vật bà Hiền mà cảm thấy
cần phải làm được gì để giữ lấy cái phần hồn Hà Nội…
* Nhận xét: Như vậy, qua lời nói, việc làm và suy nghĩ của bà Hiền, có thể thấy bản

lĩnh của một con người ln ln dám là mình, trong gia đình, chuyện hơn nhân, sinh
con đẻ cái, ni dạy con thành người có lịng tự trọng, khơng được phép sống hèn nhát,
ích kỉ; là mình trong quan hệ với cộng đồng, đất nước, là mình trong những chiêm
nghiệm lẽ đời.
3. Các nhân vật khác trong truyện
3.1. Nhân vật Dũng, Tuất, bà mẹ Tuất
- Với dung lượng một truyện ngắn, và trong dụng ý nghệ thuật của nhà văn, những
nhân vật này chỉ được nhắc đến như những nét phác họa thống qua, nhưng ấn tượng
về họ khơng thể phai mờ.
- Dũng đã sống đúng với những lời mẹ dạy, anh cùng với 660 thanh niên ưu tú của Hà
Nội lên đường hiến dâng tuổi xuân của mình cho đất nước. Dũng, Tuất và tất cả những
chàng trai Hà Nội đã góp phần tơ thắm thêm cốt cách tinh thần người Hà Nội, phẩm
giá cao đẹp của con người Việt Nam. Ấn tượng về Dũng được thể hiện chủ yếu ở thái
độ của anh trong bữa tiệc gia đình mừng anh trở về. Trong lúc mọi người vui vẻ, háo
hức hỏi chuyện người lính mới trở về, trong lúc anh có thể được quyền lên ngơi, say
sưa trong ánh hào quang chiến thắng thì Dũng lại trầm lắng bộc bạch: rằng trong nửa
năm nay, anh không ngớt nghĩ về những người Hà Nội ra đi cách đây đúng 10 năm,
trong số 660 người ra đi, trở về chưa đầy 40, trong đó có Tuất, bạn anh. Người bạn đã
hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, hi sinh trước ngày tồn thắng có mấy ngày...
- Tuất cũng được khắc họa trong gương mặt chung, nhưng có một chi tiết khiến người
đọc không thể không rơi lệ. Vừa tốt nghiệp trung học, họ đăng kí xin đi đánh Mĩ.
Tháng 4 năm 1965, lên Thái Nguyên huấn luyện, tháng 7 rời Thái Nguyên vào Nam.
Khi đoàn tàu từ Thái Nguyên tiến vào Hà Nội đã gần nửa đêm. Vừa mưa to xong, ánh
đèn còn lòa nhòa trên lá cây, trên những mặt đường vắng hun hút... Tàu vừa dừng lại
thì ở đâu đó bật lên tiếng loa rất sâu, rất vang: “Quý khách chú ý! Quý khách chú ý!
Chuyến tàu từ Thái Nguyên...”. Tuất ngồi cạnh Dũng, chợt nhoài người qua mặt bạn,
gần như đưa cả nửa người qua khuôn cửa sổ, hất mặt lên phía có tiếng loa, kêu lên nho
nhỏ: “Dũng ơi, Dũng, tiếng của mẹ mình đấy! Tiếng của mẹ đấy!”. Ai có ngờ, đó là
âm thanh cuối cùng của Hà Nội, của người mẹ rứt ruột sinh thành mà anh được nghe.
- Bên cạnh sự thật về những người Hà Nội có phẩm cách cao đẹp, cịn có những người

tạo nên “nhận xét khơng mấy vui vẻ” của nhân vật “tơi” về Hà Nội. Đó là “ơng bạn trẻ
Thuvientoan.net


7
đạp xe như gió” đã làm xe người ta suýt đổ lại cịn phóng xe vượt qua rồi quay mặt lại
chửi “Tiên sư cái anh già”, là những người mà nhân vật tơi qn đường phải hỏi thăm...
Đó là những “hạt sạn của Hà Nội”, làm mờ đi nét đẹp tế nhị, thanh lịch của người
Tràng An. Cuộc sống của người Hà Nội nay cần phải làm rất nhiều điểm để giữ gìn và
phát huy cái đẹp trong tính cách người Hà Nội.
3.2. Nhân vật “tơi”
- Thấp thống sau những dịng chữ là hình ảnh nhân vật “tơi” - Nhân vật mang hình
bóng Nguyễn Khải, là người kể chuyện, một sáng tạo nghệ thuật sắc nét đem đến cho
tác phẩm một điểm nhìn trần thuật chân thật khách quan và đúng đắn, sâu sắc.
- Đó là một người đã chứng kiến và tham gia vào nhiều chặng đường lịch sử của dân
tộc. Với tư cách là một anh bộ đội cụ Hồ từ chiến khu Việt Bắc trở vể tiếp quản Thủ
đô, cảm nhận những việc được và chưa được trong thời kì cải tạo tư sản, khơi phục
kinh tế ở miền Bắc; sống những năm tháng đầy gian khổ, hy sinh nhưng cũng rất hào
hung của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vui sướng và xúc động với chiến
thắng mùa xuân 1975 của dân tộc, có biết bao chiêm nghiệm, suy tư về lẽ đời trong
thời kỳ đổi mới…
- Cũng trên những chặng đường ấy, nhân vật tôi đã có những quan sát nhạy bén, sắc
sảo, có bao cảm nghĩ rất tinh tế, sâu sắc về cô Hiền, về người Hà Nội và về Hà Nội.
Ẩn sâu trong giọng điệu vừa khôi hài, vừa khôn ngoan, trải đời là hình ảnh một con
người gắn bó thiết tha với vận mệnh của đất nước, trân trọng những giá trị văn hoá của
dân tộc “Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà không buôn bán được
vài nghìn củ thuỷ tiên nhỉ”, cảm phục dân mình sống một đời bình dị mà toả sáng một
nhân cách cao cả: “Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy
mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng”. Với nhân vật tơi, tác
phẩm đã có một điểm nhìn trần thuật chân thật, khách quan mà đúng đắn, sâu sắc.

