MỞ ĐẦU
Trong lịch sử nước ta,vấn đề tôn giáo đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách
lợi dụng phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá cách mạng Việt Nam.
Hiện nay trong âm mưu DBHB chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt
Nam, các thế lực thù địch mà đứng đầu là đế quốc Mỹ vẫn coi tôn giáo là con bài
hết sức lợi hại. Wyliam Colby (Nguyên giám đốc CIA) đã từng nói: ”Muốn đi vào
Châu Á phải bằng hai con đường: bánh mỳ và tơn giáo”.
Với âm mưu chia rẽ sự đồn kết lương giáo, chia rẽ các tôn giáo với nhau,
tách các tôn giáo ra khỏi khối đại đoàn kết toàn dân, tách các tôn giáo ra khỏi
phong trào, sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc. Các thế lực thù địch đã
sử dụng các thủ đoạn: Xun tạc tình hình tơn giáo Việt Nam, xun tạc chính
sách tơn giáo của Đảng và Nhà Nước ta, vu cáo chính quyền đàn áp tơn giáo….
Từ đó ta thấy rằng để làm tốt cơng tác tôn giáo, ta phải làm tốt công tác vận
động quần chúng, vì thực sự cơng tác tơn giáo là cuộc chiến giành quần chúng
nhân dân của ta và địch! Hiểu và nhận thức sâu sắc vấn đề trên có ý nghĩa to
lớn trong công cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia trên lĩnh vực tôn giáo.
Xuất phát từ lý do trên và để phục vụ cho việc học tập môn:” Đấu tranh với
hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm ANQG” _Bộ môn NVIII, em xin mạnh dạn
thực hiện đề tài: Quán triệt quan điểm của Đảng được ghi nhận trong nghị
quyết 25 hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành TƯ Đảng khoá IX, ngày
12/3/2003:”Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng”, trên cơ sở đó vận dụng vào giải quyết 3 vụ việc ở giáo xứ
Mông Sơn – Yên Bái, giáo xứ Hoà Khánh – Đà Nẵng, giáo xứ Đồng Chương
– Sơn Dương – Tuyên Quang.
Đề tài được bố cục thành 2 phần :
Phần I: Nhận thức chung về quan điểm của đề tài.
Phần II: Vận dụng quan điểm vào giải quyết 3 vụ việc ở các giáo
xứ:Mông Sơn – Yên Bái,Hoà khánh – Đà Nẵng, Đồng Chương – Tuyên Quang.
1
NỘI DUNG
Phần I: Nhận thức chung về quan điểm của đề tài:
1.1 Một vài nhận thức cơ bản về tôn giáo và tình hình tơn giáo ở
Việt Nam:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin thì: Tơn giáo là một hình
thái ý thức xã hội phản ánh sự tồn tại xã hội, mối quan hệ giữa con người với
con người, con người với tự nhiên một cách hoang đường. Sự phản ánh đó dựa
trên cơ sở tin và sùng bái các lực lượng siêu nhiên có khả năng chi phối, thay
đổi số phận con người.
Như vậy bản chất tôn giáo là một hiện tượng xã hội, một sản phẩm do
con người sáng tạo ra dưới những điều kiện nhất định. Tôn giáo chỉ mất đi khi
những nguyên nhân làm nảy sinh và điều kiện để tôn giáo tồn tại khơng cịn nữa!
Xét từ khái niệm và bản chất tơn giáo ta thấy ở Việt Nam hiện nay tôn
giáo vẫn cịn điều kiện để tồn tại.Năm 1990,Bộ chính trị đã ra nghị quyết 24 về
công tác tôn giáo, xác định tơn giáo là:”Vấn đề cịn tồn tại lâu dài.Tín ngưỡng tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tơn giáo có nhiều
điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Thực hiện nghị quyết của
Đảng, cơng tác vận động đồng bào có đạo, các tín đồ, chức sắc…Hưởng ứng
thi đua phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết được tiến bộ.
Tuy nhiên, tình hình hoạt động tơn giáo cịn có nhiều diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định.Một số người chưa tuân thủ pháp
luật, còn tổ chức truyền đạo trái phép; cịn lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hành
nghề mê tín dị đoan. Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ
sở vật chất của tôn giáo ở một số nơi tăng lên,có nơi gay gắt, phức tạp. Ở một
số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để tiến hành những hoạt động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại
khối đại đồn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị.
2
Xuất phát từ tình hình trên, nhằm giải quyết những diễn biến phức tạp có
liên quan đến tình hình tơn giáo ở Việt Nam, Đảng ta đã đưa ra quan điểm: “ Nội
dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng”. Được
ghi nhận trong nghị quyết 25 hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành TƯ Đảng khóa
IX, ngày 12/3/2003.
1.2 Cơ sở khoa học đưa ra quan điểm: “ Nội dung cốt lõi của
công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng”.
1.2.1 Cơ sở lý luận:
Quan điểm trên được xây dựng dựa trên sự nhận thức của Đảng ta về
quần chúng và tơn giáo.
Thứ nhất ta phải nói đến sự nhận thức đúng đắn của Đảng về tôn giáo
và chức năng của tôn giáo đối với con người, xã hội!
Chủ nghĩa Mac – Lênin đã chỉ ra rằng: Chức năng cơ bản của tôn
giáo là cân bằng, xoa dịu nỗi khổ của trần gian, là hương thơm cho trần gian lộn
ngược. Thế giới cực lạc mà tôn giáo chỉ ra tuy chỉ là hư ảo, ảo tưởng song trong
con người không vẹn tồn, xã hội khơng vẹn tồn, trong cái khơng vẹn tồn đó
có lúc, có nơi một bộ phận cần tơn giáo!
Về mặt đạo đức: Khơng một tơn giáo chân chính nào lại xúi bẩy con
người ta làm điều xấu, điều ác.Thậm chi trong một chừng mực nào đó nó cịn
ngăn chặn con người làm điều ác, mặc dù nó hướng về thế giới bên kia! Hạn
chế của tôn giáo đối với đạo đức là sự vâng lời không cần chứng minh, vâng lời
bất chấp. Điều đó làm cho tín đồ mê muội và mất tính năng động.
Khơng chỉ vậy tơn giáo cịn tác động rất lớn tới văn hóa và khoa học.Tất
nhiên sự tác động này cũng có tính hai mặt: Hoặc tích cực hoặc tiêu cực!
Trong quan hệ với xã hội tôn giáo là động lực, là yếu tố cố kết cộng
đỗng xã hội. Những cộng đồng tôn giáo như: Cộng đồng thiên chúa, cộng đồng
phật giáo…Khi cộng đồng đó hịa nhập với xã hội thì đó là yếu tố cố kết cộng
đồng xã hội, cái cố kết được hiểu theo hai nghĩa tốt hoặc xấu.Nếu tôn giáo trong
sáng điều đó sẽ có lợi cho xã hội. Vì vậy trong mối quan hệ với xã hội, tôn giáo
trách nhiệm của chúng ta là phát huy điểm tốt và hạn chế cái tiêu cực, điều xấu!
