Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.08 KB, 4 trang )
Các trường hợp cần phải
khoan dẫn khi ép cọc
nhà dân
- Tùy theo địa chất như thế nào mà người thiết kế đưa ra giải pháp thi công
ép công khả thi. Nếu địa chất có các lớp cát (hạt mịn, hạt thô, hạt trung) khá
dày thì phương pháp ép cọc bình thường sẽ không khả thi: Cọc không thể
xuyên qua vì khi ép, sẽ xuất hiện độ chối giả ( với cát thì độ chối giả nhỏ
hơn so với độ chối thiết kế ), các hạt cát dưới mũi cọc, xung quanh cọc sẽ
nén chặt lại làm tăng lực ma sát xung quanh cọc, tăng sức chống mũi ( tăng
sức chịu tải của đất nền ), sức chịu tải đất nên tăng tỷ lệ thuận với lực ép,
càng tăng lực ép thì càng khó ép khi lớp cát quá dày. ( Do đó, khi ép cọc qua
cát thì cần phải có thời gian nghĩ để cho các lớp cát trở lại trạng thái bình
thường rồi mới ép trở lại, chỉ khả thi khi ép qua lớp cát không quá dày )
( TCXD 205:1998_Tiêu chuẩn thiết kế móng cọc )
- Vì vậy, để tranh hiện tượng trên, cần phải làm giảm sự xuất hiện độ chối
giả bằng biện pháp ép rung, khoan dẫn trước khi ép, ép có sối nước. Trong
đó, phương pháp khoan dẫn dẫn hiện nay được thực hiện phổ biến vì tính
khả thi của nó ( không tiện so sánh các phương pháp với nhau). Nguyên tắc
của phương pháp khoan dẫn ( thễ hiện ở tên của phương pháp): Trước khi
ép, tại vị trí tâm cọc thiết kế, ta khoan trước một lỗ có đường kính bằng (1/8
– 1/10) cạnh cọc, chiều sâu lỗ tùy theo lớp địa chất bên dưới, sao cho có thể
thi công được, thành lỗ được giữ bằng dung dịch bentonite. Sau đó,ta tiến
hành ép cọc.
- Trong công trình xây dựng dân dụng, việc ép cọc bê tông làm móng nhà
<=10 tầng người ta có thể dùng phương pháp ép cọc bê tông cốt thép thay
thế việc đóng cọc tre hoặc làm móng bè (giằng) và có tác dụng chịu lực
đứng trên đầu cọc. Nhưng đôi khi việc ép cọc bê tông cũng có lý do gây một