Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

(Luận án tiến sĩ) quản lý nhà nước về quốc phòng từ thực tiễn quận cẩm lệ, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN CƯỜNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC PHÒNG TỪ THỰC TIỄN
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

luan an


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN CƯỜNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC PHÒNG TỪ THỰC TIỄN
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. PHẠM HỒNG THÁI

HÀ NỘI, năm 2020


luan an


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các kết quả nghiên
cứu trong luận văn “Quản lý nhà nước về quốc phòng từ thực tiễn quận Cẩm
Lệ, Thành phố Đà Nẵng” là hoàn tồn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với các đề tài khác trong
cùng lĩnh vực.
Tơi xin chịu hồn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Đà Nẵng, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Cường

luan an


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
QUỐC PHÒNG ............................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước về quốc phòng ...................... 7
1.2. Nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước đối với quốc phòng .................... 9
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về quốc phòng .................. 15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC
PHÒNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
....................................................................................................................... ..21
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của quận Cẩm Lệ ảnh hưởng đến quản
lý nhà nước đối với quốc phòng ...................................................................... 21

2.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn quản lý nhà nước đối với quốc phòng trên
địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019 .................... 29
2.3. Đánh giá chung về thực trạng quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019.............................. 46
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT, TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
QUỐC PHÒNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG ............................................................................................................. 52
3.1. Một số dự báo và quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng
trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng .............................................. 52
3.2. Các giải pháp tăng cường quản lý nhà nướcvề quốc phòng trên địa bàn
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng .................................................................. 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO

luan an


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

1

HĐND


Hội đồng nhân dân

2

KVPT

Khu vực phòng thủ

3

UBND

Ủy ban nhân dân

luan an


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc quản lý nhà nước về quốc phòng là một vấn đề hết sức quan trọng
đối với nước ta cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế mà việc
quản lý nhà nước về quốc phòng phải được chú trọng để đảm bảo độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững mơi trường hịa bình và an ninh trên toàn
thế giới. Các thế lực thù địch hiện nay đang thực hiện nhiều âm mưu, nhiều thủ
đoạn nhằm kìm hãm sự phát triển của đất nước, phá hoại sự ổn định về chính trị,
kinh tế, văn hóa...Các thế lực thù địch tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”,
lợi dụng mọi sơ hở của nhà nước ta để làm suy yếu nội bộ để “tự diễn biến”, tạo
nên các tình huống phức tạp, bất ngờ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” làm mất ổn định chính trị, gây bạo loạn lật đổ hoặc bất ngờ tiến hành
chiến tranh xâm lược. Quản lý nhà nước về quốc phòng là lĩnh vực trực tiếp diễn

ra cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc hết sức quyết liệt, phức tạp, bản
thân quốc phịng mang bản chất chính trị, giai cấp sâu sắc.
Cẩm Lệ là một quận mới của thành phố Đà Nẵng được thành lập theo
Nghị định 102/NĐ-CP ngày 05/8/2005 của Chính phủ, có vị trí chiến lược quan
trọng cả về chính trị, kinh tế, quốc phịng - an ninh và đối ngoại của thành phố
Đà Nẵng. Những năm qua, Ban Chỉ huy Quân sự quận Cẩm Lệ đã chủ động tích
cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
tốt công tác Quốc phòng - Quân sự địa phương, chủ động phối hợp với các lực
lượng giữ gìn an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, duy trì nghiêm
túc chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, quán triệt đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của
các cấp. Tổ chức, ra nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, cơ sở thực hiện hoàn
thành tốt nhiệm vụ, làm tốt công tác xây dựng lực lượng, tổ chức huấn luyện,
chế độ chính sách hậu phương Quân đội được quan tâm; tích cực đẩy mạnh tăng

1

luan an


gia sản xuất, xây dựng củng cố doanh trại, quản lý tốt vũ khí trang bị, chấp hành
nghiêm túc các quy định của Nhà nước, Quân đội, đơn vị.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, cơng tác quốc phịng trên
địa bàn cịn có những thiếu sót, bộc lộ những bất cập đã làm hạn chế chất lượng
cũng như hiệu quả của quản lý nhà nước về quốc phòng của quận: sự quản lý về
quốc phòng chưa đạt được sự thống nhất, đồng thuận thực sự giữa các bộ phận,
ban, ngành liên quan, nên có những trường hợp vi phạm pháp luật không được
xử lý nghiêm túc, làm mất lịng tin của dân. Có những đồng chí nhận thức về
công tác này chưa đầy đủ, chưa đúng tầm.., nên khi thực hiện các biện pháp cơng
tác cịn đơn thuần, mang nặng tính chất hành chính, do đó cơng tác xử lý chưa
kiên quyết, triệt để, công minh với những trường hợp vi phạm pháp luật trên địa