3
Thứ hai là sự nhận thức của Đảng ta về quần chúng: Quần chúng là lực
lượng đông đảo, là nền tảng cho một nước, là gốc rễ của một dân tộc, là động
lực chính để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Theo chủ nghĩa Mac – Lênin: Quần chúng nhân dân là người sang tạo ra
lịch sử, là chủ thể của lịch sử. Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất và của cải tinh thần phục vụ lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và
lợi ích xã hội. Họ còn là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế,
chính trị, xã hội. Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu vừa là
mụch đích cuối cùng của các hoạt động cách mạng.
Như vậy ta phải thừa nhận rằng chính quần chúng là người sáng tạo ra tôn
giáo để phục vụ cho nhu cầu tinh thần của mình.Lực lượng chính của tơn giáo
khơng phải là giáo hội hay đội ngũ giáo sĩ mà là quần chúng tín đồ.Quần chúng
tín đồ cịn thì tơn giáo cịn. Tín đồ chính là chỗ dựa để tơn giáo tồn tại, và tín đồ
cũng chính là đối tượng phát triển của giáo hội! Ngược lại tơn giáo cũng có tác
động trở lại đời sống tinh thần, tư tưởng của quần chúng nhân dân!
Các nhà tư tưởng lớn của Việt Nam ngay từ thời kỳ phong kiến đã nhận ra
vai trò to lớn của quần chúng: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”
hay “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” ( Nguyễn Trãi), “ Khoan thư sức dân là kế
sâu rễ, bền cội” ( Trần Hưng Đạo)…
Kế thừa và phát huy tinh thần đó tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của
quần chúng rất rõ ràng. Người nói: “Dễ vạn lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong!”. Từ nhận thức về vấn đề này Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã lãnh
đạo cách mạng Việt Nam theo phương châm : “Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng” và theo Người cách mạng Việt Nam có thể đi đến thắng lợi là do
Đảng ta biết tổ chức và phát động sức mạnh của quần chúng!
1.2.2 Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông đã và
luôn chứng minh rằng quần chúng vừa là động lực vừa là lực lượng của mọi
cuộc cách mạng, mọi cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước.Khơng có quần
chúng các ơng vua sẽ là vua không ngai, các cuộc cách mạng sẽ là cách mạng
cải lương. Sự thất bại của các phong trào chống pháp hồi cuối thế kỷ XIX đầu
4
thế kỷ XX cũng chứng minh rõ ràng điều này.Không phải khi đó các phong trào
khơng có các lãnh tụ tài giỏi mà do các lãnh tụ và các phong trào đó chưa thu
hút được sự tham gia của quần chúng.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Đông Dương (Nay là Đảng cộng sản Việt
Nam) vào ngày 3 tháng 2 năm 1930 thực sự đã đánh dấu một bước phát triển vĩ
đại của cách mạng Việt Nam.Từ đây quần chúng nhân dân được tập hợp, đồng
sức, đồng lòng đứng dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mac – Lênin.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ nhân dân ta đã đồn kết một lịng,
cam chịu mọi hy sinh, gian khổ làm nên hai chiến thắng thần kỳ, đánh bại hai kẻ
thù hùng mạnh nhất là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trong cuộc kháng chiến của dân tộc đã có rất nhiều quần chúng giáo dân
và chức sắc tôn giáo tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của Đảng và Bác
Hồ.Nhiều người đã lập nên những công trạng và được nhà nước ghi nhận.
Tuy vậy cũng có khơng ít đồng bào tơn giáo bị các thế lực thù địch lợi dụng
mà có những hoạt động chống lại lợi ích và sự nghiệp chung của dân tộc.Ngay
từ khi mới xâm lược Việt Nam Pháp đã biến tôn giáo thành chỗ dựa cho mình.
Đến giai đoạn (1945 – 1954) Pháp đã dùng bọn tay sai phản động trong tôn giáo
biến nhà thờ thành đồn bót, tuyển mộ ngụy quân cho Pháp, lập các đội vệ sĩ, các
khu công giáo tự trị vũ trang chống cách mạng. Sau năm 1954 Mỹ nhảy vào Việt
Nam lập chính phủ Ngơ Đình Diệm, Diệm đã từng thực hiện kế hoạch “ tơn giáo
hóa toàn miền nam” lấy thiên chúa giáo làm quốc đạo, biến các vùng tôn giáo
đặc biệt là thiên chúa giáo thành “phòng tuyến chống cộng”. . .
Cho đến nay đất nước đã hoàn toàn độc lập, tự do, sau mấy chục năm
được cách mạng tuyên truyền giáo dục, phần lớn giáo dân được giác ngộ nhưng
vẫn còn một bộ phận quần chúng bị kẻ địch lợi dụng tham gia các hoạt động
chống phá cách mạng. Có thể nói chừng nào cịn tơn giáo, cịn các thế lực thù
địch thì sẽ cịn hoạt động lợi dụng tơn giáo chống phá cách mạng. Và cách
phịng ngừa đấu tranh có hiệu quả nhất chính là việc để quần chúng tự phịng
ngừa, tự đấu tranh với các hoạt động và âm mưu của các thế lực thù địch lợi
dụng tôn giáo.
5
Quan điểm “ nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng” được Đảng đưa ra dựa trên cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận rất
khoa học.Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Đảng, biến nó thành hành động
thực tiễn góp phần giải quyết vấn đề tơn giáo trong điều kiện tình hình Việt Nam
hiện nay là một vấn đề rất quan trọng, góp phần giữ vững An ninh quốc gia
1.3 Nội dung quan điểm
Bản chất của quan điểm “Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác
vận động quần chúng”.
1.3.1 Hiểu thế nào là cốt lõi?
Cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng tức là
cái quan trọng nhất, cái chủ yếu nhất của công tác tôn giáo là công tác vận
động quần chúng.
Đây là sự nhận thức đầy đủ hơn của Đảng ta về cuộc đấu tranh cách
mạng trong tôn giáo. Cuộc đấu tranh này bao gồm hai cuộc đấu tranh
chính trị (chống phản động lợi dụng chính trị) và đấu tranh tư tưởng (giải
quyết vấn đề ý thức hệ). Trước đây có lúc ta chỉ thấy đấu tranh giải quyết
vấn đề tôn giáo là đấu tranh ý thức hệ. Quần chúng tín đồ là lạc hậu, hàng
ngũ giáo sĩ là lực lượng tuyên truyền phản động, phản khoa học, coi tổ
chức giáo hội là một tổ chức phản động. Bởi vậy, trong đấu tranh chúng ta
còn thiên về ngăn cấm, trấn áp.
Cũng có lúc chúng ta nhận thức khá đơn giản rằng có thể sớm giải
quyết xong cả hai cuộc đấu tranh đó. Ngày nay trước những chuyển biến
về nhận thức ta thấy rằng đây là mộy cuộc đấu tranh gay go phức tạp và
lâu dài.Chừng nào cịn tơn giáo, cịn bọn phản động thì cịn âm mưu và
hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng,xâm phạm ANQG.
