Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Giáo trình Pháp lý đại cương: Phần 1 - Trường Đại học Ngoại thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 127 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Giáo trình “Pháp lý đại cương” được biên soạn để phục vụ cho chương trình đào tạo
đại học đang được triển khai ở Trường Đại học Ngoại thương. Đối tượng nghiên cứ
của môn học “Pháp lý đại cương là những vấn đề cơ bản nhất về nhà nước và pháp
luật; về pháp luật trong nước (pháp luật dân sự) và về pháp luật quốc tế (công pháp
quốc tế và tư pháp quốc tế). Khi nêu ra đối tượng nghiên cứu, các tác giả đã căn cứ
vào mục tiêu về kiến thức pháp lý cần được trang bị cho sinh viên các trường đại học
kinh tế với các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh và một số ngành học khác; căn cứ
vào mục tiêu đào tạo cán bộ kinh tế đối ngoại nói chung và cán bộ quản trị kinh doanh
quốc tế nói riêng của Trường Đại học Ngoại thương.
Đối tượng phục vụ của giáo trình là sinh viên thuộc mọi loại hình đào tạo thuộc ngành
kinh tế, ngành Quản trị kinh doanh với các chuyên ngành kinh tế đối ngoại, kinh
doanh quốc tế, pháp luật kinh doanh quốc tế… đang học tập ở Trường Đại học Ngoại
thương.
Để đáp ứng nhu cầu học tập trong trong trường, kể từ lần xuất bản thứ nhất (năm
1990) cho đến nay, giáo trình đã được tái bản nhiều lần. Trong lần tái bản thứ sau này,
các tác giả có sửa chữa, bổ sung và chỉnh lí nội dung của giáo trình cho phù hợp với
những đổi thay của pháp luật trong nước và quốc tế của môi trường kinh doanh cũng
như của tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
Giáo trình gồm 4 chương. Nội dung các chương liên quan tới những kiến thức chung
về nhà nước và pháp luật, về bản chất và vai trò của pháp luật, về pháp luật dân sự, về
Công pháp quốc tế và Tư pháp quốc tế. Giáo trình cũng đề cập tới những nguyên lý
chung về kí kết và thực hiện hợp đồng dân sự, về thời hiệu tố tụng, về quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngồi v.v.. Ngồi ra, cịn có ba phụ lục kèm theo làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Giáo trình do tập thể giáo viên Bộ mơn Luật (Khoa Quản trị kinh doanh) Trường Đại
học Ngoại thương biên soạn:
Giáo sư, Tiến sĩ Luật, Nhà giáo Nhân dân NGUYỄN THỊ MƠ, Chủ biên, biên soạn
Chương I, Chương III và chịu trách nhiệm sửa chữa toàn bộ cả 4 chương trong lần tái
bản thứ sáu này.



Cố Phó giáo sư, Tiến sĩ Luật HỒNG NGỌC THIẾT, biên soạn Chương II và
Chương IV.
Giáo trình “Pháp lý đại cương” đề cập tới những vấn đề pháp lý chủ yếu nhất liên
quan tới các môn học ở giai đoạn chun ngành. Những kiến thức có được từ mơn học
pháp lý đại cương góp phần làm phong phú thêm khối kiến thức về các môn học cơ
bản, giúp cho sinh viên có hành trang cơ bản để tiến tới nghiên cứu các môn học
“Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” hoặc môn học “Pháp luật thương mại
quốc tế, môn học “Pháp luật doanh nghiệp”v.v.. ở giai đoạn giáo dục chuyên ngành.
Đó là những vấn đề pháp lý chủ yếu có liên quan tới các hoạt động kinh tế đối ngoại
nói chung và hoạt động kinh doanh quốc tế nói riêng. Những vấn đề như vậy khơng
thể chứa đựng hết trong khn khổ của một giáo trình, vì vậy giáo trình cịn tồn tại
những sai sót là khơng thể tránh khỏi. Các tác giả rất mong nhận được sự góp ý, phê
bình của độc giả.
Chúng tơi chân thành cảm ơn bạn đọc về những ý kiến đóng góp quý báu.
T/M Các tác giả
Chủ biên
GS. TS. NGND NGUYỄN THỊ MƠ


CHƯƠNG I
LÍ LUẬN MÁC – LÊNIN
VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I.

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA MƠN HỌC LÍ LUẬN MÁC – LÊNIN VỀ
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Là một môn khoa học xã hội, lí luận Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật nghiên
cứu những hiện tượng xã hội nhà nước và pháp luật.
Lí luận về nhà nước và pháp luật sẽ giải đáp những vấn đề chung, cơ bản về những

nguyên nhân, điều kiện phát sinh nhà nước và pháp luật; về những quy luật phát
triển của nhà nước và pháp luật; thay thế kiểu nhà nước và pháp luật này bằng kiểu
nhà nước và pháp luật khác; về bản chất, hình thức, chức năng của nhà nước và
pháp luật, đặc biệt là nhà nước và pháp luật XHCN; về mối quan hệ hữu cơ giữa
nhà nước và pháp luật.
Lí luận về nhà nước và pháp luật là mơn khoa học nhập mơn đối với luật học. Nó
giới thiệu những khái niệm và phạm trù cơ bản về nhà nước và pháp luật, vì vậy nó
mang tính chất triết học khái quát. Đây là môn khoa học về phương pháp luật, có
nhiệm vụ trình bày đặc thù của việc áp dụng phương pháp biện chứng Mác-xít vào
các hiện tượng nhà nước và pháp luật. Lí luận về nhà nước và pháp luật chiếm một
vị trí trung tâm trong hệ thống các môn khoa học chuyên nghiên cứu về những
hiện tượng nhà nước và pháp luật. Mác, Ănghen, Lênin là những người đặt cơ sở
cho khoa học về lí luận nhà nước và pháp luật. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin đã nghiên cứu rất sâu những quy luật phát sinh và phát triển của nhà
nước và pháp luật.

II.

NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề nhà nước là vấn đề chủ yếu,
vấn đề then chốt trong tồn bộ hệ thống chính trị. Đây cũng là “… vấn đề phức tạp
nhất, khó khăn nhất… là vấn đề mà các học giả, các nhà văn, các nhà triết học tư
sản đã làm cho rắc rối nhất”.


Để có sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của nhà nước và pháp luật, theo lời dạy
của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta phải dựa trên quan
điểm lịch sự, để nghiên cứu các hiện tượng nhà nước và pháp luật.
Điều đó có nghĩa là phải bắt đầu bằng việc phân tích nguồn gốc lịch sử, điều kiện
lịch sử làm xuất hiện nhà nước và pháp luật, phải nghiên cứu xem nhà nước và

