Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Bản chất, đặc điểm tư tưởng chính trị hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.96 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

TP. HỒ CHÍ MINH, 6/2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

KHOA TRIẾT HỌC
Chuyên ngành Khoa học chính trị
MƠN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH

GVHD: PGS. TS Nguyễn Xuân Tế
SVTH:
Nguyễn Vân Anh – 1656070007
Nguyễn Lâm Nhật Hạ - 1656070027
Nguyễn Đức Huy - 1656070037
Phạm Thái Vi - 1656070125
Đinh Quốc Tuấn - 1766090003


TP. HỒ CHÍ MINH, 6/2020


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................2
CHƯƠNG 1. BẢN CHẤT TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH....................2
1.1. Tính khoa học trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh...................................2
1.2. Tính cách mạng trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh................................5
1.3. Tính nhân văn trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh...................................7
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH...................12
2.1. Tính chất hệ thống và tồn diện..................................................................12
2.2. Tính chất thiết thực, thấm nhuần quan điểm thực tiễn và phát triển...........14
2.3. Tính chất sáng tạo và đổi mới.....................................................................17
PHẦN KẾT LUẬN..................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................22


1

PHẦN MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn
lọc những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực
tiễn hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Cùng với đó là sự tiếp thu, tiếp biến và vận
dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại trên nền tảng những tri thức văn hóa tinh
túy, chắt lọc, hấp thụ được tích lũy qua thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình
thành bởi tư duy, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn của
Người. Đó cũng là q trình tiếp thu, làm giàu, rèn luyện từ học tập, nghiên cứu,
trải nghiệm thực tiễn, khám phá các quy luật vận động, đời sống văn hóa, xã hội và
cuộc đấu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội để khái quát thành

lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn nên
mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học. Qua đó có thể thấy việc hiểu rõ
những nội dung của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, ta cần phải nắm rõ bản chất và
đặc điểm nhằm nâng cao năng lực học tập - vận dụng tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh vào hoạt động chính trị một cách hiệu quả nhất.


2

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. BẢN CHẤT TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc bản chất giai cấp công
nhân cách mạng, thế giới quan và hê tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin,
thống nhất hữu cơ giữa tính chất giai cấp với tính chất và truyền thống dân tộc, kết
hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh cịn phản ánh sinh động tinh thần của thời
đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tới chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu
thế phát triển của lịch sử hiện đại.
Bản chất tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh và tồn bộ hệ thống tư tưởng lý luận
và phương pháp của Nguời nói chung là sư thống nhất hữu cơ giữa khoa học, cách
mạng và nhân văn.
1.1. Tính khoa học trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
Những tư tưởng chính trị của Người nảy sinh từ thực tiễn, luôn xuất phát từ
thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm. Thực tiễn là cơ sở nhận thức, là tiêu chuẩn
của chân lý, mà chân lý là những tri thức khoa học phản ánh đúng đắn, chân thức
hiện thức khách quan. Đó là thực tiễn xã hội và đấu tranh chính trị của giai cấp cơng
nhân và nhân dân lao động của các dân tộc chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa để
quốc và chủ nghĩa thực dân. Người sống và hoạt động ở nước ngoài 30 năm và
người đã đi qua 40 nước khác nhau trên thế giới. Người trực tiếp quan sát cuộc
sống của những người lao động cùng khổ. Vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứ

chủ nghĩa Mác-Lênin. Người đã tích luỹ được những tri thức và kinh nghiệm phong
phú, từng bước hình thành tư tưởng lý luận và phương pháp cách mạng của mình.
Đó là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội lồi người
và giải phóng từng con người trên lập trường giai cấp cơng nhân và thông qua con
đường cách mạng vô sản, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.