Công tác tôn giáo thực chất là công tác quần chúng nhưng chúng ta
không thể tiến hành như công tác quần chúng nói chung. Bởi vì cơng tác
này có đặc thù là quần chúng cịn sinh hoạt tơn giáo và kẻ địch lợi dụng
tơn giáo. Bên cạnh đó chúng ta cịn phải quan tâm tới công tác chức sắc,
giáo hội và công tác trấn áp phản cách mạng. Trên cơ sở đáp ứng một
cách hợp lý những nhu cầu, nguyện vọng, tín ngưỡng chính đáng của
quần chúng tín đồ, “khơng đối đầu với tơn giáo”, Đảng chỉ chăm lo lợi ích
vật chất và tinh thần cho quần chúng, nâng cao trình độ chính trị, văn hố,
xây dựng con người mới. Đảng phải phát huy mọi khả năng cách mạng
6
của đồng bào có đạo.Muốn vậy phải có chính sách đúng đắn, vừa đúng về
khía cạnh quần chúng nói chung và khía cạnh tơn giáo tín ngưỡng nói
riêng.
Cơng tác vận động quần chúng phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục. Bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng khác nhau tùy vào điều
kiện, hoàn cảnh. Trong vận động quần chúng khơng được ngại khó, ngại
khổ. Có vậy mới có thể làm cho quần chúng giáo dân hiểu được chính
sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta, mới cơ thể tranh giành quần
chúng với các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo.
Công tác vận động quần chúng làm nền tảng cho các mặt công tác
khác ở vùng giáo. Các hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề an ninh trật
tự ở vùng giáo phải bắt đầu từ việc vận động quần chúng giải quyết các
vấn đề đạo đức, nếp sống, hoà giải những mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân, lấy hiệu quả các vấn đề đó để thu hút sự ủng hộ của quần chúng giáo
dân, khơi dậy lòng nhiệt tình của họ, tập hợp quần chúng. Cơng tác vận
động quần chúng giúp chúng ta tiến hành công tác trấn áp các phần tử
phản cách mạng ở vùng giáo, trong công tác tranh thủ các chức sắc tôn
giáo, trong thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước…
1.3.2 Nội dung của công tác vận động quần chúng?
Yêu cầu chung với cơng tác vận động quầm chúng tín đồ tôn giáo là
làm cho quần chúng giáo dân ngày càng tin tưởng gắn bó với Đảng,với
chế độ nhà nước XHCN, hiểu, tuân thủ, hăng hái thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,nhất là các chính sách có liên
quan đến cơng tác tơn giáo.Thường xun nâng cao giác ngộ,nhận thức
chính trị cho quần chúng,”giải toả nọc độc”của chủ nghĩa đế quốc và các
phần tử phản động lợi dụng tôn giáo.Làm cho quần chúng thấy được âm
mưu thủ đoạn thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động lợi dụng
tơn giáo. Từ đó để quần chúng đứng lên phê phán những biểu hiện tiêu
cực trong xã hội,chống lại bọn lợi dụng tôn giáo đưa hoạt động của giáo
hội vào khuôn khổ pháp luật nhà nước.
Công tác vận động quần chúng tín đồ tơn giáo thấm nhuần tư tưởng:
không được thành kiến và phải biết phân biệt những người có tư tưởng
lạc hậu cuồng tín mà chống đối và những đối tượng cố tình lợi dụng tơn
giáo để phá hoại.Phải chăm lo cả về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần cho
quần chúng giáo dân.
7
Nội dung công tác vận động quần chúng được thể hiện ở những vấn
đề sau:
Tuyên truyền phổ biến đường lối chủ trương chính sách của
Đảng,pháp luật của nhà nước,nhất là những chính sách có liên quan đến
tơn giáo để quần chúng hiểu rõ.
Cần lấy thực tiễn để chỉ cho quần chúng giáo dân thấy: Đảng ta ln
đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết. Trong đó có lợi ích của
quần chúng giáo dân. Đồng thời khêu gợi tinh thần, truyền thống yêu nước
của đồng bào theo đạo, những đóng góp của họ trong sự nghiệp cách
mạng trước đây và bây giờ.
Chỉ cho quần chúng giáo dân thấy những thắng lợi mà cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đã đạt được dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Chỉ cho họ thấy nhiệm vụ trước mắt và tương lai của cách mạng
Việt Nam. Trong đó chỉ ra nhiệm vụ của cả đồng bào giáo dân là cùng
chung sức với cả dân tộc xây dựng đất nước giàu mạnh, sống “tốt đời,
đẹp đạo”!
Làm cho quần chúng thấy được chính sách của Đảng và nhà
nước ta đối với tơn giáo là ln tơn trọng tự do tín ngưỡg, tự do tôn giáo.
Đảng và nhà nước ta không bao giờ có chủ trương gây khó khăn cản trở
cho sinh hoạt tôn giáo của quần chúng giáo dân.Những qui định của nhà
nước với tôn giáo thực chất là nhằm ngăn chặn những hoạt động lợi dụng
tôn giáo chống lại nhà nước XHCN,chứ khơng hạn chế sinh hoạt tơn
giáo.Những hình thức xử lý với đối tượng nhằm mục đích trừng trị các đối
tượng lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng xã hội XHCN, chứ khơng có
mục đích”tiêu diệt đàn áp tơn giáo”như những luận điệu mà bọn phản
động vẫn tuyên truyền lừa bịp.
Từ việc chỉ rõ những âm mưu thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực phản động lợi dụng tơn giáo vào mục đích chống phá cách
mạng Việt Nam và trong giáo hội Việt Nam cũng còn có những phần tử tay
sai phản động cơng khai hay ngấm ngầm chống phá.Quần chúng giáo dân
phải có ý thức cảnh giác không để bị kẻ địch lôi kéo, lợi dụng vào các hoạt
động chính trị phản động.Họ phải thấy được: những hoạt động núp bóng
giáo hội chống nhà nước không những gây hậu quả trực tiếp cho nhà
nước , cho cách mạng mà cịn ảnh hưởng đến uy tín vị thế của giáo hội,
gây ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của quần chúng giáo dân.
8
Chỉ đến khi quần chúng hiểu rõ chính sách của Đảng và nhà nước , thấy
rõ được những âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo thì lúc
đó họ mới đồng tình ủng hộ các chủ trương , biện pháp đấu tranh của ta.
họ tự giác đứng lên đấu tranh với những hành vi sai trái của các đối tượng
vi phạm
Chăm lo giải quyết những lợi ích thiết thân trong đó có quyền tự do tín
ngưỡng.
Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng:con người - một thực thể thống nhất
của cái sinh vật và cái xã hội.Tức là con người nói chung theo ý nghĩa đầy
đủ của nó. vừa là sản phẩm của xã hội vừa là sản phẩm của tự nhiên.Con
người là sản phẩm của hoàn cảnh mơi trường sống xung quanh.Khi điều
kiện sống thay đổi thì nhận thức con người cũng dần dần thay đổi theo.
Sự áp bức của các lực lượng thiên nhiên và xã hội làm nảy sinh trong con
người những cảm giác bất lực hèn yếu. Trong cuộc sống nghèo khổ, con
người luôn bám lấy những ảo tưởng để tự an ủi, những hứa hẹn tốt lành
phi thực tế sẽ đến ở thế giới bên để bằng lòng với cuộc sống hiện thực
trong xã hội có các giai cấp đối kháng. Chừng nào cịn có sự khổ ải trong
đời sống hiện thực thì chừng ấy cịn có sự khổ ải trong tơn giáo và cịn
niềm tin đối với tơn giáo.
Vì vậy chỉ khi nào chúng ta quan tâm và chăm lo tới việc nâng cao dân
trí, đời sống văn hố, tinh thần và từng bước cải thiện đời sống vật chất
cho quần chúng giáo dân - tức là làm cho họ thấy “Một thiên đường trên
mặt đất” trước khi họ có “thiên đường trên trời” thì khi đó cơng tác vận
động quần chúng mới đạt được hiệu quả, mang tính tồn diện và vững
chắc.
Đối với những người theo đạo, ngoài “miếng cơm manh áo” thì việc
đọc kinh, đi lễ, xưng tội cũng là những điều không thể thiếu được. Cho
nên chăm lo đời sống vật chất chưa đủ, ta còn phải quan tâm đến đời
sống tinh thần, đời sống tín ngưỡng của quần chúng. Những sinh hoạt tơn
giáo khơng trái với chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì
khơng được cản trở mà phải tạo điều kiện cho họ tiến hành. Ngồi ra cịn
quan tâm tổ chức các hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể
thao để thu hút giáo dân, nhất là lớp trẻ.
Giúp đồng bào giáo dân nâng cao trình độ mọi mặt.
9
Các phần tử phản động lợi dụng tôn giáo luôn dựa vào trình độ dân trí
thấp của quần chúng giáo dân để nắm lấy và kích động họ chống lại chính
quyền cách mạng. Đó là sự hiểu biết về đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước, đặc biệt là chính sách tơn giáo. Sự hiểu biết khơng sâu sắc về
giáo lý, giáo luật, về tình hình trong nước và quốc tế…Từ đó nảy sinh
những hành động tiêu cực, quá khích, trong nhiều trường hợp có thể
chống phá quyết liệt chính quyền với tinh thần tử vì đạo.
Để làm tốt công tác đấu tranh chúng ta phải không ngừng nâng cao
trình độ cho quần chúng giáo dân về mọi mặt. Thực tế giáo dân có sự hiểu
biết nhất định nhưng thường là những luồng thông tin trái ngược, sai sự
thật do kẻ xấu lừa bịp. Muốn làm được điều này bên cạnh việc mở trường,
mở lớp, chúng ta còn phải hướng dẫn họ tham gia các hoạt động chính trị
xã hội, các hoạt động xây dựng chính quyền. .. Đây chính llà việc tạo điều
kiện cho quần chúng giáo dân khơng ngưng nâng cao kiến thức, gắn bó
với chế độ.
Khuyến khích đồng bào đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng
của dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân. Mọi công dân dù theo hay
không theo một tôn giáo nào đều phải góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, tích cực tham gia phong trào xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, tham gia các hoạt động “xố đói giảm
nghèo”, “đền ơn đáp nghĩa”… Sở dĩ ta phải khuyến khích quần chúng giáo
dân đóng góp sức mình vào sự nghiệp cách mạng bởi lẽ số lượng quần
chúng giáo dân chiếm 1/3 dân số cả nước. Mặt khác chúng ta không chỉ
dừng lại ở thái độ tơn trọng tự do tín ngưỡng của quần chúng tín đồ giáo
dân mà trên cơ sở thoả mãn nguyện vọng tín ngưỡng của họ, ta lơi cuốn
họ vào hoạt động chính trị xã hội vừa có lợi cho đất nước vừa có lợi cho
bản thân họ.
Cần kêu gọi quần chúng “kính chúa” phải thực sự yêu nước, phải thực
hiện mục đích hướng thiện của tơn giáo. Phải đặt nghĩa vụ, trách nhiệm
của công dân với đất nước. Cần làm cho họ thấy điều kiện tôn giáo tồn tại
và phát triển được là nước nhà độc lập, thống nhất dân tộc, nhân dân
được tự do cho nên mọi người phải gắng cơng đóng góp xây dựng đất
nước và bảo vệ đất nước.
10
Làm cho quần chúng hiểu và tích cục tham gia vào sự nghiệp cách
mạng của dân tộc là chúng ta đã thực sự giành được quần chúng,cách ly
khỏi sự khống chế của các thế lực phản động lợi dụng tôn giáo. Đồng thời
đây còn là điều kiện để ta hướng cho quần chúng đấu tranh vạch mặt bọn
chúng.
Muốn làm tốt cơng tác vận động quần chúng, địi hỏi phải có sự tham
gia của cả hệ thống chính trị,bao gồm: Tổ chức Đảng,tổ chức chính quyền
và các tổ chức chính trị xã hội khác của quần chúng.
Mỗi tổ chức có chức năng nhiệm vụ riêng nhưng phải phối kết hợp với
nhau tránh chồng chéo.Tổ chức Đảng là cơ quan lãnh đạo đối với cơng
tác vận động quần chúng.Có như vậy mới thống nhất hoạt động của các
tổ chức chính trị xã hội khác.Là một bộ phận trong bộ máy nhà nước,cơ
quan an ninh có nhiệm vụ thơng qua thực tiễn chiến đấu của mình mà
tham mưu cho cấp uỷ đảng,chính quyền địa phương về chủ trương vận
động quần chúng,nội dung vận động hướng dẫn các tổ chức chuyên môn
trong bộ máy nhà nước và các tổ chức quần chúng làm tốt công tác vận
động quần chúng. Đồng thời cơ quan an ninh cịn phải trực tiếp tiến hành
cơng tác vận động quần chúng tín đồ các tơn giáo.
PHẦN II: Vận dụng quan điểm giải quyết 3 điểm nóng ở
Mơng Sơn – Yên Bái, Hoà Khánh – Đà Nẵng và Đồng
Chương – Tun Quang.
2.1 Vụ điểm nóng ở giáo xứ Mơng Sơn – n Bái:
2.1.1 Tóm tắt sự việc:
Giáo xứ Mơng Sơn huyện n Bình tỉnh n Bái thuộc địa Hưng Hố có
2251 giáo dân chiếm 2/3 dân số tồn xã ( Lực lượng tín đồ khá đơng). Xã có
13/78 Đảng viên đang theo đạo thiên chúa, ban chấp hành Đảng bộ xã có một
đồng chí đi theo đạo, có 2 bí thư chi bộ, 6/9 trưởng thôn theo đạo. Xứ đạo này
do linh mục Nguyễn Văn Thái trú ở nhà thờ Yên Bái kiêm nhiệm quản lý.