pháp luật đầu tiên ra như thế nào, do những nguyên nhân gì?
1. Quan điểm Mác – Lênin về nguồn gốc phát sinh nhà nước và pháp luật
Chủ nghĩa Mác – Lê nin coi nhà nước và pháp luật là những hiện tượng lịch sử,
khơng cùng xuất hiện với lồi người mà chỉ xuất hiện ở nơi nào, lúc nào mà xã
hội đã phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa những giai cấp ấy khơng thể
điều hịa được. Trước đây, đã có một thời kì khơng có nhà nước và pháp luật.
Đó là xã hội Cộng sản nguyên thủy.
a. Xã hội lồi người thời kì Cộng sản ngun thủy
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, lúc đầu còn người sống thành từng bầy
lưu động, không lớn và đi lang thang tìm kiếm hoa quả làm thức ăn. Trải
qua nhiều thế hệ, loài người đã biết dùng lửa, biết làm ra những công cụ
bằng đá, biết tạo ra cung tên và biến nghề săn bắn thành nguồn cung cấp tư
liệu sinh hoạt cho mình. Vì trình độ sản xuất lúc đó cịn rất thấp, cơng cụ
sản xuất cịn rất lạc hậu, thô sơ, người ta không thể đấu tranh riêng lẻ với
thiên nhiên và thú dữ. Muốn sống còn, những người cùng chung một huyết
tộc tập hợp lại với nhau, cùng lao động tập thể và cùng nhau thừa hưởng
những thành quả lao động đó. Lối sống lao động tập thể này đã dẫn đến chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm đã sản xuất ra. Mọi người đều
bình đẳng đối với tư liệu sản xuất và địa vị của con người trong xã hội cũng
bình đẳng với nhau. Vì trình độ sản xuất cịn quá thấp nên người ta không
thể sản xuất ra một số sản phẩm nhiều hơn so với nhu cầu của bản thân con
người, do đó giữa con người với nhau khơng có và khơng thể có sự phân
chia giai cấp, khơng có và khơng thể có bóc lột. Mọi người trong xã hội
nguyên thủy đều làm chung, ăn chung, thậm chí ở chung với nhau khơng có
gì phân biệt nên thời kì này cịn được gọi là thời kì “Cộng sản nguyên
thủy”. Hình thức cơ bản về cách tổ chức đời sống của người nguyên thủy là


Thị tộc. Thị tộc cũng là đơn vị sản xuất và là hình thức tổ chức kinh tế đầu
tiên của loài người. Thị tộc là tập hợp những người, gồm từ hàng chục đến

hàng trăm người được tổ chức theo quan hệ huyết thống, có cùng một dịng
máu. Là hình thức tổ chức xã hội đầu tiên của loài người, Thị tộc là đặc
trưng của chế độ Cộng sản nguyên thủy phát triền. Về điều này, F. Ăngghen
đã từng kết luận: Đây là “… một chế độ chung cho tất cả các người dã man
mãi cho đến khi họ bước sáng thời đại văn minh, thậm chí cịn sau hơn
nữa”.
Mỗi thị tộc đều có một Tộc trường đứng đầu, thời chiến cịn có Thủ lĩnh
qn sự. Tộc trưởng và Thủ lĩnh quân sự do toàn thể thành viê trong Thị tộc
bầu ra và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào. Tộc trường chỉ là người đại biểu
và chấp hành ý chí của tồn thể thành viên trong Thị tộc. Họ khơng có bất
kì đặc quyền nào khác, họ cùng lao động và cùng sinh hoạt chung với các
thành viên khác của Thị tộc. Trong Thị tộc khơng có bất kì cơ quan cưỡng
chế nào. Quan hệ giữa các thành viên trong Thị tộc là quan hệ bình đẳng.
Nhiều Thị tộc thống nhất hợp lại với nhau thành Bộ lạc. Mỗi Bộ lạc đều có
lãnh thổ riêng, có tên gọi riêng. Các Thị tộc hợp thành Bộ lạc cùng nói
chung một ngơn ngữ, cùng có chung một loại thần thánh nhất định. Đứng
đầu Bộ lạc là một Thủ lĩnh do các thành viên Bộ lạc bầu ra. Thủ lĩnh này
cùng với các Tộc trưởng và các Thủ lĩnh quân sự của các Thị tộc thành viên
hợp thành Hội đồng Bộ lạc để bàn bạc và giải quyết những vấn đề trong nội
bộ cũng như những vấn đề quan hệ với các Bộ lạc láng giềng. Các cuộc họp
của Hội đồng Bộ lạc được tiến hành công khai để cho bất kì thành viên nào
của Bộ lạc cũng có thể tham dự và đóng góp ý kiến. Khi Hội đồng đã ra
quyết định thì mọi người đều tuân theo và chấp hành một cách tự giác trên
cơ sở tôn trọng các Thủ lĩnh. Mọi sự tranh chấp hay xích mích đều do các
bên hữu quan tự giải quyết, hoặc là do tập thể giải quyết một cách ổn thỏa
theo phong tục, tập qn má khơng cần tới bất kì cơ quan bạo lực nào cả.
Như vậy, trong xã hội Cộng sản ngun thủy, do sức lao động cịn thấp
kém, cơng cụ lao động cịn thơ sơ, cơ sở của lao động sản xuất là chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, khơng có tài sản tư hữu, khơng có giai cấp nên



khơng có mâu thuẫn giai cấp đối kháng. Do đó mà khơng có nhà nước và
pháp luật.
b. Sự tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước và
pháp luật
Sức sản xuất trong xã hội nguyên thủy tuy rất chậm chạp những đã phát
triển không ngừng. Sự ngừng phát triển của sức sản xuất trong xã hội là
nhân tố có tính chất quyết định làm phát sinh chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất: công cụ sản xuất được cải tiến, đặc biệt kĩ thuật luyện sắt được phát
minh, người ta đã có thể chế tạo ra đồ sắt, năng suất lao động được nâng
cao, của cải làm ra càng dồi dào hơn, có sự dư thừa so với trước.
Cùng với sự phát triển của sức sản xuất, xã hội loài người đã trải qua ba lần
phân công lao động. Lần thứ nhất là giữa trồng trọt và chăn nuôi. Lần thứ
hai là giữa thủ công nghiệp và nông nghiệp. Lần thứ ba là giữa sản xuất và
những người chuyên làm nghề buôn bán (tức là khi thương nghiệp xuất
hiện).
Ba lần phân công lao động lớn trong xã hội làm cho trao đổi ra đời và phát
triển. công cụ sản xuất được cải tiến, thúc đẩy sản xuất phát triển. Chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất ra đời dần dần thay thế cho độ công hữu về tư liệu
sản xuất. Công xã bắt đầu chia thành gia đình nhỏ theo chế độ phụ hệ.
Con người ngày xàng sản xuất ra nhiều hơn của cải để sống, tạo ra tài sản
dư thừa. Hiện tượng chênh lệch về của cải đã đưa công xã đến tình trạng
phân ra người giàu và người nghèo. Chiến tranh trở thành phương tiện cướp
bóc của cải để làm giàu và bắt tù binh làm nơ lệ nhằm bóc lột sức lao động
của họ. Số người nghèo trong công xã cũng bị đẩy xuống là nô lệ. Trong
Thị tộc xuất hiện người giàu và người nghèo, xuất hiện những người bóc lột
và người bị bóc lột, xuất hiện giai cấp chủ nô và nô lệ. Xung đột giữa những
tập đoàn người này, giữa những giai cấp này ngày càng gay gắt đưa đến sự
tan rã của xã hội Thị tộc. Cơng xã ngun thủy khơng có giai cấp đã bị xã
hội có giai cấp (chế độ chiếm hữu nơ lệ) thay thế. Bắt đầu từ đấy lịch sử

loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp.