3

Đó là lý luận chống chủ nghĩa thực dân (cũ và mới), tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong sự phối hợp đồng thời với
cách mạng ở chính quốc, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa để quá độ tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đó là phương pháp sáng tạo theo tinh thần của Lênin “phân tích cụ thể một
tình hình cụ thể”, ln xuất phát từ thực tiễn, coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý,
nhận thức khoa học phải phù hợp với hiện thực khách quan, không rơi vào giáo
điều, chủ quan, tư biện. Thực tiễn phản ánh sự sáng tạo, được khái quát hóa, hệ
thống hóa trong hình thức lý luận, vạch ra bản chất, xu hướng, quy luật vận động và
phát triển của thực tiễn cách mạng ở nước ta.
Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là nét nổi bật, đặc sắc thuộc về bản chất
khoa học của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh. Những quan điểm tư tưởng, lý luận
chính trị của Người đồng thời cịn có ý nghĩa là phương pháp, gắn liền với phương
pháp cách mạng. Phương pháp ấy chính là phương pháp biện chứng duy vật macxit
về phát triển xã hội ở Việt Nam, của cách mạng Việt Nam. Thống nhất lý luận với
thực tiễn là nét nổi bật, đặc sắc thuộc về bản chất khoa học của tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh.
Với Hồ Chí Minh, tơn trọng tính khách quan đồng thời là tơn trọng cách quy
luật khách quan và hành động theo đúng các quy luật đó.
Mỗi luận điểm mà Người nêu ra đều thể hiện sinh động tinh thần và phương
pháp biên chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đều là những khái quát lý luận từ thực

tiễn chính trị - xã hội, được phân tích trên quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm
toàn diện, hệ thống và phát triển.
Từ những phát hiện của Hồ Chí Minh, ta rút ra được cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, chống chủ nghĩa tư bản thực dân phải có sự phối
hợp giữa phong trài cách mạng ở các nước thuộc địa với phong trài đấu tranh của
công nhân và lao động ở chính quốc, trên quê hương của chủ nghĩa tư bản thực dân.


4

Nhận thức ấy đã đưa đến kết luận quan trọng về sự đồn kết, phối hợp giữa
giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động các dân tộc, ở tất cả các nước, bởi chủ
nghĩa tư bản, thực dân, đế quốc là kẻ thù chung của các dân tộc.
Hồ Chí Minh phát hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, chống chủ nghĩa tư bản thực dân phải có sự phối hợp giữa phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa với phong trào đấu tranh của cơng nhân và lao động
chính quốc, trên q hương của chủ nghĩa tư bản thực dân.
Nhận thức ấy đã đưa đến kết luận quan trọng về sự đoàn kết, phối hợp giữa
giai cấp công nhân và các dân tộc ở tất cả các nước, bởi chủ nghĩa rư bản, thực dân,
đế quốc là kẻ thù chung cảu các dân tộc. Đó cũng là cơ sở để giáo dục ý thức cách
mạng quần chúng, gắn liền dân tộc với quốc tế, đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc
tế, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Người còn đưa ra nhậ định: Ccahs
mạng ở các nước thuộc địa phải chủ động, không thụ động chờ đợi sự phát triển của
cách mạng chính quốc.
Một tư tưởng lớn, đặc sản của Hồ Chí Minh về chính trị là, trong cách mạng,
sức mạnh và sự nỗ lực ở bên trong mỗi nước là quyết định. Sự phối hợp giúp đỡ
quốc tế, đoàn kết quốc tế là quan trọng. Người kêu gọi và đúc kết thành một phương
châm hành động: Đem sức ta mà giải phóng cho ta!
Người phát hiện con đường giải phóng dân tộc trong thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải đi qua cuộc cách mạng vô sản do Đảng Cộng

Sản, đội tiên phong của giai cấp cơng nhân lãnh đạo, “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ
sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”
Bàn về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Người nhấn mạnh “ điểm to
nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa”. Do đó thái độ khách quan khoa học đòi hỏi chúng ta phải


5

xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, cân nhắc kỹ lưỡng xem phải dùng phương pháp gì,
hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến lên chủ nghĩa xã hội?
Bản chất khoa học trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là dùng lý luận khoa
học để soi đường, chỉ dẫn cho các hoạt động thực tiễn và từ thực tiễn, từ kinh
nghiệm mà nảy sinh những hiểu biết, nâng hiểu biết đó tới trình độ lý luận, đem lý
luận áp dụng vào cuộc sống, không lý luận suông mà cũng không rơi vào thực tiễn
mù quáng.
Là một nhà chính trị chuyên nghiệp, Hồ Chí Minh đã thực hành xuất sắc phép
biện chứng duy vật vào hoạt động chính trị thống nhất lý luận với thực tiễn, nhận
thức với hành động, nêu lên một kiểu mẫu về thực tiễn hóa lý luận gắn liền với lý
luận hóa thực tiễn.
1.2. Tính cách mạng trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh khơng chỉ có giá trị khoa học mà còn mang
bản chất cách mạng.
Là cách mạng bởi tư tưởng chính trị của người thể hiện sâu sắc tính triệt để,
khơng dừng lại ở nhận thức mà hướng tới hành động, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới bằng cách mạng, mà đã làm các mạng thì phải làm cách mạng đến nơi (triệt
để) theo gương Cách mạng Tháng Mười Nga, phải giữa chủ nghĩa cho vững, lời nói
phải đi đơi với việc làm.