- Khi trần thuật, nhân vật tôi thường đặt một sự việc, một hiện tượng trước nhiều cách
đánh giá, nhiều cách nhìn (việc hơn nhân, đón mừng độc lập, việc dạy con cái, cách
xưng hô, chuyện ứng xử thiếu văn hoá của thanh niên thời kinh tế thị trường…). Biện
pháp này có tác dụng dân chủ hố văn học, tạo sự bình đẳng trong quan hệ nhà văn bạn đọc, đưa đời sống vào cái nhìn nhiều chiều để khuyến khích bạn đọc tham gia đối
thoại, khước từ lối áp đặt chân lí một chiều của nhà văn. Kể bằng đối thoại, bằng phân
tích, bình luận nhiều hơn là miêu tả và trần thuật khách quan. Người kể chuyện như
đang nghĩ về câu chuyện và chính suy nghĩ của anh ta hấp dẫn bạn đọc.
* Tóm lại: Người kể chuyện là một người rất yêu Hà Nội, hiểu Hà Nội, say mê nét
đẹp văn hoá của Hà Nội. Anh ta có cái nhìn lịch lãm, sâu sắc. Cách kể chuyện vừa thân
tình, vừa hóm hỉnh, ln tạo được quan hệ bình đẳng, cởi mở với bạn đọc nhưng vẫn
khẳng định được giá trị của kinh nghiệm cá nhân. Anh ta biết đặt một sự việc dưới
nhiều cách đánh giá, đồng thời dùng những phân tích, bình luận, ngẫm nghĩ của mình
để định hướng giá trị. Giọng kể thường là chiêm nghiệm triết lý có pha đối thoại, tranh
Thuvientoan.net


8
biện, tự trào. Ngôn ngữ vừa kết hợp được sắc thái giản dị đời thường vừa giàu ngụ ý
và triết lý.
4. Ý nghĩa của câu chuyện "cây si cổ thụ"
- Hình ảnh nói lên qui luật bất diệt của sự sống. Quy luật này được khẳng định bằng
niềm tin của con người thành phố đã kiên trì cứu sống được cây si.
- Cây si cũng là một biểu tượng nghệ thuật, một hình ảnh ẩn dụ về vẻ đẹp của Hà Nội:
Hà Nội có thể bị tàn phá, bị nhiễm bệnh nhưng vẫn là một người Hà Nội với truyền
thống văn hố đã được ni dưỡng suốt trường kì lịch sử, là cốt cách, tinh hoa, linh
hồn đất nước.
5. Giọng điệu trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Giọng điệu trần thuật: Người kể chuyện xưng Tôi là một kiểu để cho người kể chuyện
được nhân vật hóa. Đây là một đặc điểm của văn Nguyễn Khải. Nhân vật "Tơi" mang
nhiều nét của tác giả, góp phần tạo một khơng khí tin cậy cởi mở với người đọc (yêu,

