Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.66 KB, 104 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

N U ỄN SON

N ỌC

THAM VẤN CHO CHA MẸ TRONG GIÁO DỤC TRẺ EM
TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN,
TỈNH HÀ GIANG
Ngành: Công tác xã hội
Mã số: 876 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔN

TÁC XÃ HỘI

N ƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS NGUYỄN HỮU MINH

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc
ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Song Ngọc



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHỮN
TRON

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM VẤN CHO CHA MẸ

IÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI...................... 11

1.1. CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH .......................................................................... 11
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC GIA ĐÌNH.. 19
1.3. LÝ THUYẾT CƠNG TÁC XÃ HỘI ỨNG DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU ............. 22
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VỀ THAM VẤN CHO CHA MẸ TRON
IÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI TẠI HU ỆN VỊ
XUYÊN, TỈNH HÀ IAN .......................................................................... 26
2.1 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU ................ 26
2.2 THỰC TRẠNG VỀ GIÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI TẠI HUYỆN VỊ
XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG ............................................................................... 27
2.3 THỰC TRẠNG VỀ THAM VẤN CHO CHA MẸ TRONG GIÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11
ĐẾN 14 TUỔI TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG.................................... 51

Chƣơng 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG THAM VẤN CHO CHA MẸ TRONG GIÁO DỤC TRẺ EM TỪ
11 ĐẾN 14 TUỔI TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG ............. 67
3.1. VỀ CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH ............................................................... 67
3.2. VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG LĨNH VỰC GIA
ĐÌNH ............................................................................................................. 68

3.3 VỀ TRUYỀN THƠNG NÂNG CAO NHẬN THỨC ............................................ 69

3.4 VỀ TĂNG CƢỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA GIA ĐÌNH, NHÀ TRƢỜNG VÀ XÃ HỘI 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 81


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Phân chia trách nhiệm chính giữa vợ và chồng trong chăm sóc, giáo dục
con .............................................................................................................................28
Bảng 2.2: Tỷ lệ cha mẹ dạy con biết quý trọng sức lao động và cách sử dụng đồng
tiền .............................................................................................................................40
Bảng 2.3: Tỷ lệ cha mẹ dạy con nhận biết thủ đoạn lừa đảo, bn bán và bắt cóc ..44
Bảng 2.4: Tỷ lệ cha mẹ giáo dục, răn đe con tránh xa các tệ nạn xã hội, trò chơi
game, quán internet ...................................................................................................45
Bảng 2.5: Nguồn cung cấp thông tin, kiến thức về giáo dục gia đình ......................61


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Vai trò của cha, mẹ trong định hƣớng nghề nghiệp, chọn trƣờng cho
con phân theo trình độ học vấn (%) .........................................................................32
Biểu đồ 2.2: Hoạt động phổ biến kiến thức nuôi dạy, giáo dục con của Hội phụ nữ
(%) .............................................................................................................................56
Biểu đồ 2.3: Hoạt động phổ biến kiến thức tổ chức cuộc sống gia đình của Hội phụ
nữ (%) ........................................................................................................................57
Biểu đồ 2.4: Hoạt động cung cấp tài liệu truyền thông của Hội phụ nữ (%) ............58
Biểu đồ 2.5: Hoạt động hỗ trợ phụ nữ vay vốn của Hội phụ nữ (%) .......................60
Biểu đồ 2.6: Hoạt động “Hỏi chuyên gia tƣ vấn, tham vấn” phân theo trình độ học
vấn cha mẹ (%) ..........................................................................................................62



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là chiếc nơi để hình thành, giáo dục, ni dƣỡng nhân cách
của mỗi con ngƣời. Gia đình trong xã hội hiện đại ngày nay càng có vai trị
quan trọng, từ định hƣớng, nuôi dƣỡng nhân cách cũng nhƣ giáo dục con
ngƣời từ khi sinh ra đến lúc trƣởng thành, trở thành những cơng dân có ích
đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của xã hội.
Trong bối cảnh xã hội phát triển và hội nhập, gia đình Việt Nam đang
có những biến đổi mạnh mẽ về cấu trúc, hình thái, quy mơ và các mối quan hệ
trong gia đình, trong đó có mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Trẻ em ở lứa
tuổi vị thành niên (từ 10 – 19 tuổi) là giai đoạn phát triển đặc biệt, là thời kỳ
chuyển tiếp và trƣởng thành của “trẻ em” để trở thành “ngƣời lớn”. Giai đoạn
này diễn ra hàng loạt những thay đổi về cơ thể, thay đổi về tâm lý và cả về
các mối quan hệ xã hội. Cụ thể hơn, trẻ em từ 11 đến 14 tuổi là độ tuổi có
nhiều sự xáo trộn trong tâm sinh lý và các mối quan hệ xung quanh. Vì vậy,
trẻ ở độ tuổi này rất cần sự quan tâm, giáo dục, định hƣớng của cha mẹ và các
thành viên trong gia đình.
Cho đến nay, việc tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ vẫn chƣa
đƣợc quan tâm đúng mức. Nhiều cha mẹ hiện đại rơi vào tình cảnh “hoang
mang khi dạy con” - không biết dạy nhƣ thế nào cho phù hợp. Những giá trị,
chuẩn mực truyền thống đã và đang bị tác động, thay đổi, xen lẫn với những
chuẩn mực, hành vi của xã hội mới. Cha mẹ gặp phải những khó khăn, rào
cản trong q trình giao tiếp với trẻ, giáo dục, định hƣớng cho trẻ. Cha mẹ
không biết phải bắt đầu từ đâu, làm nhƣ thế nào và khơng tìm kiếm đến sự hỗ
trợ của những nhà chun mơn để giải quyết vấn đề của mình. Cha mẹ thƣờng
tìm hiểu thơng tin qua mạng, hoặc thơng qua những cha mẹ khác có cùng vấn
đề và tự tạo ra cách thức can thiệp với con mình nhƣng chƣa đem lại những
kết quả khả quan và phù hợp.
1