bàn quận.
Với những đặc điểm chung của đất nước, tình hình cụ thể tại quận Cẩm
Lệ, đề tài được tiến hành nghiên cứu, nhằm đánh giá thực tiễn, khắc phục những
khuyết điểm, phát huy những ưu điểm, tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường
quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận. Với lý do đó, tơi chọn đề tài
“Quản lý nhà nước về quốc phòng từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà
Nẵng” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, lý luận quản lý nhà nước về quốc phòng đã được đề cập
đến nhiều trong các giáo trình dành cho chuyên ngành pháp luật như: Quản lý
nhà nước về an ninh, quốc phòng của tác giả Nguyễn Xuân Yêm, Học viện
hành chính quốc gia, Hà Nội – 2010.
Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng - an ninh
trong giai đoạn hiện nay (Lê Thị Quỳnh Trang, 2016); Vấn đề tăng cường quốc
phòng trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng. Trần Thái Bình: Mấy vấn đề về
xây dựng chiến lược quốc phịng Việt Nam trong tình hình mới, tạp chí Quốc

2

luan an


phịng tồn dân (website: tapchiquốc phịng tồn dân.vn), ngày 5-5-2011; Trần
Đăng Bộ (Chủ biên): Một số vấn đề về đấu tranh quốc phịng ở Việt Nam hiện
nay, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012; Nguyễn Đức Độ (Chủ
biên): Một số vấn đề về kết hợp kinh tế với quốc phịng ở Việt Nam trong tình
hình mới, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010; Học viện Chính trị - Bộ Quốc
phịng (Chủ trì): Xây dựng và phát triển bền vững nền quốc phịng tồn dân
trong tình hình mới, đề tài cấp nhà nước, Hà Nội, 2016; Nguyễn Mạnh Hưởng
(Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phịng tồn dân, Nxb.Qn đội

nhân dân, Hà Nội, 2005… Lê Quốc Dũng (2013), Xây dựng “thế trận lòng
dân” trên biển – Mấy vấn đề cần quan tâm, tạp chí Quốc phịng tồn dân
(website: tapchiquốc phịng tồn dân.vn), ngày 21-5-2013; Đồng Đức (2011),
Tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
trong tình hình mới, tạp chí Quốc phịng tồn dân (website: tapchiquốc phịng
tồn dân.vn), ngày 24-8-2011; Nguyễn Tiến Hải (2012), Xây dựng thế trận lòng
dân trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc, tạp chí Quốc phịng tồn dân
(website: tapchiquốc phịng tồn dân.vn), ngày 20-1-2012;Dương Thanh Liêm
(2019).
Tuy vậy, nghiên cứu kết quả từ những cơng trình nghiên cứu trên, tác giả
luận văn nhận thấy vấn đề quốc phòng chủ yếu được các nhà khoa học xem xét
từ góc độ chính trị xã hội, cũng chưa có cơng trình chun biệt nào nghiên cứu,
xem xét cụ thể một cách toàn diện hoạt động quản lý nhà nước về quốc phòng
trên địa bàn quận, huyện, đặc biệt từ góc độ Luật Hiến pháp và Luật hành chính
trên một địa bàn cụ thể là quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình
nghiên cứu các hoạt động thực tiễn lý luận và thực tiễn về hoạt động quản lý
nhà nước đối với quốc phòng, nội dung, chủ thể hình thức, phương pháp, khái
niệm, vấn đề quản lý bằng pháp luật đối với quốc phòng… vẫn còn những vấn
đề được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp khác nhau và là vấn đề chưa thống

