Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tl van hoa ctr voi viec nang cao chất lượng văn hóa chính trị ở cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.35 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Cơng cuộc đổi mới ở Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào do Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào đề xướng và lãnh đạo, thực chất là sự tiếp tục sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới với những cải biến cách mạng sâu
rộng và toàn diện, nhằm khơi dậy, tạo ra và phát huy mạnh mẽ mọi nguồn
động lực phát triển đất nước. Hơn mười năm qua thực hiện đường lối đổi
mới đó, chúng ta đã đạt được những thành tích to lớn trong nhiều lĩnh vực:
kinh tế tăng trưởng, văn hóa - xã hội phát triển, an ninh chính trị ổn định và
đã đúc kết được bài học quý báu, để vận dụng nhằm nâng cao và hoàn thiện
hơn nữa đường lối đổi mới của Đảng. Hiện nay công cuộc đổi mới cũng đi
vào chiều sâu bao nhiêu thì càng bộc lộ sự khơng ngang tầm năng lực lãnh
đạo, quản lý của đội ngũ đảng viên so với thực tiễn đổi mới đặt ra, trong sự
chưa ngang tầm đó, điểm nổi bật là sự yếu kém về nhận thức, về tư duy lý
luận của đội ngũ đảng viên. Trong kỹ năng, kỹ xảo, cũng như trong nghệ
thuật lãnh đạo, quản lý các q trình chính trị, văn hóa - xã hội, cho nên
mỗi giai đoạn cách mạng đòi hỏi ở cán bộ những phẩm chất và năng lực
tương xứng với giai đoạn đó. Để tương xứng với sự nghiệp đó, trước hết
phải có đội ngũ đảng viên đủ phẩm chất, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh
đạo, trực tiếp nhất là nâng cao trình độ văn hóa chính trị.
Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn mở cửa hội nhập quốc tế vừa
hợp tác vừa đấu tranh để giải quyết các vấn đề mâu thuẫn trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Chính vì vậy, cho nên vai trị của văn
hóa chính trị ngày càng quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân, việc
nghiên cứu văn hóa chính trị với việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên là nhiệm vụ cần thiết trong mỗi giai đoạn cách mạng, coi nó như là
một động lực nhằm thúc đẩy mọi hoạt động của đời sống xã hội hướng tới
giá trị nhất định trong xã hội có giai cấp.

1



LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HĨA CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm văn hóa chính trị (VHCT)
VHCT là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã hội
có giai cấp (có chính trị), nhưng điều đó khơng có nghĩa VHCT là phép
cộng giản đơn giữa văn hóa với chính trị, mà đó là sự thẩm thấu, xâm nhập
vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn
hóa. Vì vậy, VHCT là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà tư tưởng lớn, nó
đã được thể hiện trong tư tưởng chính trị của nhiều tư tưởng gia lớn trong
các thời kỳ lịch sử.
Xênôphôn (427-355 TCN) với những quan niệm về thủ lĩnh chính
trị đã phác họa nên những tiêu chí giá trị VHCT của những lãnh tụ chính
trị: giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục, phục vụ những người mà anh ta chỉ huy,
biết tập hợp lại và nhân lên sức mạnh của mọi người... Những tiêu chí đó
vẫn mang ý nghĩa thiết thực đối với việc hình thành nhân cách chính trị cho
chủ thể lãnh đạo hiện nay.
Platon (428-347 TCN) và Aristôt (384-322 TCN) khi đưa ra quan
niệm coi chính trị là khoa học và nghệ thuật, mặc dù triết lý chính trị - xã
hội của các ơng có những hạn chế lịch sử nhưng vẫn chứa đựng hạt nhân
hợp lý trong quan niệm về VHCT.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin tuy chưa đưa ra khái niệm VHCT,
nhưng trong hệ thống học thuyết của các ơng đều tốt lên những tư tưởng,
quan điểm cơ bản về VHCT trên mọi khía cạnh đời sống chính trị của giai
cấp vơ sản và nhân dân lao động như: vấn đề đấu tranh giành quyền lực,
vấn đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; vấn đề xây dựng con người
XHCN; vấn đề dân chủ XHCN...
Những nhà chính trị học mácxít đã đưa ra nhiều định nghĩa về
VHCT do sự khác nhau về cách tiếp cận. Theo từ điển chính trị rút gọn của
Liên Xô (trước đây) các tác giả cho rằng: "Văn hóa chính trị là trình độ và
2