hiểu Hà Nội, khẳng định kinh nghiệm cá nhân, giỏi quan sát, ưa triết luận, có hài hước
và cả cái nhìn đằm thắm nhân hậu). Một giọng điệu rất trải đời, vừa tự nhiên, dân dã
vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát, triết lí, vừa đậm tính đa thanh. Cái tự
nhiên, dân dã tạo nên phong vị hài hước rất có duyên trong giọng kể của nhân vật “tơi”;
tính chất đa thanh thể hiện trong lời kể: nhiều giọng (tự tin xen lẫn hoài nghi, tự hào
xen lẫn tự trào…). Giọng điệu trần thuật đã làm cho truyện ngắn đậm đặc chất tự sự
rất đời thường mà hiện đại.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Tạo tình huống gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” và các nhân
vật khác.
+ Ngơn ngữ nhân vật góp phần khắc hoạ tính cách (ngôn ngữ nhân vật “tôi” đậm vẻ
suy tư, chiêm nghiệm, lại pha chút hài hước, tự trào; ngôn ngữ của cơ Hiền ngắn gọn,
rõ ràng, dứt khốt ...).
+ Những khám phá sâu sắc về bản chất của nhân vật trên dòng lưu chuyển của hiện
thực lịch sử: Là một con người, bà Hiền ln giữ gìn phẩm giá người. Là một cơng
dân, bà Hiền chỉ làm những gì có lợi cho đất nước. Là một người Hà Nội, bà đã góp
phần làm rạng rỡ thêm cái cốt cách, cái truyền thống của một Hà Nội anh hùng và hào
hoa - tôn thêm vẻ đẹp thanh lịch quyến rũ của “người Tràng An”. Chất nhân văn sâu
sắc của ngòi bút Nguyễn Khải chính là ở đó.
III. TỔNG KẾT
1. Nội dung:
Qua nhân vật trung tâm của truyện là cô Hiền, một người Hà Nội bình thường nhưng
đã góp phần làm rạng rỡ thêm cái cốt cách của một Hà Nội hào hùng và hào hoa, cảm
nhận được lối sống, bản lĩnh văn hóa của người Hà Nội, từ đó thấy rõ vẻ đẹp giản dị,
Thuvientoan.net


9
chân thực của những con người bình thường mà cuộc đời họ song hành cùng những
chặng đường gian lao của đất nước và chính họ đã góp phần làm nên lịch sử dân tộc.
2. Một vài nét đặc sắc về nghệ thuật

Thấy được thành công đáng ch ý về giọng điệu trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân
vật của Nguyễn Khải. “Muốn hiểu con người thời đại với tất cả những cái hay, cái dở
của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, cuộc sống tinh thần của họ, phải đọc
Nguyễn Khải”. Nhận xét này của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn thật xác đáng, nhất
là đối với truyện ngắn Một người Hà Nội.
III. Luyện tập
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Cơ Hiền khơng bình luận một lời nào về những nhận xét không mấy vui vẻ của
tôi về Hà Nội. Cô than thở với tôi rằng dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một
cách duy tâm, y hệt một bà già nhà quê. Mùa hè năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một
đêm, sáng ra mở cửa nhìn sang đền Ngọc Sơn mà hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tàn cây
đè lên hậu cung, một phần bộ rễ bật gốc chỏng ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay
tới sự khác thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời.
Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua ln là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều
có thời vàng son của họ. Hà Nội thì khơng thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng
cho một lứa tuổi. Cơ nói với tơi thế, đã biết nói thế đâu phải đã già. Mấy ngày sau, cô
kể tiếp, thành phố cho máy cẩu tới đặt bên kia bờ, quàng dây tời vào thân cây si rồi
kéo dần lên, mỗi ngày một tí. Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là
cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà lại sống.
Cơ nói thêm: "Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật khơng thể lường trước được".
(Trích Một người Hà Nội - Nguyễn Khải)
1. Đoạn văn trên được viết theo giọng kể của ai ?
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Nêu ý nghĩa hình ảnh cây si qua câu văn : Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra
lá non, vẫn là cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm
củi, mà lại sống.
4. Từ văn bản trên, viết một đoạn văn ngắn thể hiện cảm xúc của em về Hà Nội.
Trả lời:
1. Đoạn văn trên được viết theo giọng kể của bà Hiền (nhân vật) và tác giả (xưng tôi)
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là: kể về hình ảnh cây si ở Hà Nội bị bão đánh

bật rễ rồi lại hồi sinh.
Thuvientoan.net


10
3. Hình ảnh cây si qua câu văn: Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là
cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà lại sống.
- Cây si: biểu tượng của văn hóa, nét cổ kính, linh thiêng của đất kinh kì ngàn năm văn
hiến.
- Cây si hồi sinh: lại sống. lại trổ ra lá non gợi niềm tin, lạc quan vào sự phục hồi
những giá trị tinh thần của Hà Nội.
- Câu chuyện bà Hiền kể về cây si cổ thụ vừa là lời cảnh báo về sự mất mát gia tài văn
hóa, lại vừa như khẳng định niềm tin vào sự sáng suốt của lương tri con người.
4. Đoạn văn đảm bảo các ý chính:
- Về địa lí: Hà Nội là thủ đô, là trái tim của Tổ quốc.
- Về lịch sử, văn hố: Hà Nội trải qua hơn nghìn năm văn hoá. Dù chịu biến động của
lịch sử như Hà Nội vẫn giữ được nét văn hố cổ kính
- Về con người Hà Nội: như hình ảnh bà Hiền, vừa giữ được nếp nhà, vừa giữ được
nếp người.
- Cảm xúc chân thành, thể hiện tình yêu Hà Nội cũng là tình yêu đất nước.

Thuvientoan.net



×