Tham vấn là hoạt động trợ giúp có ý nghĩa lớn lao với mỗi cá nhân, gia
đình. Việc tham vấn cho cha mẹ theo hƣớng cung cấp kiến thức, phƣơng pháp
và kỹ năng cho cha mẹ trong giáo dục trẻ từ 11 đến 14 tuổi là rất cần thiết để
giúp cha mẹ thay đổi hành vi của mình trong ứng xử, giao tiếp với con và hỗ
trợ cha mẹ trong việc giáo dục trẻ.
Vị Xuyên là một huyện miền núi biên giới phía Bắc Việt Nam, nằm bao
quanh thành phố Hà Giang. Đời sống kinh tế - xã hội của ngƣời dân cịn gặp
nhiều khó khăn, trình độ học vấn thấp, nhận thức của dân cƣ về vấn đề giáo
dục, chăm sóc trẻ em cịn nhiều hạn chế. Nhiều cha mẹ bận rộn làm kinh tế
chƣa thực sự quan tâm, dành thời gian giáo dục con cái, đặc biệt là khi trẻ
bƣớc vào độ tuổi từ 11 – 14 tuổi. Đồng thời, cho đến nay cịn ít các nghiên
cứu về chủ đề này đối với các bậc cha mẹ thuộc dân tộc thiểu số từ góc độ
cơng tác xã hội..
Với lý do đó, tơi chọn đề tài “Tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ
em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1 Một số nghiên cứu về tham vấn
Ngay từ buổi sơ khai, khi cá nhân hay gia đình có vấn đề và khơng tự
giải quyết đƣợc, họ thƣờng tìm tới những ngƣời đƣợc xem là có uy tín, có
kinh nghiệm. Khi này sự trợ giúp thƣờng là lời khuyên hay giải pháp cho vấn
đề của họ. “Nhà tham vấn” ở đây có thể là ngƣời lớn tuổi hơn, ngƣời có kinh
nghiệm, ngƣời đứng đầu nơi họ sinh sống… Cùng với sự phát triển của khoa
học, sự trợ giúp có tính chuyên nghiệp dần đƣợc hình thành. Thuật ngữ
Counseling (tham vấn) đƣợc sử dụng lần đầu tiên bởi Jesse B.Davis, khi ông
thiết lập trung tâm tham vấn hƣớng nghiệp giáo dục tại Detroit (Hoa Kỳ) năm
1898[15, tr.46].
Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, qua quá trình trợ giúp những gia
đình nghèo khổ, ngƣời ta nhận thấy sự giúp đỡ đơn thuần bằng vật chất đã
không đem lại kết quả nhƣ mong muốn. Việc sử dụng các cuộc thăm hỏi thân