Đây là địa bàn tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây tình trạng mất ổn định
về an ninh trật tự: Trước đây khu vực này đã phát sinh một số vấn đề phức tạp
về an ninh, cổng nhà đồng chí Chủ tịch đã từng bị gài bộc phá tự tạo( Ta chưa
tìm ra thủ phạm).
Quần chúng lương, giáo trên địa bàn lại sống xen kẽ nhau, các mộ chí
của hai bên lương giáo cũng được bố trí xen kẽ nhau, khơng gình thành khu vực
riêng. Trong đó chủ yếu là mộ của bên giáo( Bên lương tính đến 31/5/2001 chỉ
có 19/112 ngơi mộ).
11
Ngày 28/11/2000 nhân dịp xã tổ chức phát cỏ dọn vệ sinh khu vực nghĩa
trang. Một số giáo dân đã tự động chuyển cây thánh giá (được đúc sẵng) bằng
bê tông cốt sắt lên dựng tại nghĩa trang( hành vi vi phạm pháp luật). Sự việc này
bên lương đã đâm đơn kiện chính quyền, chính quyền giải quyết vận động bà
con giáo dân tự nguyện tháo dỡ cây thánh giá nhưng không được. Cuối cùng
phải thực hiện biện pháp cưỡng chế song lại thực hiện một cách vô trách nhiệm,
không lường hết được tính chất phức tạp của vấn đề, ấu trĩ về chính trị (hạ đổ
cây thánh giá; sau đó lại đập vụn cây thánh giá) gây bức xúc và hoạt động chống
đối của bà con giáo dân, tạo điều kiện cho những phần tử xấu kích động giáo
dân gây ra tình trạng mất ổn định về an ninh trật tự trên địa bàn, gây ra sự mâu
thuẫn giữa quần chúng giáo dân với bà con đi lương và với chính quyền nhân
dân.
2.1.2 Nhận xét về vụ việc và cách giải quyết trên thực tiễn.
Về tính chất vụ việc: Đây là vụ việc nảy sinh do mâu thuẫn nội bộ trong quần
chúng nhân dân, cụ thể là giữa bà con theo đạo thiên chúa và quần chúng không
theo đạo. Nguyên nhân là do đồng bào theo đạo thiên chúa đã dựng cây thánh
giá vào nghĩa địa có phần mộ của những người bên lương. Tình hình này làm
nảy sinh vấn đề phức tạp về an ninh trật tự, gây mất đoàn kết nội bộ trong nhân
dân. Đây là điều kiện để bọn xấu và các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành chia
rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định, đe dọa đến an ninh quốc gia (cụ
thể là linh mục Thái, Tất và Ban hành giáo đã vu cáo chính quyền đàn áp tơn
giáo, kích động bà con giáo dân tiến hành nhiều hoạt động chống đối).
Trước tình hình đó, Ban chỉ đạo cơng tác tôn giáo của xã Mông Sơn đã tiến
hành giải quyết bằng cách tuyên truyền, vận động quần chúng giáo dân để tổ
chức giải quyết, tổ chức một cuộc họp hòa giải theo hướng giáo dân trong xã tự
hạ cây thánh giá mà họ đã dựng trái phép. Biện pháp áp dụng để giải quyết là
biện pháp cưỡng chế hành chính hạ đổ cây thánh giá.
Đối với cơng tác vận động quần chúng, lực lượng tiến hành đã sử dụng hình
thức vận động rộng rãi đối với quần chúng cả đồng bào theo đạo và khơng theo
đạo. Chính quyền đã tổ chức hịa giải theo hướng vụ việc có liên quan đến Thiên
Chúa giáo để cho người thiên chúa giáo tự giải quyết. Đồng thời cũng đã tổ
chức vận động cá biệt đối với linh mục Thái và các thành viên trong ban hành
giáo. Nội dung vận động xoay quanh việc thuyết phục quần chúng giáo dân tháo
12
dỡ cây thánh giá. Mặc dù việc vận động quần chúng đã được tiến hành song
vẫn không đạt được kết quả.
Nhận xét về công tác vận động quần chúng giải quyết vụ việc này: Ta đã kịp
thời tiến hành công tác vận động quần chúng khi sự việc chớm xảy ra, điều này
chứng tỏ ta có sự coi trọng vai trị, vị trí và nhận thấy tác dụng to lớn của công
tác vận động quần chúng giải quyết vấn đề liên quan đến tơn giáo. Trong q
trình vận động đã biết kết hợp các hình thức vận động rộng rãi và cá biệt, đặc
biệt là đã chú ý vào vận động quần chúng cá biệt là linh mục Thái, người có uy
tín với giáo dân. Q trình giải quyết vụ việc đã tiến hành kết hợp nhiều biện
pháp: vận động quần chúng có, mệnh lệnh hành chính có ( việc thành lập Hội
đồng cưỡng chế tiến hành dỡ cây thánh giá đã có thể giải quyết phần nào vụ
việc nếu ta biết kết hợp với vận động quần chúng có tinh thần trách nhiệm cao
hơn).
Về mặt tồn tại khi vụ việc xảy ra đã khơng xem xét sự việc vì sao đồng bào
theo đạo thiên chúa lại dựng cây thánh giá tại nghĩa trang để xác định nội dung
tuyên truyền và cách giải quyết cho phù hợp. Chúng ta cần lưu ý rằng đồng bào
theo đạo thiên chúa có tục lệ đào sâu chôn chắc( nghĩa là chỉ an táng có một lần
vĩnh viễn). Cịn đồng bào bên lương thì họ lại có tục lệ địa táng rồi mới cải táng.
Ta phải xác định xem trong 19 mộ người đi lương tại ngiã trang đó đã cải táng
hết chưa, và từ trước tới nay ở nghĩa trang này đã chôn người lương nào theo
hình thức địa táng khơng. Có gây vấn đề gì bức xúc cho quần chúng theo đạo
hay không? Trước khi vận động quần chúng lẽ ra phải nắm chắc được các
nguyên nhân, các thông tin như vậy để có hình thức xử lý phù hợp.Việc giải
quyết bằng biện pháp cưỡng chế hành chính lại mang tính thơ bạo, khơng lường
hết được tính chất phức tạp của vấn đề, ấu trĩ về chính trị, lại thiếu tinh thần
trách nhiệm. Nghiêm trọng hơn là Hội đồng cưỡng chế đã đưa lực lượng lên tổ
chức đập vụn cây thánh giá. Việc làm này là một hành động vô cùng kém cỏi về
chính trị, nó đã xúc phạm đến tình cảm tơn giáo của quần chúng tín đồ. Sao
khơng hiểu được một điều là cây thánh giá đó tuy vơ tri vơ giác nằm đó nhưng lại
tượng trưng cho Đức Chúa kính yêu của họ, là thiêng liêng đối với mỗi giáo dân
công giáo. Sao Hội đồng cưỡng chế không nắm được tình hình, khơng phát huy
13
tác dụng của công tác vận động quần chúng mà cịn làm cho quần chúng giáo
dân thêm bất bình và một số phần tử quá khích đã lợi dụng làm phức tạp thêm
vấn đề, chất vấn số người đập thánh giá, bắt cán bộ xã diễn lại để chụp ảnh và
lập biên bản, tổ chức bảo vệ cây thánh giá đó...