Lợi ích vật chất của hai giai cấp chủ nơ và nô lệ căn bản đối lập nhau. Chủ
nô là người chiếm hữu nô lệ, cưỡng bức nô lệ lao động một cách nặng nhọc,
chiếm hữu sản phẩm lao động của nơ lệ. Cịn nơ lệ thì lao động quanh năm
mà không đủ nuôi thân, hàng loạt nô lệ bị hành hạ đến chết. Nơ lệ chẳng
những khơng có quyền lợi nào về mặt kinh tế mà về mặt chính trị họ cũng
khơng có chút đảm bảo và địa vị nào cả. Chủ nơ có quyền bắn hoặc thậm
chí giết nơ lệ. Tình trạng đó tất nhiên dẫn đến sự phản kháng của nô lệ và
như vậy giữa chủ nô và nô lệ đã diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp khơng thể
điều hịa được.
Muốn củng cố địa vị thống trị của chủ nơ, cần phải có một cơ quan bạo lực
đặc biệt, nếu không sẽ không thể trấn áp được sự phản kháng của nô lệ,
không thể củng cố được sự thống trị của chủ nô. Tổ chức Thị tộc khơng thể
hồn thành được nhiệm vụ này mà cần thiết phải xây dựng một tổ chức bạo
lực mới để thay thế tổ chức Thị tộc. Tổ chức bạo lực đó chính là nhà nước.
V. I. Lênin đã trình bày lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc
của nhà nước trong một công thức ngắn gọn như sau: “Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được.
Bất cứ ở đâu, lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan những mâu
thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược
lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là
khơng thể điều hịa được.
Như vậy, ngun nhân căn bản, chủ yếu làm cho Công xã nguyên thủy tan
rã và nhà nước xuất hiện là:
 Sự phát triển kinh tế trong nội bộ xã hội dẫn đến sự phát sinh và phát
triển của chế độ tư hưu về tư liệu sản xuất.
 Sự phát sinh giai cấp và mâu thuẫn giữa những giai cấp đối kháng tới
mức không thể điều hòa được.

Nhà nước xuất hiện tức là xuất hiện một bộ máy thống trị tách ra khỏi xã
hội và đứng trên xã hội, gồm một nhóm người đặc biệt chuyên làm công tác
lãnh đạo, sử dụng bộ máy cưỡng bức đặc biệt gồm: hiến binh, quân đội,
cảnh sát, tòa án, nhà tù… nhằm đàn áp các giai cấp đối lập. Nhà nước xuất


hiện để duy trì chế độ tư hữu, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị trong
xã hội và để duy trì mãi mãi địa vị của giai cấp thống trị đó. Chính vì vậy,
Lênin đã nêu một định nghĩa rằng: “Nhà nước là một bộ máy để duy trì sự
thống trị của một giai cấp này đối với một giai cấp khác”. Bản chất của nhà
nước, bất kể là nhà nước của giai cấp nào cũng đều là công cụ, là cơ quan,
là bộ máy áp bức giai cấp, là chuyên chính giai cấp.
Quyền của giai cấp thống trị thông qua nhà nước bắt buộc cả xã hội phải
phục tùng gọi là quyền thống trị chính trị, tức là chun chính giai cấp.
Khơng có nhà nước, giai cấp thống trị khơng thể thực hiện được quyền lực
của mình đối với xã hội. Nhà nước là tổ chức chính trị của xã hội, của các
giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nhà nước là biểu hiện trực tiếp của chuyên
chính giai cấp.
Đặc trưng của nhà nước so với Thị tộc:
 Dân cư được phân theo khu vực địa lí chứ khơng phân theo quan hệ
huyết thống. Dân cư sống trong khu vực địa lí do một nhà nước quả lí
đều có quyền và có nghĩa vụ đối với nhà nước đó.
 Nhà nước là tổ chức quyền lực của giai cấp thống trị, gồm những người
tách ra khỏi nhân dân, đứng trên nhân dân và thực hiện quyền lực tách
khỏi dân cư. Đó là quyền lực chính trị. Nhà nước do đó vừa là cơng cụ
tổ chức giai cấp, vừa là hình thức thực hiện quyền lực xã hội cơng khai.
 Thuế xuất hiện, nhà nước chỉ có thể tồn tại nhờ có thuế do nhân dân lao
động đóng góp.
Cùng với sự ra đời của nhà nước, pháp luật cũng phát sinh. Dưới chế độ
Công xã nguyên thủy, quan hệ giữa người với người do phong tục, tập quán

điều chỉnh. Phong tục, tập quán nảy sinh ra từ trong lịng xã hội ngun
thủy, xác định cái gì có thể làm, cái gì khơng được làm, cái gì tốt, cái gì
xấu. Tập qn phản ánh ý chí của mọi thành viên trong xã hội, đại biểu cho
lợi ích của tất cả mọi người. Tập quán dựa vào sự tuân thủ tự giác của con
người và được bảo đảm thực hiện bằng dư luận xã hội và sức mạnh truyền
thống. Nhưng khi xã hội đã nảy sinh ra hai giai cấp đối lập, khi cuộc đấu
tranh giai cấp là không thể điều hịa được thì những tạp qn trước đây vốn


tiêu biểu cho lợi ích của tồn thể thành viên trong xã hội sẽ khơng cịn sức
mạnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để củng cố địa vị thống trị của
mình, giai cấp bóc lột cần phải có những quy tắc điều chỉnh hành vi mới,
những quy tắc này chỉ phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Muốn làm cho
giai cấp bị thống trị phục tùng những quy tắc này, thì những quy tắc điều
chỉnh này phải được nhà nước chế định ra và được bảo đảm thực hiện bằng
sự cưỡng chế của nhà nước. Những quy tắc điều chỉnh hành vi mới này
chính là pháp luật.
Pháp luật cũng như nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hịa được. Pháp luật thay thế tập qn ngun
thủy khơng phải trong một lúc mà phải trải qua một quá trình lâu dài và
phức tạp. Thoạt đầu, người ta sửa lại những tập quán cũ cho phù hợp với lợi
ích của giai cấp thống trị và dần dần người ta quy định, ban hành thêm
những quy tắc mới. Pháp luật lúc đầu biểu hiện bằng tập quán pháp (bất
thành văn) và thực tiển xét xử (tiền lệ pháp). Sau này, nhà nước mới chế
định ra một số luật thành văn (văn bản pháp luật).
Pháp luật là những quy tắc điều chỉnh hành vi của con người, do nhà nước
ban hành và có tính cưỡng chế.
Trong Tun ngơn Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã định nghĩa: “Pháp
luật là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành lên, ý chí đó do những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội quyết định”.

Định nghĩa kinh điển này đã nói lên bản chất của pháp luật là ý chí của giai
cấp thống trị được để lên thành luật.
Từ định nghĩa này, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của pháp luật:
 Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị, tức là của giai cấp thực hiện
quyền lãnh đạo của nhà nước đối với xã hội, giai cấp nắm chính quyền;
 Ý chí đó được đề lên thành pháp luật, tức là được quy định thành những
quy tắc điều chỉnh hành vi của mọi người, có tính chất cưỡng chế, bắt
buộc tất cả mọi người phải phục tùng;
 Pháp luật là những quy tắc có tính chất cưỡng chế chung;