thiện, tiếp cận trực tiếp và trao đổi trò chuyện nhằm tìm hiểu nhu cầu, hồn
2


cảnh của họ đã tỏ ra khá hiệu quả. Kết quả từ phƣơng pháp này đã góp phần
làm thay đổi hình thức giúp đỡ[15, tr.47].
Một nhu cầu xã hội khác đã tham gia vào thúc đẩy sự phát triển cả về lý
luận cũng nhƣ thực tiễn của tham vấn đó là tƣ vấn hƣớng nghiệp. Tƣ vấn
hƣớng nghiệp là một trong những lĩnh vực có lịch sử phát triển sớm nhất so
với các lĩnh vực tham vấn chuyên sâu khác. Frank Parsons (1854 – 1908) là
ngƣời đánh dấu cho sự ra đời của chuyên ngành hƣớng dẫn tƣ vấn nghề
nghiệp ở Mỹ. Bắt đầu từ một nhà công tác xã hội, F. Parsons thành lập văn
phòng làm việc tại Boston – Mỹ với mục đích hỗ trợ cá nhân lựa chọn đƣợc
một nghề, chuẩn bị cho họ một nền tảng để khởi xƣớng sự nghiệp có hiệu
quả. Những ƣớc vọng của F. Parsons không chỉ dừng lại của định hƣớng nghề
nghiệp mà còn phát triển thành một lý thuyết. Các nguyên tắc của Parsons
đƣa ra trong hƣớng nghiệp dƣờng nhƣ trở thành nguyên lý cơ bản cho tham
vấn ngày nay. Chính điều này đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển rầm
rộ của ngành hƣớng dẫn tƣ vấn nghề [15, tr.48].
Những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỉ XX, Tham vấn phát triển
mạnh mẽ. Bên cạnh ba hƣớng tiếp cận chính là tiếp cận phân tâm học (Freud),
tiếp cận trực tiếp (Williamson) và tiếp cận thân chủ trọng tâm (Rogers), thời
kỳ này có thêm sự ra đời của vô số các cách tiếp cận mới nhƣ của Albert Ellis
(1957) về phép trị liệu hành vi cảm xúc (Rational Emotive Therapy) giới thiệu
cách thức trợ giúp đối tƣợng xóa bỏ những niềm tin phi lý, hành vi tiêu cực;
Frederick Perls với phép trị liệu Gestalt (Gestalt Therapy – 1969) tập trung
vào kinh nghiệm hiện tại và việc nâng cao nhận thức của đối tƣợng. Các
hƣớng tiếp cận tham vấn này đã giúp ích cho sự phát triển rực rỡ của ngành
tham vấn trong giai đoạn đó.
Vào nửa giữa thế kỷ XX, ảnh hƣởng của sự phát triển của các khoa học

xã hội khác nhau nhƣ xã hội học đã khiến cho ngƣời ta xem xét con ngƣời
trong bối cảnh xã hội và với sự ảnh hƣởng của nó. Do vậy những hƣớng
nghiên cứu trong tham vấn cũng đƣợc thay đổi. Khi này các nghiên cứu trong
tham vấn đã quan tâm nhiều hơn tới việc trợ giúp cá nhân trong bối cảnh của
3


nhóm xã hội. Cũng từ đây các lý thuyết tiếp cận trong tham vấn gia đình và
tham vấn nhóm ra đời. Các mơ hình can thiệp cấu trúc gia đình, mơ hình học
tập xã hội, mơ hình can thiệp tập trung vào giải pháp, mơ hình can thiệp hệ
thống gia đình hay cách tiếp cận năng động tâm lý và giao tiếp trong gia đình
lần lƣợt đƣợc ra đời (C. Kilpatrick & Thomas P. Holland, 1993; Ackerman và
Satir, M. Bowen, 1959) [15, tr.51].
Tóm lại, hoạt động tham vấn mang tính chuyên nghiệp trên thế giới đã
phát triển và đƣợc ứng dụng phổ biển nhằm đáp ứng nhu cầu về bảo vệ sức
khỏe tâm thần và nâng cao chất lƣợng cuộc sống của các cá nhân, gia đình và
cộng đồng xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay, tham vấn tâm lý đang là một ngành khoa học
tƣơng đối mới và chƣa có nhiều nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao. Hoạt
động tham vấn tâm lý thƣờng đƣợc tích hợp vào trong các vai trò của các bác
sĩ, nhất là những bác sĩ tâm thần và bác sĩ nhi khoa. Nhìn từ lịch sử ngành
Công tác xã hội, trƣớc năm 1945 tại một số bệnh viện ở phía Bắc nhƣ Bệnh
viện Bạch Mai đã có mặt của một số cán sự xã hội và họ sử dụng kỹ năng
công tác xã hội trong đó có tham vấn vào q trình trợ giúp bệnh nhân chữa
trị tại bệnh viện. Ở phía Nam, trƣớc những năm 1975, cùng với hoạt động
công tác xã hội theo hƣớng chuyên nghiệp thì hoạt động tham vấn cho cá
nhân, gia đình tại cộng đồng cũng đã đƣợc triển khai. Nội dung đào tạo tham
vấn cũng đƣợc đề cập tới trong chƣơng trình đào tạo cán sự xã hội phía Nam
vào thời gian này. Các hoạt động cơng tác xã hội theo hƣớng chuyên nghiệp
trong đó có tham vấn dƣờng nhƣ chững lại sau năm 1975. Đến cuối những

năm 80 và đầu 90 của thế kỷ XX, công tác xã hội chuyên nghiệp đƣợc phát
triển trở lại [15, tr.53].
Các hình thức tƣ vấn/tham vấn tâm lý trên đài, điện thoại và báo chí
cũng đƣợc áp dụng ở nƣớc ta trong nhiều năm qua. Các chuyên mục nhƣ chị
Thanh Tâm, chị Hạnh Dung trong các báo Phụ nữ; Cửa sổ tình u trên Đài
Tiếng nói Việt Nam; tƣ vấn qua điện thoại nhƣ Đƣờng dây nóng 1088, đƣờng
dây nóng bảo vệ trẻ em 111 … cũng đã đem lại những thông tin, câu trả lời
4


chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất định. Đặc biệt với nhu cầu bức xúc về tƣ vấn
tâm lý, kiến thức, kỹ năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, có khá
nhiều trung tâm đã đƣợc thành lập và đi vào hoạt động nhƣ Trung tâm Tƣ vấn
tâm lý, Trung tâm Giáo dục tình u hơn nhân – gia đình, Trung tâm Tƣ vấn
Phụ nữ - Trẻ em và Gia đình của Hội phụ nữ quản lý ở các địa phƣơng,
tỉnh/thành trong cả nƣớc.
Có thể nói, các hình thức dịch vụ xã hội trên đã nhanh chóng đáp ứng
phần nào nhu cầu cần thiết về tham vấn tâm lý, tham vấn kiến thức và kỹ
năng, góp phần giải quyết các vấn đề tâm lý, mối quan hệ xã hội của cá nhân,
gia đình cũng nhƣ nhiều đối tƣợng khác trong xã hội.
Nói tóm lại, nhu cầu tham vấn ngày một tăng và nhận đƣợc nhiều sự
quan tâm ủng hộ. Tuy nhiên, cũng cần phát triển hoạt động này theo hƣớng
bài bản, chun mơn, chun nghiệp, góp phần đáp ứng nhu cầu của một bộ
phận trong xã hội nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho cá nhân, gia đình
và cộng đồng.
2.2 Một số nghiên cứu về vai trò của cha mẹ trong giáo dục con
Trên thế giới đã có nhiều cơng trình, bài viết, nghiên cứu về vai trị của
cha mẹ trong giáo dục con:
Trong các cơng trình "Giáo dục trong gia đình Mác" của Petrecnhicova
(1977); "Giáo dục các con trong gia đình" của Ambacdian (1977); "Nói

chuyện về giáo dục gia đình" của A.Macarenco (1978)… khẳng định việc
giáo dục con cái trong gia đình phải đƣợc bắt đầu ngay từ thời thơ ấu. Nếu
cơng tác giáo dục gia đình khơng đƣợc thực hiện sớm, việc “cải tạo” sẽ tốn hơn
rất nhiều cơng sức khơng chỉ của gia đình, mà cả xã hội phải quan tâm.
Trong "Dạy con yêu lao động" (1980) của I.A-Pesecnicova đã khẳng
định: Muốn cho con cái của chúng ta lớn lên đƣợc mạnh khỏe, vui tƣơi, yêu
đời và cống hiến đƣợc nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải đƣợc giáo dục về
lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội...) bởi phẩm
chất đạo đức hình thành ở trẻ em, trƣớc hết là trong quá trình lao động.
Với xã hội phƣơng Tây các nghiên cứu về gia đình với các quan điểm
5


nhƣ "Thuyết đạo đức tương đối", "Hôn nhân không con", "Cha mẹ cơng
nghiệp", "Gia đình thống qua"... lƣu hành khá phổ biến, trong đó tiêu biểu
có quan điểm của Alvin Toffler trong cuốn "Làn sóng thứ ba", đã khái quát:
Đại gia đình gia trƣởng là hình thức gia đình của nền văn minh nơng nghiệp,
gia đình một vợ một chồng với một đến hai con là hình thức của gia đình văn
minh cơng nghiệp, cịn nền văn minh hậu cơng nghiệp sẽ có nhiều hình thức
gia đình... Alvin Toffler và những ngƣời theo lí thuyết ấy cho rằng, mọi giá trị
đã có là chủ quan, cá nhân có quyền lựa chọn bình đẳng, trong nền văn minh
thứ ba sẽ khơng có một hình thức gia đình nào giữ yếu tố chủ đạo, mà sẽ bao
gồm nhiều hình thức: gia đình đa phụ mẫu, gia đình đồn thể, gia đình có 2
đàn ơng hoặc 2 phụ nữ (gia đình đồng tính) [1].
Với một số nghiên cứu nêu trên, cho thấy tầm quan trọng của cơng tác
giáo dục gia đình trong q trình hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Các
nghiên cứu đề cập một cách chung chung, mà không phân chia theo từng giai
đoạn của trẻ em để nghiên cứu, phân tích; đƣa ra những khó khăn của cha mẹ
gặp phải trong quá trình giáo dục trẻ ở những độ tuổi khác nhau; để từ đó đề xuất
các giải pháp hỗ trợ, tham vấn cho cha mẹ nhằm tháo gỡ những khó khăn này.

Tại Việt Nam, một số cơng trình tiêu biểu đƣợc phân chia thành 2 nhóm:
Nhóm thứ nhất, về vai trị của các thành viên trong gia đình với giáo
dục con cái với các cơng trình nhƣ “Vai trị của gia đình trong việc giáo dục
thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” (2000) của tác giả Nghiêm Sĩ Liêm; “Gia đình
Việt Nam và phụ nữ trong gia đình thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” của tác giả Đỗ Thị Bình… chủ yếu tập trung nghiên cứu về vai trò của
từng thành viên, ƣu điểm nổi trội của họ đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, chứ
chƣa đi sâu nghiên cứu vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách thế hệ trẻ.
Nhóm thứ hai, về gia đình và vai trị của gia đình với các cơng trình nhƣ:
- “Khoa học giáo dục con em trong gia đình” của Ủy ban Thiếu niên
nhi đồng Trung ƣơng (1979) giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội
chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò, đặc điểm của giáo dục gia đình, cung cấp
6