Tư tưởng cách mạng phải dựa trên cơ sở khoa học, cách mạng phải gắn liền
với khoa học. nhận thức khoa học đúng đẵn sẽ thúc đẩy hành động cách mạng triệt
để và cách mạng làm cho khoa học tìm thấy được mục đích và sứ mệnh cao cả của
mình là phụng sự cơng cuộc giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng
con người.
Cách mạng là sáng tạo vì chân lý là cụ thể. Sáng tạo của Hồ Chí Minh là sáng
tạo khoa học dựa vững chắc trên những nguyên tắc và phương pháp cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lênin.


6

Người đặt yêu cầu giải phóng dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân,
giải quyết đúng đẵn mối quan hệ giữa dân tộc (độc lập dân tộc) với giai cấp (chủ
nghĩa xã hội). Người cũng đặt chủ nghĩa dân tộc trong quan hệ mật thiết với chủ
nghĩa quốc tế vơ sản. Người đặc biết nhấn mạnh vai trị của Đảng cách mạng chân
chính, sự cần thiết phải có Đảng để lãnh đạo phong trào cách mạng.
Người đặc biệt nhấn mạnh vai trị của Đảng cách mạng chân chính, sự cần
thiết phải có Đảng để lãnh đạo phong trào cách mạng. Người viết: “Trước hết phải
có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới
thành cơng, cũng như người cầm láu có vững thuyền mới chạt. Đảng muốn vững thì
phait có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu
khơng có bàn chỉ nam”.
Hồ Chí Minh coi Chủ nghĩa Mac – Lênin là một trong những nội dung quan
trọng nhất trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam. Người khẳng định: bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều những chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mac – Lênin.
Đảng cách mạng không phải là một tổ chức làm quan phát tài, mà phải phấn

đấu hy sinh làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng.
Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo
léo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát. Phải ln ln tẩy bỏ những phần
tử hủ hố ra ngoài. Một Đảng mà che giấu khuyết điểm của mình là một Đảng
hỏng.
Đó là những điểm nổi bật nói lên bản chất cách mạng trong tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh.


7

1.3. Tính nhân văn trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
Trong lịch sử nhân loại, có nhiều học thuyết và tư tưởng thể hiện tính nhân
văn. Và trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, giá trị và ý nghĩa nhân văn được thể
hiện sâu sắc. Nhân văn là khái niệm phản ánh giá trị người – giá trị vật chất và giá
trị tinh thần, mà theo Ph. Ăngghen thì đó là giá trị cao nhất của vũ trụ, là đóa hoa
tinh túy và rực rỡ nhất của thế giới. Tính nhân văn (hay tư tưởng nhân văn) là tư
tưởng tôn trọng đề cao, bảo vệ và phát huy giá trị người; đồng thời bảo vệ tính
mạng, phẩm giá và các quyền con người (quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc).
Đối với Hồ Chí Minh, chính trị không chỉ là vấn đề quyền lực và cầm quyền
mà còn là đạo đức, lối sống; là thái độ và hành vi ứng xử của người lãnh đạo, người
cầm quyền đối với dân chúng; là lòng trung thành, tận tụy phục vụ nhân dân của
mỗi cán bộ đảng viên của Đảng và công chức của nhà nước. Và vấn đề cốt yếu của
chính trị là biến quyền lực chính trị thành quyền lực nhân dân, là thực thi quyền lực
có hiệu quả để phục vụ nhân dân.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là kiểu mẫu của chính trị nhân văn, lấy giá
trị con người làm cốt lõi, lấy giải phóng và phát triển con người và xã hội làm mục
tiêu và động lực. Điều ấy được thể hiện sâu sắc và nhất quán trong mục tiêu, đường

lối chính trị của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
Mục tiêu chính trị của cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh xác định là:
“dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Vì vậy, Người đã dành cả
cuộc đời và sự nghiệp của mình phấn đấu cho mục tiêu này. Người từng bộc bạch:
"Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành". Mục tiêu và lý tưởng đó xuất phát từ tình u thương con
người và khát vọng giải phóng con người, giải phóng dân tộc ra khỏi mọi đọa đày