3

luan an


nhất, cần được nghiên cứu xem xét, vì vậy nghiên cứu “Quản lý nhà nước về
quốc phòng từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá đúng những ưu điểm và hạn chế

của quản lý nhà nước về quốc phòng cùng với những nguyên nhân của thành
công và hạn chế, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà
nước về quốc phịng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, góp phần vào việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ giữ vững an ninh - quốc phòng tại địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận như: khái niệm, đặc điểm,
nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước về quốc phịng.
- Phân tích đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước về quốc phòng
trên địa bàn quận Cẩm Lệ, chỉ ra những ưu diểm, khuyết điểm, xác định rõ
nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, thiếu sót.
- Qua việc phân tích thực trạng, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm
tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về quốc phòng, hoạt động quản
lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa
bàn quận Cẩm Lệ của lực lượng quản lý quân sự (UBND quận, phường, Ban
chỉ huy quận sự quận, phường) trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời gian từ
2014 đến 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4

luan an


5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương đường lối và quan điểm của Đảng và Nhà nước về quốc phòng, quản lý
nhà nước về quốc phòng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để nghiên cứu các cơng
trình khoa học đã được cơng bố, sách, giáo trình liên quan đến quản lý nhà nước
về quốc phòng. Thu thập những tài liệu, báo cáo tổng kết và khảo sát thực tế về
tình hình an ninh, quốc phịng và quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn
quận Cẩm Lệ.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá,
nhận xét về những ưu điểm và hạn chế của quản lý nhà nước về quốc phòng
trên địa bàn quận Cẩm Lệ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú hơn những vấn đề lý luậnquản lý nhà
nước về quốc phòng trên địa bàn quận, huyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo cho nghiên
cứu, học tập, cho cán bộ, sĩ quan, Dân quân tự vệ trên địa bàn quận Cẩm Lệ
tham khảo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn quận.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với quốc phòng.

5

luan an



Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật,
tăng cường thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm
Lệ, thành phố Đà Nẵng.

6

luan an


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI QUỐC PHÒNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước về quốc phòng
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về quốc phịng
1.1.1.1. Quốc phịng
Quốc phịng là cơng cuộc giữ nước của một quốc gia gồm tổng thể các
hoạt động đối nội, đối ngoại về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học… của Nhà
nước để phịng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh tồn diện trong đó sức mạnh
qn sự là nịng cốt để giữ vững hồ bình, đẩy lùi và ngăn chặn các hoạt động
chống đối của kẻ thù, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới bất cứ
hình thức và quy mơ nào [41].
Trong cơng tác quốc phòng phải đặc biệt chăm lo xây dựng lực lượng
lực lượng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và lực lượng Dân quân tự vệ
vững mạnh, rộng khắp.
Hai khái niệm an ninh và quốc phịng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
vì an ninh, quốc phịng là hai mặt của sự nghiệp bảo vệ đất nước. Quốc phòng
mạnh là điều kiện tốt nhất để giữ vững an ninh bên trong, ngược lại an ninh tốt
là điều kiện để ổn định chính trị, xã hội, củng cố quốc phòng [41].

Quản lý nhà nước về quốc phòng là vấn đề hệ trọng đối với một quốc gia
độc lập có chủ quyền, nhằm bảo vệ Tổ quốc XHCN bằng sức mạnh tổng hợp
của khối đại đoàn kết toàn dân, của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng [40].
Nội dung này thể hiện tổng hợp chiến lược quốc phòng và chiến lược an
ninh của Đảng và Nhà nước ta. Nội dung bảo vệ Tổ quốc XHCN bao gồm các
nội dung sau:

7

luan an


- Thực hiện việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội của quốc gia.
- Bảo vệ thành công Tổ quốc XHCN là bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ
nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN
của Việt Nam.
- Thực hiện việc bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội.
1.1.1.2. Quản lý nhà nước về quốc phòng
Quản lý nhà nước về quốc phòng là q trình điều hành bằng pháp luật,
chính sách, kế hoạch và các công cụ khác của Nhà nước trong mọi lĩnh vực, mọi
hoạt động xã hội, có quan hệ đến việc giữ gìn, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, do hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương tiến hành theo
chức năng nhiệm vụ, phạm vi quyền hạn của mỗi cơ quan.
Toàn dân và các đoàn thể quần chúng tích cực tham gia các hoạt động
trong nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng dưới nhiều hình thức khác nhau
trong mối quan hệ tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm

chủ” một cách nhịp nhàng, hiệu quả. Lĩnh vực quốc phòng là một trong những
lĩnh vực có những nét đặc thù riêng như: tính khẩn trương, tính thống nhất, tập
trung, tính bí mật cao, tính biến động, phức tạp lớn, tính đối kháng quyết liệt,
tính mệnh lệnh cao.
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về quốc phòng
Một là, quản lý nhà nước về quốc phòng nhằm thoả mãn hai mục tiêu là:
ngăn chặn đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, giữ vững hồ bình; đồng thời phải đáp
ứng mọi u cầu của chiến tranh, sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân
dân bảo vệ tổ quốc.