Khi thực hiện cơng tác vận động quần chúng, ta chỉ vận động một cách
chung chung mà không phân loại, xác định đầy đủ các loại đối tượng để vận
động. Ta chỉ vận động quần chúng theo đạo mà bỏ qua việc vận động quần
chúng bên lương. Do đó khơng làm giảm được mâu thuẫn trong nội bộ quần
chúng nhân dân. Khi vận động không chú ý những chi tiết như xứ đạo Mơng Sơn
có 13/78 đảng viên theo đạo, Ban chấp hành Đảng bộ có một đồng chí theo đạo,
có 2 bí thư chi bộ, 6/9 trưởng thơn, phó chủ tịch Mặt trận tổ quốc xã theo đạo.
Song lực lượng làm công tác vận động quần chúng đã không chú ý sử dụng
hình thức vận động cá biệt với những con người trên (những người này tuy theo
đạo nhưng việc ta vận động họ cũng không phải là vấn đề khó khăn do tính chất
cơng tác, vị trí của họ là trưởng thôn, Ủy viên ban chấp hành đảng bộ xã, bí thư
chi bộ, đảng viên). Họ là những con người có uy tín đối với quần chúng, lại là
người theo đạo nên nếu ta biết tranh thủ, sử dụng họ để vận động quần chúng
giáo dân thì nhất định sẽ đạt kết quả tốt.
Việc bỏ qua không vận động ơng Xn ( phó chủ tịch MTTQ xã) là điều sai
sót. Ơng Xn là người trực tiếp tham gia dựng cây thánh giá tại nghĩa trang.
Nếu ta chú ý vận động ơng để từ đó ơng vận động bà con giáo dân thì sẽ đạt
được hiệu quả phần nào.
Một tồn tại nữa của lực lượng vận động quần chúng là ta đã không chú ý
đến vận động Ban hành giáo và linh mục Thái. Họ đã không hợp tác với ta trong
việc giải quyết vụ việc này (bằng chứng là khi làm việc với họ, họ đều từ chối và
cho rằng không phải trách nhiệm của họ, họ không có quyền giải quyết). Cần
chú ý rằng Ban hành giáo và đặc biết là linh mục Thái có uy tín rất lớn đối với bà
con giáo dân ở vùng đó. Linh mục Thái là người cha đáng kính của họ về mặt
tâm linh, mọi lời nói, hành động của ơng ta đều chi phối và ảnh hưởng to lớn đến
quần chúng giáo dân. Nếu ta tập trung vận động cá biệt đối với linh mục Thái,
chỉ rõ cho linh mục Thái những lợi hại, phải trái của vụ việc mà ông ta hợp tác
14
với chúng ta thì vụ việc này chắc chắn sẽ được giải quyết tốt đẹp.
Quá trình vận động quần chúng đã khơng nắm được tình hình quần chúng
giáo dân, đặc biệt là không nắm được và phân loại được số đối tượng quá khích
để chúng lợi dụng kích động bà con giáo dân gây tình hinh phức tạp. Khơng có
kế hoạch giải quyết khi vụ việc phức tạp nảy sinh và trong q trình vận động
khơng có sự phối hợp giữa các lực lượng mà do Ban chỉ đạo công tác tôn giáo
tiến hành "đơn thương độc mã" nên không tạo ra sức mạnh tổng hợp của quần
chúng. Do đó không đạt được kết quả như ý muốn.
Một điểm chú ý nữa là việc cưỡng chế thô bạo, đập vỡ cây thánh giá là việc
làm ấu trĩ, xúc phạm đến tình cảm tơn giáo của quần chúng giáo dân. Đây là việc
làm chưa đúng của ta nên việc ta cho những người tham gia đập cây thánh giá
đó đi xin lỗi trước bà con giáo dân cũng là việc cần thiết nên làm.
2.2 Vụ điểm nóng ở giáo sứ Hịa Khánh - Đà Nẵng
2.2.1 Tóm tắt khái quát vụ việc.
Giáo sứ Hòa Khánh – Đà Nẵng là một địa bàn phức tạp, nhạy cảm liên quan
đến đồng bào giáo dân: có khoảng 13000 giáo dân. Nhà thờ xứ tại khối Quang
Thành phường Hịa Khánh (tập trung đơng giáo dân:124 hộ,780 khẩu chiếm
10% dân số tồn phường). Nơi đây có nhiều bức xúc về đất đai cũng như việc
sử dụng đất có liên quan đến giáo xứ. Giáo xứ Hịa Khánh (Đứng đầu là linh
mục Thơng) muốn địi lại đất cũ của giáo xứ(điều này trái pháp luật) nên đã kích
động quần chúng giáo dân (vốn dễ bị kích động), thực hiện các hành vi sai trái :
Dựng bảng “giáo xứ Hòa Khánh liên xã Hòa Minh – Hòa Hiệp”, treo khẩu hiệu
mang tính kích động cao, cơng khai sơn lại chữ “Trường tiểu học thánh mẫu”;
dựng tượng “Đức mẹ”; tiến hành đạp phá tường ngăn giữa nhà thờ và trường
học; chống đối ngăn cản công nhận thực hiện giải tỏa mặt bằng … và có các
hoạt động chống đối khác.
Đồng bào giáo dân và linh mục Thơng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
linh mục Thông lợi dụng uy tín, vai trị vị trí của mình để tun truyền kích động
giáo dân tiến hành các hoạt động chống đối mang tính chính trị; về phía đồng
bào giáo dân do có bức xúc về đất đai, do niềm tin tơn giáo nên đã bị kích động
và làm theo.
15
Về phía linh mục Thơng, về tiếp quản giáo xứ Hòa Khánh năm 1994 (là linh
mục Bắc di cư) đã từng kêu kiện đất đai tranh chấp tại giáo xứ Vĩnh Điện. Khi về
Hịa Khánh khoảng một năm đã có những hoạt động khiếu kiện đòi trả lại cho
giáo xứ toàn bộ khu vự thánh mẫu. Các hoạt động cụ thể của Thông là cùng với
các phần tử phản động khác tun truyền kích động giáo dân gây lên tình trạng
bất ổn ở địa bàn, đơn gửi các lãnh đạo cao cấp như chủ tịch Quốc hội, thủ
tướng chính phủ, Tòa Giám mục Hà Nội và nhiều cơ quan Trung ương vu khống
ta và tổ chức để tang giáng sinh gây diễn biến phức tạp và trở thành điểm nóng.