8

đau khổ. Vũ khí để giải phóng con người, giải phóng dân tộc khơng phải từ trên trời
rơi xuống, càng khơng phải từ “lịng tốt" của kẻ thù, mà chính là nội lực của dân
tộc, “lấy sức dân để giải phóng cho nhân dân". Vì vậy, thức tỉnh nhân dân, bồi
dưỡng và nâng cao sức dân, tập hợp, tổ chức và hướng dẫn nhân dân đứng lên giành
quyền sống, quyền tự do là con đường đúng đắn nhất, hiệu quả nhất và nhân văn
nhất trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh. Ở đây thể hiện sự thống nhất biện chứng
và sự kết hợp hài hòa giữa lý tưởng và hiện thực, mục đích và phương tiện trong
cuộc đấu tranh tất cả vì con người của Hồ Chí Minh.
Chất nhân văn trong chính trị Hồ Chí Minh thuộc về chủ nghĩa nhân đạo và
nhân văn cộng sản, thể hiện bản chất của giai cấp công nhân cách mạng, của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhờ đó, chính trị và quyền lực chính trị khơng
chỉ dựa trên nền tảng kinh tế, mà còn được bảo đảm bằng sức mạnh của giá trị
truyền thống, giá trị đạo đức và văn hóa. Chính yếu tố đạo đức và văn hóa tác động
trở lại kinh tế và chính trị và thường là động lực thúc đẩy kinh tế và chính trị.
Người đặc biệt nhấn mạnh tới đạo đức, coi đạo đức cách mạng là gốc của
người cách mạng vì “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo

đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”
(Trong bài viết “Sửa đổi lối làm việc”, tháng 10 năm 1947). Đạo đức ấy là cần kiệm
liêm chính, chí cơng vơ tư, ra sức trau dồi, rèn luyện và thực hành đạo đức cách
mạng để có đủ sức mạnh và bản lĩnh chiến thắng chủ nghĩa cá nhân, kẻ thù nguy
hiểm nhất, một thứ giặc nội xâm, một căn bệnh mẹ đẻ ra mọi thứ bệnh con làm hư
hỏng cán bộ, thối hóa tổ chức và dẫn tới sự đổ vỡ, thất bại của phong trào cách
mạng, sự nghiệp cách mạng.
Chính trị trong quan niệm và chủ kiến của Hồ Chí Minh phải có đạo đức và
văn hóa, phải trở thành văn hóa chính trị, lấy dân làm gốc, làm điều lợi cho dân,
tránh điều hại cho dân, làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, có chỗ ở, được học


9

hành, được hưởng quyền tự do, hạnh phúc. Phải thấu hiểu cuộc sống, tâm trạng và
nguyện vọng của dân chúng, tiếp thu ý kiến phê bình của dân chúng và quyết tâm
sửa chữa những khuyết điểm lỗi lầm đã mắc phải để phục vụ dân chúng ngày một
tốt hơn.
Chính trị vì dân, vì con người như vậy mới thực sự là chính trị dân chủ và
cách mạng, mới có thể thuyết phục dân, thúc đẩy dân, vận động và tổ chức dân làm
cách mạng bằng sức mạnh của đoàn kết nhất trí, sự đồng thuận, hịa hợp, sự gương
mẫu của cán bộ đảng viên để dân chúng noi theo.
Trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, tính nhân văn khơng bị giới hạn trong
phạm vi giải phóng con người ra khỏi mọi áp bức, bóc lột mà ở một trình độ cao
hơn. Khi Người bước vào chủ nghĩa nhân văn thực thụ, đặt vấn đề xây dựng vị thế
con người trong xã hội mới với tính cách là chủ thể tự nhiên, chủ thể xã hội và chủ
thể bản thân - con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do (Ph.
Ăngghen). Ở đây có sự thống nhất của sự trùng hợp thú vị giữa những tư tưởng lớn
của thời đại ở mục tiêu cao nhất của nhân loại - đó là xác lập chủ nghĩa cộng sản.
Lê Duẩn nhận xét: “Tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và đạo lý làm

người của dân tộc ta hòa làm một trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh". Đối với
Ph. Ăngghen, luận điểm thể hiện chính xác và nổi bật nhất tinh thần của của chủ
nghĩa nhân văn mácxít được trình bày trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản: “Sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người".
Sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản gần một trăm năm, khi trả lời các nhà
báo nước ngoài về điều kiện thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam (1946),
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần
phải có kỹ nghệ, nơng nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng
của mình".