những cơ sở lí luận, những nội dung và yêu cầu của giáo dục gia đình đối với
thế hệ trẻ.
- “Dạy con nên người” của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1991)
cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết cần thiết về gia đình, về trách
nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái nên ngƣời, trên những mặt
cơ bản của nội dung giáo dục: Đức, trí, thể, mỹ và lao động, mà các thế hệ
làm cha mẹ ln ln hƣớng tới.
- Cơng trình “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình” của Trung tâm
nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ (1994) nghiên cứu về gia đình
Việt Nam và việc thực hiện các chức năng của gia đình, một số vấn đề chủ
yếu trong nghiên cứu gia đình Việt Nam. Những vấn đề lý luận, phƣơng pháp
luận của việc thực hiện các chức năng của gia đình Việt Nam hiện nay, những
vấn đề kiến nghị về chính sách đối với vai trị của giáo dục gia đình trong sự
hình thành và phát triển nhân cách con ngƣời Việt Nam…

- “Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt
Nam”, (1996) do giáo sƣ Lê Thi làm chủ biên đề cập đến vai trị của gia đình
trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong những năm cuối
thế kỷ XX đang đem đến những tiến bộ vƣợt bậc cho cuộc sống của cá nhân, gia
đình, xã hội cả về vật chất và tinh thần. Bên cạnh những tiến bộ vƣợt bậc do con
ngƣời tạo ra, thì hàng loạt những sai lầm, thiếu hụt, những hành động dã man,
điên cuồng, những tệ nạn xấu xa, nguy hiểm đang tồn tại trên khắp thế giới...
cũng lại do con ngƣời gây ra. Hậu quả đó đang làm cho hàng triệu gia đình tan
tác, chia ly, cùng khổ. Tác giả khẳng định, sự phát triển ổn định của xã hội
không thể tách rời sự phát triển của con ngƣời và vai trị của gia đình trong việc
bồi dƣỡng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng nhân cách con ngƣời…
Tuy nhiên, hiện tại chƣa có nhiều nghiên cứu tập trung đi sâu vào phân
tích thực trạng, những khó khăn của cha mẹ việc giáo dục con tuổi 11 - 14 giai đoạn trẻ cần sự quan tâm và định hƣớng từ gia đình và cha mẹ cần đƣợc
cung cấp kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm trong quá trình giáo dục trẻ, để cha
mẹ có thể làm bạn, đồng hành cùng trẻ ở giai đoạn này nói chung và đối với
7


các gia đình ở miền núi nói riêng. Từ đó, việc nghiên cứu về vấn đề tham vấn
cho cha mẹ trong giáo dục con tại một huyện miền núi nhƣ Vị Xuyên (thuộc
tỉnh Hà Giang) là rất cần thiết và đóng vai trị quan trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng và hiệu quả các hoạt động có liên quan đến tham
vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị
Xuyên, tỉnh Hà Giang; Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của tham
vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị
Xuyên, tỉnh Hà Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề tham vấn cho cha mẹ

trong giáo dục trẻ em (tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi
đến 14 tuổi, nội dung tham vấn, kỹ năng tham vấn); các văn bản quy định của
Nhà nƣớc Việt Nam về cơng tác giáo dục gia đình.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng về giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14
tuổi và hoạt động tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14
tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
- Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả các hoạt động tham vấn cho cha mẹ trong
giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi của chính quyền địa phƣơng, các đồn thể
trong đó có Hội phụ nữ tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong cơng tác giáo dục
gia đình nói chung và tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi
đến 14 tuổi nói riêng tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang và nhân viên công
tác xã hội làm việc với cha mẹ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại
huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
8


4.2 Khách thể nghiên cứu
- Cha mẹ có con từ 11 đến 14 tuổi
- Trẻ em từ 11 đến 14 tuổi
- Cán bộ địa phƣơng (đại diện chính quyền/đồn thể)
4.3 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: từ tháng 3 đến hết tháng 7/2018
- Phạm vi không gian: xã Đạo Đức và thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị
Xuyên, tỉnh Hà Giang
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu, văn bản tài liệu

Phân tích, tổng hợp, hệ thống các tài liệu sẵn có từ nguồn tài liệu chính
thức, từ các cơng trình nghiên cứu của các tác giả trƣớc đây, từ báo cáo của
địa phƣơng, Hội phụ nữ…
Tham khảo, sử dụng số liệu từ báo cáo kết quả nghiên cứu đánh giá
nhận thức và thực trạng giáo dục gia đình của Ban Gia đình – Xã hội thuộc
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tháng 11 năm 2017.
5.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi
Khảo sát 134 bảng hỏi với cha mẹ tại 2 xã Đạo Đức và thị trấn Vị
Xuyên, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Cuộc khảo sát này do ban Gia đình –
Xã hội thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành tháng 11 năm 2017 tại
4 tỉnh Hà Giang, Quảng Bình, Đắc Lắc, Tiền Giang. Trong khn khổ luận
văn, tác giả chỉ sử dụng số liệu nghiên cứu tại Hà Giang. Tác giả luận văn là
một thành viên tham gia và đƣợc phép sử dụng số liệu thu đƣợc từ khảo sát để
phân tích. Những phân tích trong luận văn là kết quả riêng của tác giả luận
văn. Đặc điểm của mẫu khảo sát đƣợc trình bày ở chƣơng 2.
5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
08 phỏng vấn sâu (04 cha và mẹ có con từ 11 tuổi đến 14 tuổi; 02 trẻ
em từ 11 tuổi đến 14 tuổi; 02 cán bộ địa phƣơng).