 Ý chí nêu lên thành luật là do điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội
quyết định, tức là do điều kiện kinh tế xã hội chi phối;
 Pháp luật là một trong những công cụ quan trọng nhất để giai cấp thốn
trị thực hiện chuyên chính giai cấp.
2. Các học thuyết phản động, phản khoa học về nguồn gốc của nhà nước và pháp
luật
Cuộc đấu tranh giai cấp được phản ánh ngay trong cuộc đấu tránh giữa các
quan điểm về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước và pháp luật. Sở dĩ
có những quan điểm khác nhau về nguồn gốc và bản chất của nhà nước và pháp
luật vì mỗi người đều xuất phát từ lợi ích của một giai cấp để nhìn nhận vấn đề.
 Những người đại diện cho giai cấp bóc lột xuất phát từ quan điểm duy tâm,
phản động, xuyên tạc nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện nhà nước và pháp
luật, che đậy bản chất giai cấp của hai hiện tượng lịch sử này, cho rằng nhà
nước là một cái gì thần bí (đại diện cho quan điểm này là Kan, Hêghen,
Tibô v.v…) tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử nhân loại, nhà nước thay mặt
thượng đế để cai trị dân chúng… Múc đích của quan điểm duy tâm này là
mê hoặc quần chúng, làm cho quần chúng an phận thủ thường, tin vào định
mệnh và từ bỏ cuộc đấu tranh chống lại nhà nước của giai cấp thống trị.
 Quan điểm phản khoa học thứ hai cho rằng: trong nhân dân có người này

sẵn có ý thức phục tùng,cịn người khác vốn có ý thức quản lí, lãnh đạo, và
sự kết hợp hai loại tâm lí này làm nảy sinh ra nhà nước và pháp luật (đại
diện cho quan điểm này là A-ris-tot).
Khi chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn tột cùng là chủ nghĩa đế quốc, học
thuyết về ý thức phục tùng và ý thức lãnh đạo được truyền bá rất rộng rãi và
được sử dụng làm cơ sở để bào chữa cho chính sách bành trướng xâm lược và
nô dịch của các nước đế quốc đối với các dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ
- Latinh, bào chữa cho chính sách áp bức, bóc lột nhân dân lao động ở các nước
tư bản.
Những học thuyết cơ bản nêu trên đều là phản khoa học, không dựa vào quan
điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét các hiện tượng xã hội
nhà nước và pháp luật.


III.

CÁC KIỂU, HÌNH THỨC, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP
LUẬT
1. Các kiểu, hình thức, chức năng của nhà nước
a. Kiểu nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kiểu nhà nước là khái niệm
dùng để chỉ những nhà nước cùng ra đời trên một cơ sở kinh tế và cùng có
một bản chất giai cấp nhất định.
Kiểu nhà nước do kiểu quan hệ sản xuất và do bản chất giai cấp của nhà
nước quyết định.
Từ khi lịch sử xã hội loài người xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp đến
nay, trong xã hội có bốn cơ sở kinh tế khác nhau, kế tiếp, thay thế nhau: cơ
sở kinh tế chiếm hữu nô lệ, cơ sở kinh tế phong kiến, cơ sở kinh tế tư bản
chủ nghĩa và cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Thích ứng với bốn cơ
sở kinh tế đó thì có bốn kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ, kiểu

nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư bản chủ nghĩa và kiểu nhà nước
XHCN. Các kiểu nhà nước này có bản chất giai cấp khác nhau.
Kiểu nhà nước biểu lệ bản chất của nhà nước. Nhà nước có bản chất tư bản
thì nhà nước đó được tổ chức theo kiểu tư bản của nó. Nó khơng thể sử
dụng kiểu nhà nước phong kiến hay kiểu nhà nước XHCN.
b. Hình thức của nhà nước
Hình thức nhà nước cũng là vấn đề quan trọng trong lí luận về nhà nước và
pháp luật của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bản chất của nhà nước là công cụ
thống trị của một giai cấp, là quyền lực chính trị. Nhưng quyền lực đó tồn
tại dưới hình thức nào, được tổ chức như thế nào, được sắp xếp như thế nào
thì lại là những vấn đề thược nội dung của lí luận về hình thức nhà nước.
Nhà nước có hai loại hình thức: Hình thức tổ chức và hình thức chính thể.
 Về hình thức tổ chức: nhà nước có hai loại là nhà nước đơn nhất và nhà
nước liên bang. Nhà nước đơn nhất là nhà nước trong đó chỉ có một hệ
thống cơ quan quyền lực tối cao duy nhất thực hiện chủ quyền quốc gia
(Việt Nam, Lào, Bun-ga-ri, Pháp, Nhật Bản, v.v…), còn nhà nước liên
bang là nhà nước có nhiều hệ thống cơ quan quyền lực tối cao: cơ quan


của liên bang và cơ quan của từng nước thành viên trong liên bang. Mỗi
hệ thống cơ quan quyền lực tối cao thực hiện chủ quyền quốc gia của
mình trong phạm vi thẩm quyền đã được phân chia (ví dụ: Liên Xô cũ,
Tiệp Khắc cũ, Liên bang Đức và đặc biệt là Hợp chủng quốc Hoa Kì
hiện nay…).
 Về hình thức chính thể: người ta chia hình thức nhà nước ra làm hai loại
cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hịa. Hình thức chính thể
qn chủ có những đặc điểm như sau: người đứng đầu nhà nước và
thống trị suốt đời là vua. Vua lên ngôi theo thừa kế, cha truyền con nối.
Vua có tồn quyền định đoạt mọi công việc của quốc gia (quân chủ
tuyệt đối) hoặc chỉ có danh vọng, khơng có thực quyền hay thực quyền

bị hạn chế trong một phạm vi nhất định (qn chủ lập hiến).
Hình thức chính thể cộng hịa là hình thức trong đó người đứng đầu nhà
nước là cá nhân hay tập thể do bầu cử mà ra và chỉ thi hành quyền hạn
của mình trong một thời hạn nhất định (nhiệm kì). Trong chính thể cộng
hịa có cộng hòa quý tộc (La Mã, Hy Lạp cổ đại) và cộng hịa dân chủ.
Trong chính thể cộng hịa dân chủ có chính thể cộng hịa tổng thống (ví
dụ: Hoa Kì) và cộng hịa đại nghị (ví dụ: Cộng hịa Pháp).
Hình thức nhà nước có liên quan chặt chẽ với kiểu nhà nước. Cùng một
kiểu nhà nước có thể có nhiều hình thức khác nhau và một hình thức có thể
áp dụng trong nhiều kiểu nhà nước khác nhau. Nhưng, có những hình thức
chỉ thích hợp với một kiểu nhà nước nào đó chứ khơng thể thích hợp với
các kiểu khác. Ví dụ: Hình thức chính thể qn chủ khơng thể có ở kiểu nhà
nước XHCN v.v…
c. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước là phương hướng hoạt động cơ bản của nhà nước
trong từng thời kí nhất định. Nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức
năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng đối nội gồm:
 Trấn áp sự phản kháng của giai cấp đối lập nhằm bảo vệ lợi ích và
quyền thống trị của giai cấp thống trị;


 Tổ chức xây dựng kinh tế phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị;
 Tổ chức giáo dục văn hóa nhằm bảo đảm sự thống trị của hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại gồm:
 Bảo vệ đất nước chống sự xâm lăng của nước ngồi;
 Thi hành chính sách đối ngoại phục vụ quyền lực của giai cấp thống trị.
Tất cả những chức năng nêu trên đều liên quan chặt chẽ với nhau, tác động
qua lại với nhau và biểu hiện bản chất của nhà nước.