8

luan an


Hai là, quản lý nhà nước về quốc phịng khơng phải chỉ là quản lý lực lượng
vũ trang và lĩnh vực qn sự; mà quản lý nền quốc phịng tồn dân trên lĩnh vực
chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, quân sự, an ninh và đối ngoại...
Ba là,quản lý nhà nước về quốc phịng khơng lấy việc tạo ra sản phẩm
kinh tế dân sinh là chủ yếu, nhưng tham gia lao động, sản xuất tích cực góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, khơng hạch tốn kinh doanh nhưng phải tính
tốn chi phí hiệu quả, lấy việc hồn thành nhiệm vụ quốc phịng là chính.
Bốn là, quản lý nhà nước về quốc phòng phải vừa bảo đảm tập trung
thống nhất, bí mật cao, vừa thực hiện được dân chủ rộng rãi.
Quốc phòng của ta là quốc phòng toàn dân, là sự nghiệp của nhân dân.
Hiến pháp 2013 quy định: “Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại
của Nhà nước” [31]. Sự kết hợp đó thể hiện tính đồng bộ của quản lý nhà nước
nói chung, trong chỉ đạo chiến lược, trong hệ thống pháp luật, trong từng chủ
trương, chính sách cụ thể, trong mối quan hệ giữa các ngành, các cấp, trong xây

dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân trên cơ sở quan
điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước đối với quốc phòng
1.2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước về quốc phịng
Thứ nhất, ngun tắc Đảng lãnh đạo tồn diện, tuyệt đối, trực tiếp
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, quan trọng nhất, chủ đạo và chi phối các
nguyên tắc khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, đấu tranh bảo vệ an
ninh trật tự là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ, âm thầm, nhưng rất quan trọng, quan
hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn của dân tộc. Một sự
nghiệp như vậy phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng. Nếu thốt ly đường lối chính trị của Đảng thì khơng đạt được kết quả.
Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại

9

luan an


đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Thường xuyên tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh” [12,
tr.119]. Gần đây nhất, tại Đại hội lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: “Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về quốc phòng, an ninh.”[16, tr. 235].
Trong quá trình lãnh đạo quản lý nhà nước về quốc phòng, các cấp ủy
Đảng cần phân định rõ chức năng lãnh đạo của mình với chức năng quản lý của
cơ quan Nhà nước, không được biến các tổ chức Đảng thành các cơ quan hành
chính, bao biện làm thay, nhưng cũng khơng khốn trắng cho chính quyền, cho
các cơ quan chuyên môn. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chính sách, bằng cơng

tác cán bộ và cơng tác tổ chức, bằng công tác vận động quần chúng và công tác
giám sát, kiểm tra hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực này.
Thứ hai, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Quá trình quản lý nhà nước về quốc phòng đòi hỏi các chủ thể phải dựa
trên cơ sở hệ thống văn bản pháp luật nhà nước. Do vậy, tăng cường pháp chế
trong quản lý nhà nước về quốc phòng là hết sức quan trọng và là nguyên tắc
bắt buộc. Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quản lý nhà nướcquốc phịng địi
hỏi q trình xây dựng các văn bản pháp luật về quốc phòng phải kịp thời, thống
nhất và ổn định tương đối, đáp ứng được yêu cầu của cơng tác quốc phịng đặt
ra.
Thứ ba, ngun tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ
Đây là một nguyên tắc rất cần thiết và mang tính tất yếu khách quan xuất
phát từ đặc điểm quản lý quốc phòng, từ mơ hình tổ chức và thực tiễn hoạt động
quản lý quốc phòng của lực lượng quân sự. Ở Trung ương, Bộ Quốc phòng
thực hiện chức năng Quản lý nhà nước về quốc phòng trên phạm vi cả nước.