10

Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh chủ
trương đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, để
thực hiện cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đó là con đường
chuyển hóa tất yếu từ lý tưởng đến hiện thực; đồng thời cũng là logic phát triển tất
yếu khách quan của chủ nghĩa nhân văn. Khi nghiên cứu về đức tính nhân văn Hồ
Chí Minh, Phạm Văn Đồng viết: “Những tư tưởng, lối sống của Hồ Chủ tịch là
những tình cảm lớn. Trong đời hoạt động cách mạng của Người cũng như trong đời
sống hàng ngày của mình, Cụ Hồ đối xử với người ln có lý có tình. Bác Hồ là
mn vàn tình thương u đối với đồng chí đồng bào. Trong tình thương u đó, có
chỗ cho mọi người, khơng qn sót một ai và sắp xếp cho mọi người vị trí chiến đấu
cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người về việc làm, đời sống và học tập, vừa
nghiêm khắc, vừa địi hỏi, vừa thương u dìu dắt".
Những luận điểm tiêu biểu dưới đây cho thấy rõ chất nhân văn trong chính trị
của Hồ Chí Minh.
"Chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do
độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân

được ăn no, mặc đủ".
Người chủ trương phải tìm mọi cách để "nâng cao dần mức sống của thân
dân, trước hết là của công nhân, bộ đội và công chức đồng thời giảm nhẹ dần sự
đóng góp của nơng dân".
“Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể giảm bớt một phần xây dựng dể giải
quyết vấn đề ăn và mặc của quần chúng được tốt hơn nữa, đừng dể cho tình hình
đời sống căng thẳng quá. Vấn để con người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng rất
cần có thêm, có sớm, nhưng cẩn hơn là con người, là sự phấn khởi của quần chúng.
Làm tất cả cho con người. Làm cho quần chúng hiểu chủ nghĩa xã hội đúng hơn".
Quan tâm sâu sắc và thiết thực tới cuộc sống của dân như vậy nên Người đặc biệt
để cao tinh thần tiết kiệm, coi đó là quốc sách, tiết kiệm vì thương dân, tiết kiệm để


11

lo cái ăn, cái mặc cho dân. Người căn dặn cán bộ: mỗi đồng tiền, bát gạo mà chúng
ta tiêu dùng đều là mồ hôi nước mất của dân làm ra. Lãng phí là khơng thương dân,
tham ơ là có tội với dân, là một tội ác phải nghiêm trị.
Phải biết q trọng sức người, khơng để lãng phí sức người, sức của. Phải
biết tôn trọng nhân cách của từng người. Phê bình cơng việc chứ khơng xúc phạm
con người. Phải có lịng bao dung, nhân ái, thấu lý đạt tình trong cư xử, đối xử với
con người.
Đó là những biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng, của văn hóa, thấm
nhuẩn giá trị nhân văn trong chính trị Hồ Chí Minh.
Người cịn nói: Đạo nghĩa là chính sách của chính phủ đối với dân chúng.
Phải thi hành một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống nhân dân, cứu tế
thất nghiệp, sửa đổi chế độ, phát triển kinh tế, văn hóa.
Đồn kết và thanh khiết, thanh khiết từ việc nhỏ tới việc lớn, đó là chính trị,
một kiểu chính trị nhân văn của Hồ Chí Minh.
Như vậy, trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh có sự thống nhất và kết hợp

hài hịa giữa tính khoa học với tính cách mạng sáng tạo, giữa tính giai cấp, tính dân
tộc với tính thời đại, giữa lý luận với thực tiễn - Đó là sự hội tụ của văn hóa chính
trị Hồ Chí Minh mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.