2. Các kiểu, hình thức, chức năng của pháp luật
a. Kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là khái niệm gắn liền với kiểu nhà nước vì pháp luật do nhà
nước chế định ra. Nhà nước thuộc kiểu nào thì chế định ra pháp luật thuộc
kiểu ấy. Từ xưa đến nay có bốn kiểu nhà nước thì cũng có bốn kiểu pháp
luật: kiểu pháp luật nô lệ, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư sản
và kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Kiểu pháp luật nói lên bản chất của pháp luật, tức là nói pháp luật đó phục
vụ cho giai cấp thống trị nào, thực hiện chuyên chính đối với giai cấp nào.
b. Hình thức của pháp luật
Pháp luật biểu hiện dưới nhiều hình thức như Hiến pháp, Luật, Nghị định,
Quyết định, Mệnh lệnh, Chỉ thị v.v… Hình thức pháp luật còn bao gồm cả
phong tục, tập quán được nhà nước thừa nhận và các tiền lệ xét xử (Án lệ)
của các tòa án.
c. Chức năng của pháp luật
Chức năng của pháp luật gắn liền với chức năng của nhà nước và biểu hiện
cụ thể ở bốn chức năng chủ yếu sau đây:
 Ấn định tổ chức của quốc gia, của xã hội;
 Điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng nhất như quan hệ giữa các cơ
quan quyền lực với nhau, giữa các cơ quan chính quyền và nhân dân,
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân với nhau;
 Định ra những chuẩn mực, khuôn phép cho những hành động hoặc các
cư xử của nhân dân;


 Xây dựng trật tự xã hội.
d. Các hệ thống pháp luật chủ yếu trên thế giới
Theo sự phân loại của Tòa án Quốc tế Liên hợp quốc (International Court of
Justice), có sáu hệ thống pháp luật cơ bản là Common law, Islamic law,
Indian law, Chinese law và Law inspired by Communism.

 Common law là hệ thống pháp luật hình thành ở Anh, sau đó là ở Hoa
Kì và các nước từng là thuộc địa của Anh, Mỹ.
Đặc điểm của Common law là khi mới ra đời, các quy tắc pháp luật chủ
yếu là bất thành văn. Common law là tập hợp các quy tắc từ các tập
quán và các án lệ (tiền lệ xét xử).
Ngày nay, những nước xây dựng hệ thống pháp luật theo Common law
cũng đã và đang từng bước pháp điển hóa pháp luật dưới hình thức văn
bản. Tuy nhiên, án lệ và tập quán ở những nước này vẫn đóng vai trị
quan trọng.
 Civil law là hệ thống pháp luật hình thành lần đầu tiên ở La Mã cổ đại,
sau này là ở Pháp và các nước TBCN ở lục địa châu Âu.
Đặc điểm của Civil law là hệ thống pháp luật được xây dựng dưới hình
thức thành văn. Các quy tắc pháp luật được xây dựng một cách có hệ
thống, rõ ràng và được tập hợp trong các bộ luật, luật hoặc văn bản dưới
luật.
Ở những nước này, án lệ khơng đóng vai trị quan trọng trong việc xây
dựng pháp luật.
 Islamic law là hệ thống pháp luật hình thành ở các nước hồi giáo.
Đặc điểm của Islamic law là chịu nhiều ảnh hưởng của các đạo giáo, đặc
biệt là đạo Hồi. Vì vậy, người ta gọi Islamic law là luật Hồi giáo.
 Indian law là hệ thống pháp luật của Ấn Độ
Đặc điểm của Indian law là chịu nhiều ảnh hưởng của các tập quán,
phong tục, lễ nghi, văn hóa của Ấn Độ. Indian law chịu nhiều ảnh hưởng
của đạo Hindu.
 Chinese law là hệ thống pháp luật của Trung Quốc.


Chinese law chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Khổng Tử cũng như nền văn
hóa của Trung Quốc. Ngày này, Chinese law chịu nhiều ảnh hưởng của
một nước Trung Quốc hai chế độ.

 Law inspired by Communist (Hệ thống pháp luật XHCN) là hệ thống
pháp luật tồn tại ở các nước XHCN như Liên Xô (cũ) và ở Việt Nam
hiện nay.
IV.

CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CỦA CÁC GIAI CẤP BĨC LỘT
1. Nhà nước và pháp luật Chiếm hữu nơ lệ
a. Cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội của nhà nước và pháp luật Chiếm hữu nô lệ
Sau khi chế độ Cộng sản nguyên thủy tan rã, nhà nước và pháp luật chiếm
hữu nô lệ ra đời. Đây là kiểu nhà nước và pháp luật đầu tiên trong lịch sử xã
hội loài người. Kiểu nhà nước và pháp luật này xuất hiện đầu tiên ở Ai Cập
(năm 2000 trước Công nguyên) và Hy Lạp (năm 600 trước Công nguyên).
Cơ sở kinh tế của nhà nước và pháp luật của các giai cấp bóc lột là chế độ
chiếm hữu tư nhận về tư liệu sản xuất. Nhưng trong xã hội chiếm hữu nơ lệ,
tư liệu sản xuất nói chung như hầm mỏ, ruộng đất chưa phải là đối tượng
chiếm hữu chủ yếu, mà người nô lệ là đối tượng chiếm hữu chính của giai
cấp chủ nơ.
Giai cấp chủ nơ là giai cấp thống trị, bóc lột, có mọi quyền lực trong tay.
Giai cấp nơ lệ là giai cấp bị bóc lột chỉ có nghĩa vụ mà khơng có bất kì
quyền lợi gì. Ngồi hai giai cấp chủ yếu này ra cịn có bọn q tộc, tăng lữ
(thuộc giai cấp thống trị) và những người dân tư do (thược giai cấp bị trị).
Cơ sở chính trị của nhà nước và pháp luật chiếm hữu nô lệ là sự thống trị
của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ.
b. Nhà nước Chiếm hữu nô lệ
Bản chất của nhà nước chiếm hữu nơ lệ là chun chính của giai cấp chủ
nơ, là bộ máy thống trị, cơng cụ áp bức bóc lột và đàn áp của giai cấp chủ
nô đối với giai cấp nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Chức năng của nhà nước Chiếm hữu nô lệ.
 Về đối nội:



 Bảo vệ quyền sở hữu của giai cấp chủ nô về tư liệu sản xuất, chủ yếu
là quyền sở hữu của giai cấp chủ nô về người nô lệ;
 Tổ chức và bảo vệ địa vị thống trị, ách áp bức, bóc lột của chủ nơ đối
với nơ lệ và những người lao động khác;
 Đàn áp nô lệ và các tầng lớp lao động khác bằng các hình thức bao
lực, tư tưởng và tôn giáo;
 Củng cố sự thống nhất trong giai cấp thống trị nhằm củng cố nền
chun chính của giai cấp chủ nơ.
 Về đối ngoại:
 Bảo vệ đất nước, chống nạn xâm lăng của nước ngồi;
 Tiến hành chiến tranh để bắt nơ lệ, chiếm đoạt đất đai của nước khác
nhằm mở rộng lãnh thổ và vơ vét của cải.
Hình thức chính thể của nhà nước chiếm hữu nơ lệ:
 Chính thể qn chủ là hình thức chính thể phổ biến trong thời kì chiếm
hữu nơ lệ;
 Chính thể Cộng hịa dân chủ: ví dụ ở A-ten cổ đại, về hình thức, mọi
người dân tự do đều có quyền bầu cử để bầu ra cơ quan quyền lực tối
cao là Hội nghị nhân dân. Song, trong thực tế nền dân chủ ở A-ten chủ
yếu là nền dân chủ của bọn chủ nơ;
 Chính thể Cộng hịa q tộc: ví dụ ở La mã và cộng hịa X-pat trước
đây, chỉ có những chủ nơ đặc quyền, đặc lợi mới có quyền tham gia
quản lí nhà nước thông qua việc bầu cử và sử dụng Viện nguyên lão và
đại hội công dân.
c. Pháp luật Chiếm hữu nô lệ
Bản chất của pháp luật Chiếm hữu nô lệ là ý chí của giai cấp chủ nơ được
nhà nước chiếm hữu nô lệ đề lên thành những quy tắc, bắt buộc nhân dân
phải thi hành. Pháp luật Chiếm hữu nô lệ bảo vệ chế độ chiếm hữu tư nhân
về người nơ lệ, hợp pháp hóa chế độ chính trị bất bình đẳng. Theo pháp
luật, người nơ lệ chỉ là đồ vật, là một thứ tư liệu sản xuất, là công cụ sản

xuất “biết nói”, do đó họ khơng có quyền mà chỉ có nghĩa vụ.