10

luan an


Ngoài việc, Nhà nước thực hiện việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch quản lý
tầm vĩ mô, các lực lượng thuộc Bộ Quốc phòng còn phải trực tiếp tiến hành các
hoạt động bảo vệ Tổ quốc, quản lý, đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch
trên mọi mặt trận. Các lực lượng quân sự các cấp được tổ chức theo nguyên tắc
song trùng trực thuộc: vừa chịu sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền
cùng cấp, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Ban chỉ huy quân
sự cấp trên theo đúng quy định của pháp luật. Xuất phát từ tính chất, đặc điểm,
đặc trưng về chuyên môn nghiệp vụ của công tác quốc phòng, cũng như từ
nguyên tắc song trùng, nên trong quản lý nhà nước về quốc phòng cần phải quán

triệt nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ,
trong đó quản lý theo ngành là chủ yếu.
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về quốc phòng
Quốc phòng được thể hiện ở nhiều nội dung, nhiều công việc.Đây là lĩnh
vực trực tiếp diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc hết sức quyết
liệt, phức tạp. Bản thân quốc phòng mang bản chất chính trị, giai cấp sâu sắc.
Vì vậy, quản lý nhà nước về quốc phòng cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc.
Đó là bản chất của giai cấp cơng nhân, do Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, bản chất đó được biểu hiện ở mục tiêu, nhiệm
vụ của quốc phòng, an ninh là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân
tộc; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự
an tồn xã hội” [16]. Đây vừa là định hướng chiến lược quốc phòng, an ninh,
vừa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân,

11

luan an


trong đó xây dựng Qn đội nhân dân và Cơng an nhân dân, cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp
và sức chiến đấu là sự cụ thể hoá mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ
chiến lược. Điều đó thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về chiến
lược quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với đặc điểm nổi lên là:
tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền, lãnh

thổ, biên giới, biển đảo, nhất là ở biển Đông diễn ra gay gắt; các thế lực thù
địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng những
âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt,...
Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng
thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù
địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái” [16]. Tăng
cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng gắn với xây dựng vào bảo vệ đất nước
là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta, nhằm động viên, quy tụ, phát
huy cao độ sức mạnh tổng hợp của các nhân tố chính trị, tinh thần, tư tưởng,
văn hóa, quốc phịng, an ninh, kinh tế và đối ngoại; sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân và cả hệ thống chính trị, tạo ra sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Với quan điểm đó,
Đảng ta đã kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về
sách lược; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ; giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hồ bình trên cơ sở
các ngun tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát
triển.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng

12

luan an


Nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng ở địa phương thể hiện thông
qua việc:
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền để tổ chức
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo quy định của pháp luật, nghị quyết của

Hội đồng nhân dân cùng cấp và các nhiệm vụ do cấp có thẩm quyền giao về
quốc phịng ở địa phương. Để đảm bảo tính bền vững của luật và xây dựng các
VBQPPL về quốc phòng thành một hệ thống vững chắc, trước hết, cần tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng. Đảng không làm thay Nhà nước. Đảng thể hiện
sự lãnh đạo không chỉ bằng đường lối, chủ trương và các nghị quyết của Đảng,
mà còn trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc soạn thảo, ban hành luật và đưa văn bản
luật đó vào cuộc sống. Cịn đối với Nhà nước, đến lượt mình, Nhà nước cần
phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa cơ quan ban hành luật (Quốc hội) với cơ
quan tổ chức thực hiện luật (Chính phủ) và đối tượng thi hành luật (các tổ chức
và cơng dân) để đảm bảo tính khả thi của luật. Bộ Quốc phịng phải tăng cường
cơng tác tham mưu cho Nhà nước về việc soạn thảo, ban hành luật. Một vấn đề
nữa cần quan tâm, đó là việc thể hiện nội dung của luật và kỹ thuật soạn thảo.
Hiện nay, nhiều khái niệm hay thuật ngữ của luật chưa có sự thống nhất, chưa
mang tính phổ thơng và khơng ít trong số đó khơng được định nghĩa hay giải
thích rõ ràng. Có mục, điều, khoản của luật thay vì phải thể hiện đó là những
quy định buộc mọi cơng dân phải tuân thủ, lại diễn đạt chung chung.
- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục quốc phòng và thực hiện cơng tác giáo
dục quốc phịng tồn dân, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ các cấp
và giáo dục quốc phòng cho học sinh, sinh viên theo quy định của pháp luật. Đi
đôi với xây dựng nội dung, chương trình thì việc kết hợp nhiều phương thức
tuyên truyền, phổ biến các VBQPPL về quốc phòng là rất cần thiết. Phương
thức tuyên truyền, phổ biến các VBQPPL về quốc phòng chủ yếu là thông qua
các phương tiện truyền thông. Do đó, báo chí cần dành dung lượng (với báo