12

CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
Khoa học - cách mạng - nhân văn là bản chất tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.
Cũng có thể nói, đó là những đặc điểm tổng quát, nổi bật và điển hình trong tư
tưởng chính trị của Người. Từ những đặc điểm chung, tổng qt đó, chúng ta tìm
hiểu những đặc điểm cụ thể để thấy rõ hơn giá trị và ý nghĩa những tìm tịi sáng tạo
của Người trong lý luận chính trị và trong thực tiễn đấu tranh chính trị, khi Người
vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam.
Là người đặt nền móng cho chính trị học mácxít hiện đại ở Việt Nam, tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh có những đặc điểm cụ thể sau đây:
2.1. Tính chất hệ thống và toàn diện
Người đề cập tới nhiều chiều cạnh, nhiều phương diện khác nhau của chính
trị, từ đường lối cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, từ lý
luận chính trị chống chủ nghĩa thực dân (cũ và mới), cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa đến kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tính phong phú, đa dạng của các vấn đề trong tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh hợp thành một hệ thống chỉnh thể tồn diện mà ở đó, nổi bật vấn đề chính trị
của Đảng cầm quyền và của Nhà nước dân chủ pháp quyền là xây dựng và phát huy
dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của dân, là thực hành dân chủ, thực hành đạo đức
cách mạng để đảm bảo cho một chế độ chính trị liêm khiết, thanh khiết thực sự là
của dân, thực sự vì dân, do dân tổ chức nên, do dân làm chủ và quyết định.
Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: giải phóng dân tộc và sau đó đi
lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi giải phóng dân tộc phải xây dựng nền chính trị dân

chủ; trong đó, dân là chủ và dân làm chủ. Mọi quyền lực chính trị đều thuộc về
nhân dân; nhân dân có quyền lập ra nhà nước của mình, ủy quyền cho nhà nước
thực hiện quyền lực để phục vụ nhân dân.


13

Và để đưa cách mạng đến thành công, trước hết phải có Đảng Kách mệnh,
tức là phải xây dựng “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của
dân tộc". Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là lực lượng lãnh đạo vừa là người cầm
quyền. Vì vậy, cần xây dựng Đảng thật sự trở thành Đảng cách mạng chân chính ngồi lợi ích của nhân dân và dân tộc, Đảng khơng có lợi ích nào khác. Do đó, tồn
Đảng phải trong sạch, vững mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức, văn hóa.
Kế thừa và phát huy sáng tạo những bài học kinh nghiệm chính trị lịch sử của
cha ơng, tiếp thu tinh hoa văn hóa chính trị mácxít và văn hóa chính trị “thân dân,
trọng dân, vì dân" của Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định cách mạng là sự nghiệp
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, trong điều kiện nước ta còn nghèo
lại bị chiến tranh tàn phá nhiều năm, hơn nữa lại phải chống lại những tên thực dân
đế quốc xâm lược hùng mạnh và tàn bạo, thì lực lượng và các nguồn lực cho cách
mạng nhất định phải dựa vào dân. Bởi lẽ, như Hồ Chí Minh đã đúc kết: "Dễ mười
lần khơng dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong". Ở đây, nhân dân vừa là
mục tiêu, vừa là lực lượng và động lực của cách mạng.
Người chú trọng quan sát, phân tích, tổng kết và dự báo, phát hiện mâu thuẫn
và tình huống, sự biến đổi, chuyển hóa mau lẹ giữa Thời - Thế và Lực trong đấu
tranh, giữa Thiên thời, Địa lợi với Nhân hòa và coi Nhân hịa là quyết định. Trong
tư tưởng chính trị của mình, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng, trong bầu
trời khơng có gì q bằng nhân dân, trong xã hội khơng gì mạnh bằng sức mạnh
đồn kết của nhân dân, nhân dân đồn kết thì việc khó mấy cũng làm được và sự
nghiệp cách mạng nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn.