Hình thức pháp luật Chiếm hữu nơ lệ: pháp luật Chiếm hữu nơ lệ biểu hiện
chủ yếu dưới hình thức tập quán không thành văn. Những tập quán này
phần lớn do bọn thống trị đặt ra rồi thi hành lặp đi, lặp lại nhiều lần và trở
thành những quy tắc chung cho xã hội. Khi cần thiết, bọn thống trị vứt bỏ đi
những tập qn cũ, khơng cịn thích hợp với quyền lợi của chúng và đặt ra
những tập quán mới bắt nhân dân phải tuân theo. Khi những mối quan hệ
torng xã hội Chiếm hữu nô lệ phát triển thì tập qn pháp khơng thể đáp
ứng được u cầu điều chỉnh những mối quan hệ đó, do đó, những quy
phạm có tính chất tập qn dần dần được thay thế bằng luật thành văn.
Những bộ luật thành văn đầu tiên là Bộ luật 12 bảng ở La Mã cổ đại, Bộ
luật Ma-nu ở Ấn Độ, Bộ luật Dra-côn ở A-ten v.v…
2. Kiểu nhà nước và pháp luật Phong kiến
a. Nhà nước Phong kiến
Cơ sở kinh tế của nhà nước Phong kiến là quan hệ sản xuất phong kiến, cụ
thể là chế độ chiếm hữu tư nhân của giai cấp địa chủ, phong kiến về tư liệu
sản xuất (chủ yếu là ruộng đất). Bọn địa chủ phong kiến làm chủ ruộng đất,
cho dân cày cấy để thu tô. Nền kinh tế dưới chế độ phong kiến rất phân tán,
mang tính chất tự nhiên, nhất là ở giai đoạn đầu của thời kì phong kiến.
Giai cấp địa chủ, phong kiến chiếm thiểu số trong xã hội là giai cấp thống
trị, giai cấp bóc lột.
Giai cấp nơng nơ (nơng dân) chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội là giai cấp
bị trị và trị bóc lột.
Ngồi hai giai cấp chủ yếu nói trên, trong xã hội cịn có tầng lớp xã hội
khác như tăng lữ, thợ thủ cơng, thương nhân.
Cơ sở chính của nhà nước và pháp luật Phong kiến là sự thống trị của chú
phong kiến, địa chủ đối với nông dân và các tầng lớp lao động khác.
 Chức năng của nhà nước Phong kiến:

Về đối nội:
 Củng cố và bảo vệ quyền chiếm hữu tư nhân về ruộng đất của giai cấp
phong kiến, địa chủ;
 Củng cố và bảo vệ các hình thức bóc lột phong kiến;


 Đàn áp sự phản kháng của nông dân và các tầng lớp lao động khác
bằng thủ đoạn chính trị, kinh tế, tư tưởng tôn giáo và bạo lực công
khai.
Về đối ngoại:
 Bảo vệ đất nước chống ngoại xâm. Tiến hành chiến tranh xâm lược khi
có điều kiện để chiếm đoạt lãnh thổ nước khác và biến dân cư nước
này thành nơng nơ của mình.
 Hình thức chính thể của nhà nước Phong kiến:
Hình thức chính thể điển hình và phổ biến của nhà nước Phong kiến là
chính thể quân chủ, trong đó chính thể qn chủ phong kiến cát cứ và
chính thể quân chủ tập quyền là chủ yếu. Ngồi ra, cón có hình thức
chính thể cộng hịa phong kiến.
b. Pháp luật Phong kiến
Pháp luật Phong kiến là một cơng cụ chun chính của giai cấp phong kiến,
địa chủ để củng cố và bảo vệ quan hệ sản xuất phong kiến và trật tự xã hội
phong kiến nhằm duy trì sự thống trị và bóc lột của giai cấp phong kiến, địa
chủ đối với nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Pháp luật Phong kiến xác lập một trật tự khắc nghiệt trong xã hội và gia
đình; bảo vệ triệt để tôn giáo và lễ giáo phong kiến, không phân biệt ranh
giới giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức và quy phạm tôn giáo.
Pháp luật Phong kiến định ra những hình phạt tàn nhẫn và dã man như tùng
xẻo, cho voi giày, bỏ vạc dầu, chu di tam tộc v.v…
Hình thức của pháp luật Phong kiến được biểu hiện dưới dạng tập quán
pháp và luật thành văn, trong đó tập qn pháp là hình thức chủ yếu ở giai

đoạn đầu của thời kì phong kiến.
c. Nhà nước và pháp luật Phong kiến Việt Nam
Do hoàn ảnh lịch sử, để đảm bảo nhu cầu dựng nước và giữ nước, ở Việt
Nam về cơ bản, quốc gia thống nhất được thành lập sớm, vì vậy nền quân
chủ trung ương tập quyền của giai cấp phong kiến Việt Nam cũng nảy nở
khá sớm.


Nhà nước Phong kiến dưới các triều Lý Nam Đế, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần,
Hậu Lê và Nguyễn là các hình thức phong kiến trung ương tập quyền. Tính
chất tập quyền của triều đại sau cao hơn triều đại trước. Bộ máy chính
quyền từ trung ương đến địa phương được tổ chức ngày một chặt chẽ và
không ngừng được củng cố, có quân đội thường trực đủ mạnh để bảo vệ đất
nước và đè bẹp cát cứ địa phương. Triều Nguyễn là vương triều phong kiến
cuối cùng. So với các triều đại trước, tính chất tập quyền chuyên chế của
nhà Nguyễn mạnh hơn. Là vương triều hàn yếu, phản động, triều Nguyễn
đã bán rẻ chủ quyền nước ta cho thực dân Pháp để duy trì lợi ích giai cấp
ích kỉ của họ.
Pháp luật Phong kiến Việt Nam cũng sớm được hình thành. Bắt đầu từ triều
Tiền Lê (979) một số luật lệ đã được ban hành. Đặc biệt năm 1042, Lý Thái
Tổ cho ban hành Bộ luật Hình thư. Đến đời Trần, một Bộ luật Hình thư mới
được cơng bố. Triều Trần cịn có Bộ Quốc triều thống chế, quy định việc tổ
chức chính quyền và các quy chế hành chính. Dưới triều Hậu Lê hoạt động
tạp quán được đẩy mạnh và thể hiện ở nhiều mặt. Các chế độ quản lí và thể
chế của bộ máy nhà nước dần dần được quy định thành luật lệ hoàn chỉnh.
Đặc biệt, năm 1483, Lê Thánh Tông cho ban hành Bộ luật Hồng Đức gồm
721 điều, chia làm 6 quyển, 16 chương, bao gồm Luật Hình sự, Luật Hơn
nhân và gia đình, Luật dân sự và Luật Tố tụng dân sự. Luật Hồng Đức được
thi hành đến cuối thế kỉ XVIII.
Có thể nói, Bộ luật Hồng Đức là một cơng trình lập pháp lớn, chứng tỏ