9


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Hệ thống lại một số nghiên cứu về tham vấn, tham vấn cho cha mẹ
trong giáo dục con tuổi vị thành niên, lý thuyết tiếp cận trong công tác xã hội
có liên quan đến tham vấn cha mẹ trong giáo dục trẻ từ 11 đến 14 tuổi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất hoạt động tham vấn cho
cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi trên nền tảng của cơng tác

xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài luận
văn có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục
trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi.
Chƣơng 2: Thực trạng về tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ
11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
Chƣơng 3: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tham vấn cho
cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang.

10


Chƣơng 1
NHỮN VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM VẤN CHO CHA MẸ TRON
IÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI
1.1. Các khái niệm chính
1.1.1. Khái niệm về gia đình
Theo Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 (sửa đổi năm 2014), gia đình
đƣợc định nghĩa là “tập hợp những ngƣời gắn bó với nhau do hơn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dƣỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” (Điều 3 Giải thích từ ngữ). Nhƣ
vậy, khái niệm gia đình trong Luật pháp của Việt Nam quy định gia đình bao
gồm ba hình thức: quan hệ do hơn nhân, ví dụ nhƣ vợ chồng, quan hệ huyết
thống giữa ông bà, cha mẹ và con cái cùng huyết thống và cả quan hệ ni
dƣỡng, ví dụ nhƣ con nuôi hay bố mẹ nuôi.
Tác giả Mai Huy Bích đƣa ra một khái niệm tổng quát về gia đình nhƣ
sau: “Gia đình là khái niệm đƣợc sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành

trên cơ sở các quan hệ hơn nhân (quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và quan
hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hơn nhân đó (cha, mẹ, con cái, ơng, bà, họ
hàng nội ngoại)”. Gia đình có thể hiểu nhƣ một đơn vị xã hội vi mơ, nó chịu sự
chi phối của xã hội, song có tính ổn định, độc lập tƣơng đối. Nó có quy luật phát
triển riêng với tƣ cách một thiết chế xã hội đặc thù. Những thành viên gia đình
đƣợc gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi kinh tế, văn hóa, tình cảm
một cách hợp pháp, đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ.
Nhƣ vậy, khái niệm về gia đình đƣợc diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau.
Những khái niệm này đều chứa đựng những điểm tƣơng đồng về quan hệ hơn
nhân, huyết thống. Tuy nhiên, gia đình cần đƣợc hiểu mang tính bao qt khơng
chỉ ở quan hệ hơn nhân, huyết thống mà cả quan hệ nuôi dƣỡng.

11


1.1.2. Khái niệm Trẻ em; Phân chia giai đoạn phát triển của trẻ; Đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ giai đoạn từ 11 đến 14 tuổi
1.1.2.1 Khái niệm Trẻ em
Công ƣớc Quốc tế về quyền Trẻ em xác định trẻ em có nghĩa là bất kỳ
ngƣời nào dƣới 18 tuổi, trừ trƣờng hợp pháp luật có thể đƣợc áp dụng với trẻ em
đó quy định tuổi thành niên sớm hơn.
Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam (2004): trẻ
em là công dân Việt Nam dƣới 16 tuổi; ngƣời chƣa thành niên là ngƣời dƣới 18
tuổi.
Theo Điều 1, Luật Trẻ em năm 2016 quy định: Trẻ em là ngƣời dƣới 16
tuổi. Khái niệm nêu trong Luật Trẻ em 2016 đƣợc áp dụng trong luận văn này.
1.1.2.2 Phân chia giai đoạn phát triển của trẻ
Erik Erikson – nhà tâm lý học phân tâm, đánh giá cao vai trò của tác nhân
xã hội với sự phát triển tâm lý của con ngƣời. Ông chia đời ngƣời thành 8 giai
đoạn. Trẻ em có 4 giai đoạn: Giai đoạn 1 (từ 0 – 1 tuổi), Giai đoạn 2 (từ hơn 1 – 3