14

2.2. Tính chất thiết thực, thấm nhuần quan điểm thực tiễn và phát triển
Về hoạt động thực tiễn và vai trị của lý luận với thực tiễn, Hồ Chí Minh cho
rằng, thực tiễn đúng đắn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi một lý luận khoa
học, đúng đắn, nếu không thực tiễn sẽ là thực tiễn mù quáng, mị mẫm, mất phương
hướng. Người nhắc nhở: “Thực tiễn khơng có lý luận dẫn đường thì thành thực tiễn
mù qng” [Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.497]. Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh ln chú trọng đến tính thực tế, bất cứ việc
gì cũng phải xuất phát từ yêu cầu thực tế, phải thiết thực. Muốn đạt được kết quả đó
thì việc học phải xuất phát từ yêu cầu của công việc và phải học cặn kẽ, thấu đáo.
Người mong muốn việc học - hành, tức là nhận thức - hành động phải đạt tới chỗ
thấy cho hết, nhìn cho thấu.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam bị chế độ thực dân đặt ách
thống trị và thực hiện chính sách bóc lột hà khắc. Nhân dân Việt Nam sống hết sức
cơ cực, vừa chịu áp bức của phong kiến, vừa chịu ách đô hộ của thực dân. Đứng
trước hoàn cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm áp bức, với truyền thống yêu nước và ý
chí đấu tranh bất khuất, các phong trào yêu nước đã nổ ra ở khắp nơi. Nhưng các
phong trào đó đều thất bại vì khơng lơi kéo được đơng đảo các tầng lớp nhân dân
tham gia và không phản ánh đúng được xu thế của thời đại. Tình hình đó đã đặt ra
u cầu phải tìm được con đường mới đúng đắn phù hợp cho dân tộc. Thực tiễn đó
đã thơi thúc người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành không thể rập khn
theo những lối mịn về con đường cứu nước của những bậc tiền bối, mà phải căn cứ
vào những điều kiện cụ thể trong nước và thế giới để có hướng đi đúng. Trong khi
đó, ở phương Tây, cuộc cách mạng tư sản diễn ra mạnh mẽ, nhân dân các nước đó
đã được “tự do, bình đẳng”. Thực tiễn các nước phương Tây đã thôi thúc Người
phải sang tận nơi để tìm hiểu tường tận rồi từ đó trở về “cởi ách” cho dân tộc mình.
Phong cách thực tiễn của Người được thể hiện trong câu trả lời một nhà báo Liên

Xô: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tơi được nghe ba chữ Pháp: tự do, bình


15

đẳng, bác ái… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn
tìm xem những gì ẩn náu đằng sau những chữ ấy” [Ơxíp Manđenxtam, Thăm một
chiến sĩ quốc tế cộng sản – Nguyễn Ái Quốc, báo Ogoniok, Liên Xơ, số 39, ngày
23/12/1923]. Từ hồn cảnh đất nước khi đó đã đặt ra yêu cầu bức thiết cần phải tìm
ra một lối đi mới đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi chính là điểm xuất phát
trong suy nghĩ của Người để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc.
Ở Việt Nam, không thể giải phóng dân tộc thắng lợi rồi quay trở lại củng cố
chế độ phong kiến (Cần Vương), nếu quay trở lại là đi ngược lại xu thế phát triển
tiến bộ của xã hội. Câu hỏi đặt ra là, có con đường giành độc lập dân tộc rồi đi lên
chế độ dân chủ tư sản không? Phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, nhất là đầu thế
kỷ XX đã diễn ra theo cách này, tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam tuy là mới
nhưng với thế giới tư tưởng này cũng đã đi vượt qua. Lúc này, lực lượng đứng ở
trung tâm thời đại trên toàn thế giới là giai cấp công nhân với sứ mệnh lật đổ chế độ
tư sản để xây dựng xã hội mới: xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đáp ứng
được cách nhìn về hướng phát triển của dân tộc: chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng dân tộc một cách triệt để nhất. Giải phóng dân tộc chỉ có thể gắn liền với chủ
nghĩa xã hội mới mang một ý nghĩa mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc
Việt Nam; đồng thời, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới làm cho độc lập dân tộc được
củng cố vững chắc.
Mục tiêu hàng đầu trong sự nghiệp đấu tranh của Hồ Chí Minh là độc lập dân
tộc. Đây được coi là mục tiêu phát triển và cũng là nền tảng cho giai đoạn phát triển
tiếp theo. Thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng chính là thời kỳ đấu tranh
giải phóng để phát triển.
Sau khi đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin, Người đã có sự lựa chọn con đường cách

mạng Việt Nam: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vơ sản” [Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.12, Nxb Chính trị