13

luan an


viết), thời lượng (với đài phát thanh và truyền hình) đủ ở mức cần thiết, với

cách biểu hiện sinh động để tuyên truyền, phổ biến các VBQPPL về quốc
phòng. Tất nhiên, bên cạnh phương thức đó, thì việc vận dụng các phương thức
khác, như: thi tìm hiểu (tốt nhất là bằng phương pháp trắc nghiệm), mở diễn
đàn, thi kể chuyện, in “tờ rơi”, lập tủ sách pháp luật..., cũng mang lại hiệu quả
tốt. Xung quanh việc tuyên truyền, phổ biến các VBQPPL về quốc phòng, trên
thực tế, nhiều địa phương đã làm tốt công tác này bằng cách gắn với nhiệm vụ
và thời điểm cụ thể, nhất là vào trước các thời điểm: gọi thanh niên nhập ngũ,
diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập trị an, diễn tập chuyên ngành, diễn tập
phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Nhờ coi trọng tuyên truyền và biết chọn
tuyên truyền đúng thời điểm, nên kết quả của việc tuyên truyền đã góp phần rất
quan trọng vào thành cơng của các cuộc diễn tập. Đó cũng là những kinh
nghiệm cần được chúng ta tăng cường trao đổi, học tập để việc tuyên truyền,
phổ biến các VBQPPL về quốc phòng đạt hiệu quả thiết thực, tránh phơ trương,
hình thức, hoặc tổ chức cồng kềnh, tốn kém.
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, đối ngoại với quốc phòng - an ninh; gắn quốc phòng với an ninh; quốc phòng
- an ninh với kinh tế; xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh tồn diện làm nòng
cốt để xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; quản lý, bảo vệ các cơng trình
quốc phịng, căn cứ hậu phương và các khu vực quân sự ở địa phương. Sự phát
triển “nóng” về kinh tế (điều khó tránh khỏi của những quốc gia đang phát triển)
đang có những tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có
lĩnh vực QP-AN. Vì vậy, đẩy mạnh cơng tác quy hoạch về quốc phịng cần phải
được coi là một trong những nội dung trọng tâm của quản lý nhà nước về quốc
phòng hiện nay. Đề cập đến vấn đề quan trọng này, trước hết, chúng ta cần rà
soát, đánh giá một cách nghiêm túc, khách quan và đầy đủ về các yếu tố vật chất
của nền quốc phịng. Trên cơ sở đó, cần lập “Bản đồ quy hoạch tổng thể về quốc

14

luan an



phòng”. Mục tiêu của việc lập bản đồ này là nhằm đảm bảo cho các vấn đề căn
cốt của QP-AN không bị chi phối, suy chuyển, bất luận trong trường hợp nào.
Tờ bản đồ này còn cần được xem như một VBQPPL và được phổ biến rộng rãi
tới tất cả các bộ, ngành, địa phương và các thành phần kinh tế để tạo sự thống
nhất cho việc thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng. Cùng với xác định mục
tiêu thì yêu cầu của việc lập quy hoạch cũng phải rõ nội dung. Các yêu cầu chủ
yếu xung quanh vấn đề này là: đạt được tính tổng thể, đáp ứng với tình hình cả
trước mắt lẫn lâu dài; hài hòa giữa KT-XH với QP-AN; về thế trận, việc quy
hoạch phải đảm bảo cho cả nước thành một thế trận chung, liên hồn, khó bị chia
cắt cả về chiến lược và bộ phận, phù hợp với yêu cầu chống chiến tranh xâm
lược, địch sử dụng vũ khí cơng nghệ cao.
- Thực hiện các biện pháp về xây dựng, bảo vệ tiềm lực quốc phòng của
địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, xây dựng thế trận quốc
phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong khu vực phòng thủ;
động viên nền kinh tế quốc dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng của địa
phương và cả nước trong mọi tình huống.
- Chỉ đạo, tổ chức xây dựng, huấn luyện và bảo đảm hoạt động tác chiến
của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên; thực hiện
công tác tuyển quân và động viên theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết về cơng tác quốc
phịng ở địa phương hàng năm và từng thời kỳ.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về quốc phòng
1.3.1. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của cấp trên
Quan điểm của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong
Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị và được hoàn thiện qua các