tuổi), Giai đoạn 3 (từ 3 – 6 tuổi), Giai đoạn 4 (từ 6 – 12 tuổi), Giai đoạn 5: Vị
thành niên (từ 13-18 tuổi)…
Theo Tổ chức Y tế thế giới, lứa tuổi vị thành niên nằm trong khoảng từ 10 đến
19 tuổi, đƣợc chia thành ba thời kỳ phát triển: Vị thành niên sớm (từ 10 đến 13 tuổi);
Vị thành niên giữa (từ 14 đến 16 tuổi); Vị thành niên muộn (từ 17 đến 19 tuổi).
Ngoài ra, ngƣời ta còn phân loại hai lớp ngƣời dựa theo tuổi là: Ngƣời trẻ
tuổi (từ 10 đến 14 tuổi); Thanh niên (từ 15 đến 24 tuổi).
Tuy nhiên sự lớn lên và trƣởng thành ở mỗi cá thể có thể diễn ra với mức
độ khác nhau: Có em tuy ở tuổi 15 (lứa tuổi vị thành niên giữa) nhƣng cơ thể đã
phát triển và có những hành vi ứng xử nhƣ những em ở lứa tuổi vị thành niên
muộn (17 – 19 tuổi); ngƣợc lại, có những em tuy ở tuổi đó nhƣng vẫn chỉ có hành
vi ứng xử nhƣ các em ở tuổi vị thành niên sớm. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố
sinh học (di truyền), tâm lý, các hồn cảnh xã hội và văn hóa của từng dân tộc,
từng vùng miền… Do đó, sự phân chia giai đoạn phát triển của trẻ chỉ có tính chất
tƣơng đối.
12


Tóm lại, trong khn khổ của đề tài, tác giả sử dụng sự phân chia giai đoạn
phát triển của trẻ theo quan điểm của Tổ chức Y tế Thế giới. Trẻ em từ 11 tuổi đến
14 tuổi đƣợc hiểu trong giai đoạn vị thành niên sớm và đầu của giai đoạn vị thành
niên giữa. Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con sang ngƣời lớn. Biểu hiện nổi
bật ở lứa tuổi này là những thay đổi về tâm sinh lý, nhận thức và cảm xúc.
1.1.2.3 Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ giai đoạn từ 11 tuổi đến 14 tuổi
Về mặt sinh lý, trẻ ở giai đoạn này có nhiều sự biến đổi nhƣ sự tăng về
chiều cao, sự phát triển của các cơ quan sinh sản… khiến ngoại hình các em có
những thay đổi. Các hc mơn tạo nên chiều cao và những biến đổi cơ thể một
phần đã đƣợc hình thành ngay từ giai đoạn phơi thai. Nhƣng chúng đƣợc sản
sinh mạnh mẽ vào khoảng 10 – 11 tuổi đối với nữ và 12 – 13 tuổi đối với nam
tạo sự phát triển bùng phát về chiều cao và thể lực, kèm theo sự thay đổi về tỉ lệ

của cơ thể. Tuyến nội tiết dƣới da hoạt động mạnh mẽ dẫn đến việc xuất hiện
mụn trứng cá trên mặt, tuyến mồ hơi cũng làm việc tích cực và tạo ra thứ mùi
đặc trƣng của cơ thể.
Về mặt tâm lý, tình cảm các em bắt đầu có tƣ duy trừu tƣợng, ý thức đƣợc
mình khơng cịn là “trẻ con” nữa, muốn đƣợc ngƣời lớn tôn trọng và bắt đầu có
những hành động muốn thử sức mình để khám phá những điều mới lạ nhằm khẳng
định mình đã lớn. Các em thƣờng quan tâm đến những thay đổi của cơ thể khi so
sánh với các bạn cùng lứa (đặc biệt là các em gái), dễ băn khoăn, lo lắng, buồn rầu
về những nhƣợc điểm trên cơ thể mình. Ở lứa tuổi này, các em bắt đầu phát triển tƣ
duy trừu tƣợng một cách rõ rệt. Thích khám phá, tị mị, thử nghiệm những hành vi
liên quan đến tính dục (tính cách thể hiện sự khác biệt giữa nam và nữ).
Các em cũng bắt đầu quan tâm đến bè bạn, đặc biệt là bạn khác giới,
muốn tách khỏi sự bảo hộ của bố mẹ, gia đình. Trẻ cũng khơng cịn tâm sự với
cha mẹ nhiều nhƣ khi còn nhỏ. Tuy nhiên, các em còn quá trẻ, vẫn phải phụ
thuộc vào ngƣời lớn.
Đơi lúc, trẻ thất vọng, ấm ức vì cha mẹ chƣa nhận thấy mình đã lớn. Điều
này khiến trẻ dễ bị những rối loạn liên quan đến cảm xúc và hành vi với những
biểu hiện thích chống đối nhƣ: khơng thích vâng lời cha mẹ, hay lý sự, làm theo
13