bước phát triển mới rất quan trọng của lịch sử pháp luật Việt Nam.
Pháp luật đời Lý, Trần và Hậu Lê bảo vệ lợi ích và đặc quyền của giai cấp
thống trị phong kiến, củng cố chế độ qn chủ chun chế. Các hình phạt
hà khắc cịn duy trì, chế độ phân biệt các đẳng cấp trong xã hội thể hiện khá
rõ nét. Song, các bộ luật trên, ở mức độ khác nhau cũng phản ánh và tôn
trọng một số phong tục, tập quán của nhân dân và cịn có tác dụng tích dực
trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và phát triển kinh tế.
Năm 1915, Triều Nguyễn cho ban hành Bộ luật Gia Long. Bộ luật này chỉ
là một bản sao chép gần như nguyên vẹn Bộ luật nhà Mãn Thanh. Bộ luật


này mang nhiều tính chất phản động và khắc nghiệt hơn so với các bộ luật
trước đó.
3. Nhà nước và pháp luật Tư bản chủ nghĩa
a. Nhà nước Tư sản
Nhà nước Tư sản là tổ chức chính trị, là cơng cụ của giai cấp tư sản để đàn
áp bóc lột công nhân và nhân dân lao động. Cơ sở kinh tế của nhà nước tư
sản là quyền sở hữu của giai cấp tư sản về tư liệu sản xuất. Giai cấp vơ sản
khơng có tư liệu sản xuất nên phải bán sức lao động cho giai cấp tư sản.
Khi tiến hành cách mạng Tư sản để đánh đổ giai cấp phong kiến, giai cấp tư
sản đã nêu ra những khẩu hiệu rất tiến bộ như: bình đẳng, tự do, bác ái. Ví
dụ: trong “Tun ngơn Nhân quyền và ân quyền của Pháp năm 1791” tuyên
bố: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Giai cấp tư sản lúc đó đóng một vai trị lịch sử tiến bộ, đã xóa bỏ được chế
độ phong kiến bất cơng, kìm hãm bước tiến của lồi người trong hàng nghìn
năm. Nền dân chủ tư sản được thiết lập đã chấm dứt đêm trường trung cổ là
một thành quả to lớn của loài người trong quá trình đấu tranh giành tư do.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản khơng xóa bỏ áp bức bóc lột mà chỉ chuyển

dịch quyền áp bức bóc lột xã hội từ tay giai cấp địa chủ, phong kiến sang
tay giai cấp tư sản. Vì vậy, nhà nước tư sản vẫn mang bản chất là một nhà
nước bóc lột.
 Bản chất của nhà nước Tư sản là chuyên chính tư sản
Việc theo đuổi lợi nhuận tối đa bắt buộc giai cấp tư sản phải cải tiến và
mở rộng sản xuất. Việc mở rộng sản xuất đó diễn ra trong tình trạng tư
do cạnh tranh. Trong q trình cạnh tranh, những xí nghiệp lớn thơn tính
những xí nghiệp nhỏ. Việc tập trung và tích tụ tư bản dẫn đến sự hình
thành chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, tức là chủ nghĩa đế quốc. Như vậy,
xã hội tư bản và nhà nước tư bản đã trải qua hai giai đoạn: giai đoạn tư
do cạnh tranh và giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Mặc dù trải qua hai giai
đoạn đó, nhà nước Tư sản khơng thay đổi về bản chất mà ngày càng


tăng trưởng sự bóc lột về kinh tế và sự áp bức về chính trị đối với giai
cấp cơng nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
 Chức năng của nhà nước Tư sản
Về đối nội:
 Bảo vệ quyền sở hữu tư bản chủ nghĩa và bóc lột nhân dân lao động;
 Bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản chống lại các giai cấp bị bóc lột
khác…
Về đối ngoại:
 Đề phòng và chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của quốc gia;
 Bành trướng, xâm lược, nô dịch các nước khác, các dân tộc khác đặc
biệt là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
 Hình thức chính thể của nhà nước Tư sản:
 Chính thể cộng hịa tư sản trong đó có cơng hịa đại nghị (Pháp) và
cộng hịa tổng thống (Mỹ);
 Chính thể qn chủ lập hiến (Anh) trong đó có quan chủ tập quyền và
quân chủ đại nghị.

b. Pháp luật Tư sản
Pháp luật Tư sản là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật và được
nhà nước Tư sản đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế, ý chí ấy do quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định. Là một trong những cơng cụ chun
chính của giai cấp tư sản, pháp luật tư sản có nhiệm vụ duy trì một trật tự xã
hội có lợi cho giai cấp tư sản nhằm bảo vệ sự thống trị và bóc lột của giai
cấp tư sản đối với giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động.
Pháp luật Tư sản trên giấy tờ, có xác nhận một số quyền tự do dân chủ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Song, những quy định này chỉ
mang tính chất hình thức thậm chí phủ định lẫn nhau. Trong thực tế, pháp
luật tư sản thể hiện sự bất bình đẳng rõ rệt.
Hình thức của pháp luật Tư sản.
Pháp luật Tư sản biểu hiện chủ yếu dưới hình thức luật thành văn. Ngoài ra,
ở nhiều nước, pháp luật biểu hiện dưới hình thức luật tập quán (tập quán
pháp) và tiền lệ pháp, ví dụ ở Anh, Mỹ. So với luật pháp phong kiến, luật


pháp tư sản phát triển hơn cả về cách thức quy định, ban bố và thi hành lẫn
việc pháp điển hóa và phân loại. Ví dụ: giai cấp tư sản phân loại pháp luật
thành hai ngành lớn: công pháp và tư pháp. Ngành công pháp bao gồm: luật
hiến pháp, luật hành chính, luật tài chính, luật hình sự, luật tố tụng hình sự
v.v… Ngành tư pháp bao gồm: luật dân sự, luật tố tụng dân sự, luật lao
động, luật thương mại, tư pháp quốc tế v.v…
V.