Cố tình đẩy chính quyền vào thế đối đầu, với giáo dân gây hậu quả xấu đối với
việc thực hiện chính sách ở địa phương.
2.2.2 Nhận xét về tính chất của vụ việc và cách giải quyết vụ
việc trong thực tiễn.
Về tính chất vụ việc:
Đây là điểm mang tính chất tơn giáo, nó liên quan đến tranh chấp đất đai,
khiếu kiện đơng người, có liên quan đến nhu cầu bức xúc của đồng bào quần
chúng giáo dân. Do vậy, các đối tượng thù địch (nhất là linh mục Thông) đã lợi
dụng vấn đề tôn giáo này để khoét sâu mâu thuẫn giữa chính quyền với giáo
dân, gây ra tình trạng khiếu kiện kéo dài.
Nguyên nhân chủ quan trước hết là về phía chính quyền chức quan tâm
giải quyết, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của đồng bào giáo dân. Chậm có những
biện pháp để giải quyết kịp thời tình trạng khiếu kiện. Việc giải quyết cơng việc
có liên quan đến vụ việc này khơng dứt khốt, triệt để. Cơng tác đấu tranh trấn
áp với các đối tươngj có hoạt động vi phạm pháp luật chưa kịp thời. Ta lại chưa
tạo ra được phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Dẫn đến hậu quả là
đã để vụ việc trở nên phức tạp hơn, trở thành điểm nóng, gây ánh hưởng khơng
tốt về chính trị.
Nhận xét về cách thức vận động quần chúng giải quyết vụ việc.
Mặt đạt được: Đã xác định được nội dung cốt lõi gây ra tình trạng bất ổn
định trên địa bàn là việc kích động tun truyền xúi giục của linh mục Thơng đói
với quần chúng giáo dân. Xác định đúng nguyên nhân của sự việc là do tranh
16
chấp đất đai gữa nhà thờ và chính quyền. Để giải quyết được vụ việc này cần
phải đáp ứng nhu cầu chính đáng của quần chúng và làm tốt cơng tác vận động
quần chúng giáo dân.
Trên cơ sở xác định đượng những vấn đề trên nên thường trực UBND tỉnh
đã giao cụ thể cho các ngành chức năng và trường Cao đẳng sư phạm chuyển
57 hộ cán bộ công nhân viên đi nơi khác trong thời gian 6 tháng để sử dụng cơ
sở trường Thánh Mẫu vào mục đích giáo dục, trước mắt cho giáo xứ được mở
đường vào cổng chính nhà thờ …. Và chuẩn bị giao cho chính quyền làm trường
PTCS. Do có hướng giải quyết đúng nên tình hình khiếu kiện tạm thời lắng
xuống.
Cơng tác vận động đã chú ý đến việc sử dụng người có chức vụ có uy tín
như đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh.
Mặt tồn tại:
Mặc dù đã xác đinh được nguyên nhân gây ra tình trạng khiếu kiện, căng
thẳng ở địa bàn, song cơng tác giải quyết của chính quyền địa phương lại chưa
triệt để và còn hời hợt, thiếu sự kiên quyết. Khơng tập trung xóa vỏ tận gốc rễ
ngun nhân phát sinh vụ việc. Cụ thể là linh mục Thông đã cùng hội đồng giáo
xứ 4 lần gửi đơn đến các cấp ủy chính quyền địi trả lại cho nhà thờ toàn bộ khu
vực trường thánh mẫu, đồng thời cử người nhiều lần ra Hà Nội song ta lại khơng
có chủ trương đường lối giải quyết cũng như các văn bản pháp luật khác có liên
quan giải quyết vấn đề đó. Lẽ ra cần phải tổ chức các buổi gặp mặt giữa chính
quyền cơ sở với giáo dân để phân tích, giải thích cho quần chúng hiểu đồng thời
thơng qua các buổi sinh hoạt của từng phường, khối qua các bộ phận truyền
thơng(đài phát thanh, đài truyền hình…) để tun truyền cho giáo dân khi có
những khúc mắc, yêu cầu, thắc mắc về những vấn đề đó!
Cơng tác vận động quần chúng giáo dân chưa thực sự sát dân, chưa tạo
được “nhân lõi” từ quần chúng( Tức là chưa tranh thủ, sử dụng được những
người có uy tín, những quần chúng tốt…). Biểu hiện cụ thể là để tình trạng khiếu
kiện lâu ngày, khiếu kiện vượt cấp. Ta không tranh thủ được một thành viên nào
của hội đồng giáo xứ đứng về ta giúp ta nắm bắt các thông tin trong nội bộ họ để
ta có biện pháp vận động thích hợp.
17
Cơng tác trấn áp tội phạm chưa có hiệu quả và chưa nghiêm. Đây là một
công tác tương đối quan trọng đối với công tác vận động quần chúng. Thông
qua cơng tác này đẻ phân hóa bọn phản động, những người vi phạm pháp luật
ra khỏi quần chúng. Trong vụ Hịa Khánh, linh muc Thơng chỉ đạo số tay chân
thân tín tán phát rộng rãi trong giáo dân tờ “giải đáp thắc mắc” với nội dung xấu,
kích động , xuyên tạc vi phạm pháp luật hình sự và luật xuất bản song ta cũng
chưa có biện pháp phân hóa trấn áp số này. Điều đó càng làm cho chúng có các
hoạt động chống phá ở mức độ cao hơn. Trong trường hợp này nếu ta biết thu
thập và củng cố chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm pháp luật của chúng và
tuyên truyền cho quần chúng giáo dân để họ tự nhận biết và lên án những kẻ đó
thì hiệu quả giải quyết vụ việc chắc chắn sẽ tốt hơn.
2.3 Vụ điểm nóng ở giáo xứ Đồng Chương - Tuyên Quang
2.3.1 Tóm tắt nội dung vụ việc:
Giáo xứ Đồng Chương thuộc địa phận Bắc Ninh, có nhà thờ xứ tại xã Vĩnh –
Sơn Dương – Tuyên Quang, một xứ đạo có đơng quần chúng théo đạo, trong số
đó có cả đảng viên.Từ năm 1954, xứ Đồng Chương khơng có linh mục coi sóc
mà phải nhờ linh mục quản xứ khác trơng coi. Tịa giám mục Bắc Ninh đã đề
nghị linh mục lên Tuyên Quang nhưng chưa được chấp nhận. Từ tháng 6 năm
1996, khơng có linh mục coi sóc ở đây do tịa giám mục Bắc Ninh khơng nhờ linh
mục Nguyễn Tiến Cử nữa. Chính vì vậy mà nhu cầu muốn có linh mục để trơng
coi nhà thờ chăm lo việc đạo của bà con giáo dân ở xứ này rất bức xúc.