15


luan an


kỳ đại hội Đảng. Đại hội XII xác định mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an
ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa; giữ vững mơi trường hịa
bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Cấp uỷ các cấp
ở địa phương có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo trực tiếp mọi mặt công tác quân
sự, quốc phòng trên địa bàn. Những năm qua, nhận thức đúng đắn vị trí, vai trị
của cơng tác qn sự địa phương, các cấp uỷ đảng đã quan tâm, tăng cường
lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác quân sự, quốc phịng địa phương. Nhờ
đó cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương có nhiều chuyển biến quan trọng.
Quy trình lãnh đạo cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương nói chung và các
mặt cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương có nhiều tiến bộ, phát triển đúng
hướng và thu được kết quả khá toàn diện. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc nhận
thức về sự lãnh đạo và tổ chức thực hiện sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối
với cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương chưa thật đầy đủ và thống nhất.
Khả năng và mức độ quan tâm lãnh đạo của tập thể cấp uỷ và cá nhân cấp uỷ
viên chưa thật sự chú trọng và ngang bằng với các mặt công tác khác. Công tác
đảng, cơng tác chính trị trong cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương có lúc,
có nơi cịn chưa được quan tâm thường xuyên.
1.3.2. Sự hoàn thiện của pháp luật về quốc phịng
Để cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm trên, những năm gần đây, Đảng ta đã
ban hành nhiều văn bản về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, như “Chiến lược Bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; “Chiến lược Quốc phòng Việt Nam”; “Chiến

lược Quân sự Việt Nam”; “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”;

16

luan an


“Chiến lược Bảo vệ an ninh quốc gia”; “Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia”.
Cùng với đó, Nhà nước đã xây dựng, ban hành mới và bổ sung, hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp luật về quốc phòng, an ninh: Luật Quốc phòng (sửa đổi
năm 2018), Luật An ninh quốc gia, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam
(sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Công an nhân dân (sửa đổi năm 2018), Luật
Nghĩa vụ quân sự năm 2015, Luật Dân quân tự vệ, Luật Giáo dục quốc phòng
và an ninh, Luật Phòng, chống khủng bố, Luật Quân nhân chun nghiệp, cơng
nhân và viên chức quốc phịng, Luật Cảnh sát biển Việt Nam, Luật Nhập cảnh,
xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Luật Tổ chức cơ quan
điều tra hình sự năm 2015,... Đây là bước tiến quan trọng, nhằm thể chế hóa
một cách đồng bộ các quan điểm của Đảng, nhất là những tư duy, quan điểm
mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc bằng các văn bản quy phạm pháp
luật - cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường sức mạnh quốc phịng, bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực quốc phòng. Đồng thời, cũng là căn cứ để chỉ đạo các cấp,
các ngành, các lực lượng và địa phương triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các
nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, bạn bè truyền thống, tạo thế
và lực mới cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Một dấu mốc rất đáng chú ý: Năm 2013, Quốc hội khóa XIII thơng qua
Hiến pháp mới (Hiến pháp năm 2013) quy định nhiều nội dung mới về nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân. Trong đó, có quy định về quyết định điều, cử lực lượng quân

đội tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hịa bình ở khu vực và trên thế giới.
Căn cứ vào Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và để
khắc phục những hạn chế, bất cập sau 10 năm thực hiện Luật Quốc phòng năm

17

luan an


2005, Chính phủ đã giao Bộ Quốc phịng xây dựng Dự án Luật Quốc phòng
(sửa đổi) và đã được Quốc hội khóa XIV thơng qua tại Kỳ họp thứ năm, ngày
8-6-2018. Trong đó, có những nội dung quan trọng được sửa đổi, bổ sung, như:
Kiên định và làm rõ nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối
với nhiệm vụ quốc phòng, khẳng định nguyên tắc hoạt động quốc phòng phải
đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; quy định về Hội đồng
Quốc phòng và an ninh; bổ sung yếu tố văn hóa, đối ngoại trong xây dựng nền
quốc phịng tồn dân và tiềm lực khu vực phịng thủ; kết hợp quốc phịng với
kinh tế, văn hóa, xã hội và kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phịng; thể chế hóa
quan điểm của Đảng về hội nhập quốc tế,... Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để
tiếp tục xây dựng, sửa đổi các luật chuyên ngành, nhằm bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng.
Cùng với việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng,
cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý tập trung, thống nhất đối với sự nghiệp
quốc phòng được thực hiện nghiêm túc; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trong lĩnh vực quốc phòng được nâng lên. Việt Nam thực hiện nhất qn chính
sách quốc phịng mang tính chất hịa bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết
mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hịa bình.