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
a. Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
Năm 1917, dưới sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân Nga, mà chính đảng của
nó là Đảng Cộng sản Bơn-sê-vích, quần chúng cách mạng Nga đã dùng bạo lực

cách mạng lật đổ chính quyền tư sản thành lập nhà nước chun chính vơ sản
Xơ Viết. Sau khi giành chính quyền, xác lập nền chuyên chính vơ sản dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bơn-sê-vích, nhân dân lao động Nga thành lập
Nhà nước Xơ Viết (nhà nước của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân). Cùng với sự ra đời của Nhà nước Xô Viết, một loạt các nhà
nước XHCN khác cũng xuất hiện ở châu Âu.
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam mà chính đảng
của nó là Đảng Cộng sản Đơng Dương (sau này là Đảng Lao động Việt Nam,
và ngày nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), nhân dân Việt Nam đã làm cuộc
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đổ bộ máy nhà nước của
bọn thực dân phong kiến, giành độc lập tự do cho Tổ quốc, thành lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với việc hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, năm 1975 trên cơ
sở chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đã có một nhà nước theo kiểu XHCN – Nhà
nước cộng hòa XHCN Việt Nam.
Bản chất của nhà nước XHCN là chun chính vơ sản.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng chun chính vơ sản nghĩa là giai cấp
vô sản phải trở thành cấp thống trị, nghĩa là “chỉ có một giai cấp nhất định, tức
là giai cấp cơng nhân thành thị và nói chung là cơng nhân nhà máy, cơng nhân
cơng nghiệp, mới có khả năng lãnh đạo toàn thể quần chúng lao động và những


người bị bóc lột trong cuộc đấu tranh để lật đổ ách tư bản… trong cuộc đấu
tranh để duy trì và củng cố thắng lợi, trong sự nghiệp sáng tạo một trật tự xã
hội mới – trật tư xã hội chủ nghĩa, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để hoàn tồn
xóa bỏ giai cấp”.
Chun chính vơ sản là chun chính của giai cấp công nhân – giai cấp nắm
quyền lãnh đạo nhân dân lao động trên cơ sở liên minh cơng nơng, trấn áp sự
phản kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất và tàn dư của chế độ người bóc lột người, xóa dần sự phân chia xã

hội thành giai cấp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
Từ những điểm trình bày trên, có thể rút ra các đặc trưng sau đây của chun
chính vơ sản:
 Chun chính vơ sản trước hết là bạo lực đối với giai cấp tư sản và các giai
cấp bóc lột khác, là cuộc đấu tranh giai cấp tiếp tục dưới hình thức mới;
 Chun chính vơ sản là cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản chiến thắng đã
nắm được chính quyền trong tay chống lại giai cấp tư sản chiến bại nhưng
chưa bị tiêu diệt, chưa thôi phản kháng mà ngược lại, cịn tăng cường phản
kháng mạnh hơn;
 Liên minh cơng nơng là ngun tắc tối cao của chun chính vơ sản;
 Chun chính vơ sản cịn nhằm mục đích đặc biệt lớn lao là xây dựng một
xã hội mới tốt đẹp hơn chế độ xã hội cũ, trong đó khơng có người bóc lột
người, một xã hội ấm no và hạnh phúc. Ý nghĩa của vấn đề này đã được
V.I. Lênin khẳng định: “Chun chính vơ sản,… khơng phải chỉ là bạo lực
đối với bọn bóc lột và cũng khơng phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế
của bạo lực cách mạng đó, cái đảm bảo cho sức sống và sự thắng lợi của nó
chính là việc giai cấp vô sản phải đưa ra và thực hiện được kiểu tổ chức xã
hội có năng suất lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đây là nội dung
của vấn đề. Do đó mà có lực lượng đảm bảo được thắng lợi hoàn toàn và tất
nhiên của chủ nghĩa cộng sản”.
b. Chức năng của nhà nước XHCN
Về đối nội


 Tổ chức xây dựng nền kinh tế XHCN;
 Xây dựng nền văn hóa mới và con người XHCN;
 Trấn áp giai cấp bóc lột, các phần tử phản động, ay sai đế quốc phá hoại,
bảo vệ chế độ XHCN trên mọi lĩnh vực.
Về đối ngoại

 Sẳn sàng đập tan mọi hành động xâm lược và âm mưu gây chiến của
chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ đất nước, đấu tranh chống chủ nghĩa thực
dân cũ và mới, bảo vệ nền hịa bình và an ninh thế giới;
 Ủng hộ về mọi mặt phong trào đấu tranh của nhân dân các nước vì độc
lập, hịa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội;
 Tổ chức hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước anh em XHCN, thiết
lập và mở rộng quan hệ bình thường với các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở bình đẳng, tơn trọng độc lập chủ quyền và
hai bên cùng có lợi;
 Tích cực tham gia vào tiến trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế.
c. Hình thức nhà nước XHCN
 Cơng xã Pari: là hình thức nhà nước tồn tại ở Pari năm 1871. Công xã
Pari là hình thức đầu tiên, phơi thai của nhà nước XHCN.
 Cộng hịa Xơ Viết: tồn tại ở nước Nga sau khi Cách mạng Nga thành
công năm 1917.
 Cộng hòa dân chủ nhân dân: tồn tại ở các nước XHCN ở châu Âu, châu
Á và châu Mỹ - Latinh (ví dụ ở Việt Nam từ 1945 đến 1975…).
 Cộng hịa XHCN: tồn tại ở Liên Xơ cũ, các nước XHCN ở Đơng Âu cũ
hoặc Cộng hịa XHCN Việt Nam hiện nay.
d. Hệ thống chun chính vơ sản trong nhà nước XHCN
 Hệ thống chun chính vơ sản là “… một bộ máy mềm dẻo và tương đối
rộng rãi, vững mạnh, một bộ máy thơng qua đó Đảng liên hệ chặt chẽ
với giai cấp và quần chúng và thông qua đó chun chính của giai cấp
được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Hệ thống chun chính vơ


sản bao gồm ba loại tổ chức: tổ chức Đảng là lực lượng lãnh đạo, tổ
chức nhà nước là lực lượng quản lí và tổ chức quần chúng là lực lượng
trực tiếp thực hiện công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
 Đảng cộng sản: Đảng Cộng sản là Đảng của giai cấp công nhân, là đội

tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, là
bộ phận đầu não trong hệ thống chun chính vơ sản, trong từng cơ
quan nhà nước trong từng tổ chức quần chúng.
 Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản thể hiện trước hết ở chỗ Đảng là
người vạch ra đường lối chính trị, chỉ ra mục tiêu và vạch ra phương
hướng hành động cho toàn bộ hệ thống và từng tổ chức trong hệ thống
chun chính vơ sản. Đảng giáo dục và động viên quần chúng tham gia
phong trào cách mạnh, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho bộ máy nhà nước
và các đoàn thể quần chúng. Do đó, khơng thể nói đến chun chính vơ
sản nếu khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
 Bộ máy nhà nước XHCN: Trong hệ thống chun chính vơ sản, nhà
nước là một bộ phận cấu thành rất quan trọng, là “biểu hiện trực tiếp của
chuyên chính vơ sản”. Nhà nước XHCN là cơng cụ chủ yếu của nền
chun chính vơ sản. Sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của
nhà nước. Do vậy, nhà nước phải là công cụ sắc bén nhất để tổ chức
thực hiện đường lối chính sách của Đảng, thông qua nhà nước Đảng liên
hệ chặt chẽ với quần chúng, biến đường lối, chính sách của Đảng thành
quyết định của bản thân quần chúng, thành hành động hằng ngày của
bản thân quần chúng.
Nguyên tắc của chuyên chính vơ sản là Đảng lãnh đạo, nhân dân làm
chủ và nhà nước quản lí.
 Các tổ chức quần chúng: trong hệ thống chun chính vơ sản, các đồn
thể quần chúng như: cơng đồn, đồn thanh niên cộng sản, hợp tác xã,
hội liên hiệp phụ nữ, mặt trận tổ quốc v.v… giữ vai trò rất quan trọng.
Đây là những tổ chức tập hợp quần chúng một cách trực tiếp để nhân
dân làm chủ, để thực hiện quyền tự do, là nơi rất tốt để tuyên truyền giáo



×