Ngày 24/7/98 trước tình hình đó, UBND tỉnh Tuyên Quang đã chấp thuận
cho tòa giám mục phong linh mục cho anh Trần Quang Khiêm, nhưng chưa bố
trí sắp xếp được thời gian làm việc với giám mục địa phận Bắc Ninh. Từ 1996 –
1998 tòa giám mục đã hai kần đề nghị với UBND tỉnh cho anh Đặng Văn Chi đi
học đại chủng viện Hà Nội nhưng UBND tỉnh chưa đồng ý vì anh Chi khơng thi
hành nghĩa vụ quân sự, khai man lý lịch. Giáo dân khơng đồng ý vì cách giải
quyết đó nên đã gửi đơn, khiếu nại. Trước tình hình đó, đồn cơng tác của tỉnh
đã tiến hành tiếp xúc với quần chúng để giải quyết nhưng một số đối tượng quá
khích, cực đoan đã lợi dụng việc này làm cho tình hình trở nên rất phức tạp, gây
18
khó khăn cho cán bộ ta trong khi làm nhiệm vụ; Giáo dân đã cử người đến Ban
tơn giáo chính phủ khiếu nại. Sau khi được giải thích họ đã ra về. Cuối cùng
UBND huyện ra công lệnh yêu cầu mọi người giải tán. Mọi việc trở lại hoạt động
bình thường.
2.3.2 Nhận xét về vụ việc và cách giải quyết trên thực tiễn.
Về tính chất vụ việc: Đây khơng phải là mâu thuẫn đối kháng mâu thuẫn địch
ta mà là mâu thuẫn do sự hiểu lầm giữa quần chúng giáo dân với chính quyền
địa phương. Nhu cầu có linh mục để phục vụ các hoạt động tôn giáo là một nhu
cầu tinh thần hồn tồn chính đáng của quần chúng giáo dân. Nhu cầu này càng
trở nên bức xúc vì trong một thời gian dài xứ Đồng Chương này không có linh
mục mà từ tháng 6 năm 1998 tịa giám mục lại khơng nhờ linh mục làm mục vụ
ở đó nữa. Khi quần chúng giáo dân có đơn xin phép thì chính quyền lại khơng
quan tâm giải quyết triệt để, đáp ứng nhu cầu đó làm cho quần chúng giáo dân
càng bức xúc, dẫn đến mâu thuẫn với chính quyền.
Chính quyền tuy đã cho anh Trần Quang Khiêm được phong linh mục nhưng
do anh được giữ lại Đại chủng viện mà không được cử về làm linh mục xứ ở
Đồng Chương nên nhu cầu của quần chúng giáo dân vẫn chưa được đáp ứng.
Khi có sự việc khiếu nại phức tạp, đơng người tham gia, chính quyền tỉnh đã tiến
hành công tác vận động quần chúng. lực lượng tiến hành được chuẩn bị khá chu
đáo bao gồm: Chủ tịch UBND, chủ tịch HĐND, chủ tịch MTTQ …
Về công tác vận động quần chúng: Lực lượng tiến hành đã sử dụng hình
thức vận động rộng rãi đối với quần chúng giáo dân bằng phương pháp trực tiếp
gặp gỡ tiếp xúc để giải quyết cho quần chúng giáo dân hiểu. Nội dung giải thích
xoay quanh việc nói về lý do khơng cho anh Chi đi học Đại chủng viện Hà Nội do
anh không thi hành nghĩa vụ quân sự, khai man lý lịch, lực lượng vận động quần
chúng đã 4 lần gặp gỡ, tiếp xúc, giải thích cho quần chúng giáo dân hiểu song
quần chúng vẫn khơng đồng tình với cách giải quyết của chính quyền, tiếp tục
khiếu nại lên Trung ương, làm cho tình hình ngày càng trở nên phức tạp.
* Nhận xét về cách thức vận động quần chúng để giải quyết vụ việc của
chính quyền.
Mặt đạt được:
19
Khi sự việc xảy ra, chính quyền địa phương đã tiến hành công tác vận động
quần chúng một cách kiên trì (4 lần trực tiếp gặp gỡ, tiếp xúc, giải thích cho quần
chúng giáo dân). Trong vận động đã sử dụng và người có vị trí, vai trị quan
trọng, có uy tín lớn để tiến hành như: Chủ tịch UBND, chủ tịch HĐND, chủ tịch
MTTQ tỉnh … Biết phối hợp lực lượng để tiến hành vận động quần chúng dưới
sự chỉ đạo thống nhất, tập trung của các cấp ủy Đảng. Biết kết hợp giữa biện
phap vận động quần chúng với phát huy tác dụng của biện pháp mệnh lệnh
hành chính để giải quyết vụ việc: như việc UBND huyện ra công lệnh yêu cầu
giải tán việc tụ tập đông người tại UBND xã Vĩnh Lợi của UBND huyện.
Mặt tồn tại: sử dụng hình thức vận động quần chúng chưa phù hợp. Ở đây
mới chỉ tiến hành vận đông rộng rãi mà không chú ý thực hiện vận động cá biệt
vì có quần chúng tin đó là đảng viên (11 người). Đây là những người giác ngộ có
nhận thức chính trị tốt lại ở trong nội bộ quần chúng giáo dân tiêu biểu có tâm tư
nguyện vọng của quần chúng. Nếu ra vận động, tranh thủ họ thì sẽ phát huy vai
trị tích cực của họ trong cơng tác vận động quần chúng rộng rãi.
Nội dung vận động: Mặc dù đã kiên trì làm cơng tác vận động quần chúng
song nội dung vận động chưa đủ sức thuyết phục, chưa đầy đủ mà chỉ đưa ra
hai lý do anh Chi không thi hành nghĩa vụ quân sự và khai man lý lịch. Trong khi
dó nhu cầu có linh mục của quần chúng giáo dân, nhiều vấn đề khơng được
chính quyền giải quyết như xin thành lập họ giáo mới, xin xây sửa nhà phòng ,
xin linh mục về làm lễ … Trong q trình vận động ta khơng chú ý đến ác tình
hình này (ngun nhân là do cơng tác nắm tình hình của ta cịn kém). Do đó ta
chưa làm cho quần chúng thấy được sự lợi dụng của các phần tử quá kích cực
đoan để làm rối ren, phức tạp thêm tình hình. Ta lại giải quyết chưa dứt khốt,
khơng xây dựng được lực lượng nịng cốt để duy trì và củng cố phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh tổ quốc nên khi sự việc xảy ra khơng có lực lượng nịng
cốt trong quần chúng làm cơng tác vận động quần chúng hậu thuẫn cho ta.
Việc vận động quần chúng cần phải giải thích rõ cho quần chúng giáo dân
là chính quyền đã tạo mọi điều kiện cho giáo xứ có linh mục đáp ứng nhu cầu
tơn giáo cho giáo dân, bằng chứng là đã chấp thuận cho anh Trần Quang Khiêm
(người của giáo xứ) được phong linh mục. Việc anh Khiêm không được về làm
20