Việc xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước,
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng
và thế trận quốc phịng tồn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh
nhân dân.
1.3.3. Nhận thức và tính tích cực của cán bộ, cơng chức trong việc
thực hiện vai trị của mình trong lĩnh vực quốc phòng

18

luan an


Có thể khẳng định rằng, trong q trình hoạch định chủ trương, đường
lối của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và giải quyết các vấn đề lớn
quan trọng của đất nước hay của địa phương đều cần có sự tham mưu hiến kế
của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng, các ban cán sự đảng, đảng
đoàn, ý kiến tham mưu, đề xuất của các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia,
nhà khoa học, cùng sự tham mưu, hiến kế của Nhân dân, tuy nhiên, vai trò tham
mưu đề xuất của các cơ quan tham mưu, giúp việc chuyên trách của Đảng có ý
nghĩa khởi đầu xuất phát, là căn cứ quan trọng để cấp ủy Đảng thể hiện quan
điểm, chủ trương lãnh đạo toàn hệ thống chính trị và tồn xã hội. Do vậy, khác
với cán bộ tham mưu ở các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội,
cán bộ tham mưu của các cơ quan Đảng có vị trí, vai trị, địa vị pháp lý riêng;
họ là cán bộ tham mưu cho cấp ủy đảng- chủ thể lãnh đạo nhà nước và các tổ
chức chính trị xã hội, do đó chức năng, nhiệm vụ, tính chất tham mưu là tham
mưu lãnh đạo; đối tượng tham mưu là những vấn đề đặt ra trong quá trình thực
hiện sự lãnh đạo của cấp ủy đảng; sản phẩm tham mưu là những quan điểm,
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng được cụ thể hóa dưới dạng các văn
bản chỉ đạo của cấp ủy như nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định... Thực tế cho

thấy, chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu gắn liền với chất lượng “sản phẩm”
tham mưu tương ứng của các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc của
cấp ủy, có ảnh hưởng trực tiếp tới việc đề ra và tổ chức thực hiện chủ trương,
nghị quyết của cấp ủy trong thực tiễn. Trong điều kiện Đảng ta đang ra sức xây
dựng, chỉnh đốn, nâng cao tầm trí tuệ, bản lĩnh cách mạng, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để lãnh đạo
Nhà nước và xã hội thì việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu của
Đảng là yêu cầu cấp thiết đặt ra.
1.3.4. Ngân sách và điều kiện vật chất cho thực hiện quản lý nhà nước
về quốc phòng

19

luan an


Bảo đảm ngân sách cho quốc phòng là nhiệm vụ rất quan trọng trong xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng khu vực phịng thủ ở địa phương. Vì
vậy, để xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng nền quốc phịng tồn
dân vững mạnh, thì nhận thức của đội ngũ cán bộ và nhân dân được nâng lên,
xây dựng lực lượng đủ chỉ tiêu, bảo đảm ngân sách, bảođảm hậu cần tại chỗ
cho nhiệm vụ quốc phòng địa phương.
Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng ở địa phương
đòi hỏi phải tuân thủ và chấp hành nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật về
quốc phịng. Hệ thống chính sách này có quan hệ trực tiếp đến việc tổ chức và
động viên mọi lực lượng, mọi đối tượng, tổ chức ở địa phương tự giác, hăng
hái tham gia các hoạt động xây dựng, củng cố quốc phịng. Chính vì vậy, Đảng
và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản và hướng dẫn thực hiện các chế độ
chính sách trong thực hiện nhiệm vụ quốc phịng. Do đó, cùng với việc chấp
hành nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,

cấp ủy và chính quyền các địa phương cần phát huy tính năng động, sáng tạo
trong vận dụng thực hiện các chủ trương, chính sách đó tại địa phương nhằm
đạt hiệu quả cao nhất, phù hợp nhất.

Tiểu kết chương 1
Chương 1 đã làm rõ những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về quốc phịng
trong đó tập trung làm rõ các nội dung về khái niệm quản lý nhà nước về quốc
phòng, đặc điểm, mục tiêu và nội dung quản lý lý nhà nước về quốc phịng. Bên
cạnh đó, hoạt động xây dựng các vấn đề quốc phòng, an ninh của Đảng, Nhà
nước thể hiện sự quan tâm, vai trị quan trọng của cơng tác này trong xây dựng

20

luan an


×