ý mình, trốn học, bỏ nhà, hung bạo, muốn khẳng định tính độc lập… Đây là thời
kỳ cha mẹ phải luôn quan tâm, gần gũi với con. Nếu cha mẹ ít gần gũi, thiếu
giáo dục với con trẻ thì ngay những trẻ rất ngoan cũng dễ trở nên hƣ hỏng hoặc
gặp bất trắc. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự thay đổi này của trẻ cũng nhận
đƣợc sự thấu hiểu và nắm bắt kịp thời từ phía gia đình, cha mẹ và ngƣời lớn.
Điều này làm cho các bậc cha mẹ gặp khơng ít khó khăn trong việc tiếp cận để
tìm hiểu, giáo dục con trẻ.
Trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi là giai đoạn trẻ phát triển mạnh về cơ thể,
thay đổi tâm lý của bản thân nhƣ tâm lý thích phơ trƣơng, muốn khẳng định bản

thân, dễ bị lôi kéo, dụ dỗ… dẫn đến những hành vi sai lệch trong các mối quan
hệ xã hội. Vì vậy, trẻ ở giai đoạn này rất cần sự chỉ bảo, hỗ trợ, động viên, tình
yêu thƣơng của cha mẹ và những ngƣời thân thiết. Cha mẹ cần có cách ứng xử
phù hợp để giúp trẻ phát triển và vƣợt qua những khó khăn của giai đoạn này.
1.1.3. Giáo dục gia đình và giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi
1.1.3.1 Giáo dục gia đình
Về mặt giải thích thuật ngữ, đƣợc hiểu chung là toàn bộ những tác động
của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con ngƣời, trƣớc hết
của lớp trẻ. Trẻ không thể có sự hình thành và phát triển nhân cách một cách đầy
đủ và bền vững nếu khơng có một mơi trƣờng giáo dục gia đình thuận lợi.
Đó là một dạng giáo dục đặc biệt của xã hội loài ngƣời. Với mỗi cá nhân,
q trình hình thành và hồn thiện nhân cách đƣợc xây dựng trên cơ sở tiếp nhận
kiến thức từ 3 hệ thống giáo dục: Gia đình – Nhà trƣờng – Xã hội. Trong đó,
giáo dục gia đình là mơi trƣờng đầu tiên, có tính quyết định trong việc hình
thành nên tính cách của một đứa trẻ - một con ngƣời. Môi trƣờng giáo dục nhà
trƣờng và xã hội là các nhân tố quan trọng giúp định hình và hồn thiện nhân cách
đã có đƣợc từ giáo dục gia đình. Giáo dục gia đình cịn bao hàm cả tự giáo dục.
Giáo dục gia đình đƣợc thực hiện thơng qua cách thức tổ chức đời sống gia
đình, quá trình chăm sóc trẻ, tổ chức các hoạt động của trẻ và cơ bản là dựa trên
nền tảng của sự gƣơng mẫu, sự nêu gƣơng của các bậc ông bà, cha, mẹ.
1.1.3.2 Giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi
14


Gia đình là nơi thực hiện chức năng giáo dục trẻ. Mơi trƣờng gia đình là nơi
giúp trẻ em hình thành nhân cách, lối sống và đặc biệt là nhân sinh quan.
Theo Điều 72 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 (sửa đổi năm 2014)
quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện
cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con đƣợc sống trong mơi trƣờng gia
đình đầm ấm, hòa thuận; làm gƣơng tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ

với nhà trƣờng, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con”.
Trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi là giai đoạn cơ thể trẻ có những thay đổi sâu
sắc, mạnh mẽ cả về thể chất và tâm lý. Những thay đổi về thể chất có ảnh hƣởng
nhiều đến thay đổi tâm lý và hành vi của trẻ. Vì vậy, giáo dục trẻ em từ 11 tuổi
đến 14 tuổi là trách nhiệm của cha mẹ và các thành viên trong gia đình. Cha mẹ
cần quan tâm, yêu thƣơng, đồng hành cùng con giúp con có những định hƣớng
trong học tập và nghề nghiệp tƣơng lai của trẻ.
1.1.4. Khái niệm Tham vấn và tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ
em từ 11 tuổi đến 14 tuổi
1.1.4.1 Tham vấn (trong tiếng Anh là Counseling) đƣợc định nghĩa ở
nhiều góc độ khác nhau.
Carl Rogers (1952) mơ tả tham vấn nhƣ là quá trình nhà tham vấn hay trị
liệu sử dụng mối quan hệ tích cực để tạo nên mơi trƣờng an tồn giúp đối tƣợng
chia sẻ, chấp nhận và hƣớng tới thay đổi. Hoạt động tham vấn khơng chỉ dừng
lại ở việc giúp đối tƣợng có lối thốt mà cịn hƣớng tới mục tiêu nâng cao khả
năng tự nhận thức và tự giải quyết vấn đề [15, tr.5-6].
Tác giả Trần Thị Minh Đức nhấn mạnh vai trò của thái độ đạo đức nghề
nghiệp, của kỹ năng chia sẻ giúp thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế, tự tìm kiếm
tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của mình [15, tr.6].
Bản chất của tham vấn khơng phải là cho lời khuyên mà là hoạt động
nâng cao năng lực. Nó khơng chỉ giúp thân chủ có khả năng giải quyết đƣợc
vấn đề gặp phải trong cuộc sống mà cịn giúp họ phát triển khả năng đó.
Một ý nghĩa khá quan trọng khác của hoạt động tham vấn, đó là tham
vấn khơng chỉ dừng lại ở mục đích giải quyết vấn đề mà còn hƣớng tới việc
15



×