16

quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30] . Và kể từ đó, con đường này là sự lựa chọn duy nhất
đúng đắn đối với cách mạng Việt Nam. Dù có diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau
nhưng đó vẫn là sự kiên trì mục tiêu sau khi giành độc lập sẽ xây dựng và phát triển
đất nước theo CNXH. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đồn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui,
hịa bình, hạnh phúc” [Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.496]. Lựa chọn được con đường đúng đắn nhưng để hiện thực hóa nó sẽ vơ
cùng khó khăn, gian khổ, hy sinh và mất mát. Chính vì vậy, ngay khi bước vào thời
kỳ xây dựng và phát triển đất nước thì đó cũng chính là bước vào thời kỳ đổi mới để
phát triển.
Giải phóng mở đường cho phát triển. Muốn phát triển thì phải đổi mới. Phát
triển của Việt Nam trong đổi mới sẽ được giải quyết từng bước rất lâu dài trong tính
quy định lịch sử của tình hình mới, hoàn cảnh mới với nhận thức mới, tư duy mới
(mở cửa, hội nhập, tồn cầu hóa, kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, khoa học công
nghệ, thông tin...). Nếu như trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
để phát triển chính là giải phóng khỏi ách áp bức, nô dịch của đế quốc thực dân để
giành độc lập, thì trong thời kỳ xây dựng CNXH, thời kỳ hịa bình, xây dựng đất
nước, giải phóng là giải phóng mọi tiềm năng của dân tộc và xã hội, bứt phá ra khỏi
sự nghèo nàn, lạc hậu, tư duy trì trệ, chậm phát triển, kém phát triển.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh cho thấy một kiểu mẫu của chính trị hành
đơng, trong cơng việc thực tế, trọng sự thiết thực, có ích cho cuộc sống của dân, cho
sự phát triển của đất nước, con người và xã hội, chống lại mọi biểu hiện phơ trương,
hình thức, sự hời hợt, giản đơn trong suy nghĩ và hành động. Hành động để cứu

dân, cứu nước, vừa kháng chiến vừa kiến quốc cũng là để toan tính, trù liệu một
cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân. Hành động vì chân lý, mà xem xét từ
chính trị và đấu tranh cách mạng, từ phá cái cũ lạc hậu, thối nát, hư hỏng, đổi sang


17

cái mới tiến bộ, lành mạnh để nước nhà có độc lập, dân tộc được tự do, đồng bào có
hạnh phúc thì phải hiểu chân lý là những gì tốt cho dân, có lợi cho dân, phục tùng
chân lý thì phải phục vụ nhân dân.
Phải hướng mọi hoạt động chính trị, mọi công tác tuyên truyền cổ động, giáo
dục và thuyết phục dân, tổ chức mọi phong trào xã hội cho dân hành động sao cho
có kết quả, hiệu quả ngày càng tốt hơn, chuyển biến ngày càng tích cực hơn, hướng
tới tiến bộ và phát triển.
2.3. Tính chất sáng tạo và đổi mới
Sáng tạo và đổi mới liên hệ mật thiết với nhau và là đặc điểm nổi bật trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng chính trị của Người.
Tầm tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện rõ rệt ở những sáng tạo về
chủ trương, đường lối cách mạng mà một trong những điểm rõ nhất là Người đã giải
quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa mục tiêu, nhiệm vụ
cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người còn thể hiện
những sáng tạo độc đáo của mình trong phương pháp, biện pháp, trong bước đi của
cách mạng, trong chính sách của Đảng và Nhà nước để lãnh đạo, quản lý nhà nước
và xã hội.
Đề sáng tạo cái mới, không rơi vào máy móc và giáo điều cần phải đổi mới từ
tư duy, nhận thức tới tổ chức và hành động. Tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh
hình thành từ rất sớm, thể hiện qua những sự kiện và tác phẩm tiêu biểu dưới đây:
Ngay từ năm 1925, trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, một tác phẩm lý
luận mácxít có tầm cỡ, khi nói về nhà nước và pháp quyền, Người đã để cập tới một
luận điểm quan trọng: phải thay thế việc ra các sắc lệnh bằng việc ban hành các đạo

luật. Đó là một tư tưởng chính trị pháp quyền rất sâu sắc của Người. Sau này, khi
chế độ dân chủ cộng hòa ra đời, Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo bản Hiến pháp
đầu tiên của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc
hội. Đó là nền móng đầu tiên mà Người xây đấp cho nền dân chủ ở nước ta.



×