tính chất của những hiểu biết chính trị, những nhận định, những hành vi
của công dân, cũng như nội dung, chất lượng của những giá trị xã hội,
những chuẩn mực xã hội và sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức quyền lực,
phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần điều chỉnh hành vi và
quan hệ xã hội".
Các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam cũng đang trong quá trình
cùng nhau xây dựng một quan niệm đầy đủ về VHCT trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh thực sự có ý nghĩa xuất phát điểm cho q trình tìm tịi,
nghiên cứu vừa mới mẻ, vừa phức tạp này.
Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục các mục tiêu của VHCT theo cả
mô thức dân tộc - khoa học - đại chúng trong giai đoạn cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, đồng thời Người xác lập quan hệ văn hóa - chính trị trên
nền tảng dân tộc với nội dung XHCN trong giai đoạn cách mạng XHCN.
VHCT được tạo lập trong các quan hệ chính trị mới, mà trong những quan
hệ đó đánh dấu sự trưởng thành về nhân cách chính trị của nhân dân, làm
gia tăng các khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân.
Quan điểm nổi bật nhất và đặc sắc nhất trong tư tưởng VHCT của
Hồ Chí Minh là xã hội mới phải có con người mới đại diện cho nó: "Muốn
XHCN, phải có: người XHCN. Muốn có người XHCN, phải có tư tưởng
XHCN". Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng thành cơng con người mới
XHCN là xác lập cơ sở bền vững của VHCT mới. Đó là một tư tưởng lớn.
Trên cơ sở quan điểm mang tính định hướng của tư tưởng Hồ Chí
Minh, các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã đưa ra nhiều cách diễn đạt
về khái niệm văn hóa chính trị. GS.TS Hồng Chí Bảo quan niệm: Văn hóa
chính trị là chất lượng tổng hịa của tri thức, tình cảm, niềm tin chính trị,
tạo thành ý thức chính trị cơng dân, thúc đẩy họ những thành động chính trị
tích cực phù hợp với lý tưởng chính trị của xã hội, là thói quen và nhu cầu
tham gia một cách tự giác chủ động vào các quan hệ chính trị xã hội, trở

3


thành giá trị xã hội của cơng dân, góp phần hướng dẫn họ trong cuộc đấu
tranh vì lợi ích chung của xã hội vì tiến bộ và phát triển. Các nhà khoa học
của Viện Khoa học chính trị có quan niệm như sau:
- Văn hóa chính trị là một loại hình của văn hóa, là một phương
diện hợp thành của văn hóa trong xã hội có giai cấp và nhà nước. Văn hóa
chính trị là văn hóa được thể hiện trong hoạt động chính trị của con người,
tổ chức, thể chế và thiết chế chính trị.
- Văn hóa chính trị nói lên trình độ nhận thức, năng lực sáng tạo
trong hoạt động chính trị của chủ thể dựa trên sự hiểu biết sâu sắc các quan
hệ chính trị hiện thực cùng những thiết chế chính trị tiến bộ được lập ra để
thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp
với sự phát triển lịch sử.
- Văn hóa chính trị cịn nói lên phẩm chất đạo đức, lối sống và nhân
cách của con người trong hoạt động và ứng xử chính trị.
Nói tóm lại, văn hóa chính trị là tổng hợp những giá trị vật chất,
tinh thần được hình thành trong thực tiễn chính trị. Nó là cái góp phần chi
phối hoạt động của các cá nhân, của các nhà chính trị, góp phần định hướng
hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời sống chính trị để phục vụ lợi
ích căn bản của một giai cấp nhất định.
2. Cấu trúc, đặc điểm và chức năng của văn hóa chính trị
2.1. Cấu trúc
Cấu trúc của văn hóa chính trị bao gồm những yếu tố, những
phương diện hợp thành sau đây:
- Tri thức và những hiểu biết về chính trị
Đây là giá trị nền tảng của VHCT, được định lượng một cách phổ
biến bởi tri thức chính trị. Tri thức chính trị là trình độ học vấn và sự hiểu
biết của con người về chính trị. VHCT ln cần và cần phải có học vấn

chính trị. Tuy học vấn và văn hóa là hai khái niệm khơng đồng nhất với
nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trình độ học vấn
4


giúp cho các chủ thể hiểu biết và nhận thức rõ hơn về các giá trị văn hóa,
từ đó xác định các nguyên tắc, lý tưởng sống cho bản thân mình, lúc đó
trình độ học vấn đã trở thành một khía cạnh của nhân cách văn hóa.
Ngược lại, văn hóa lại khẳng định những giá trị xã hội của học vấn, chủ
thể nào có trình độ học vấn mà khơng cống hiến cho xã hội, thậm chí phá
hoại xã hội thì học vấn đó đứng ngồi văn hóa. Người cán bộ cách mạng
cũng vậy, khơng có trình độ học vấn hoặc trình độ học vấn thấp khó mà
thực thi tốt nhiệm vụ chính trị và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cầm quyền
của Đảng. Hơn nữa nếu có trình độ học vấn nhưng thiếu ý thức trách
nhiệm chính trị (thiếu sự tác động của VHCT) thì học vấn đó cũng vơ
nghĩa, thậm chí nguy hại.
Nói về vai trị của học vấn đối với chính trị, V.I. Lênin có một nhận
xét nổi tiếng. Người khơng biết chữ là người đứng ngồi chính trị. Chính trị
là trí tuệ, khơng có tri thức chính trị khó có thể đạt tới trình độ tự giác, tích
cực. Những biểu hiện phiêu lưu, manh động, tính tự phát vơ chính phủ
trong các hành vi chính trị phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu hiểu biết,
thiếu sự dẫn dắt của lý trí sáng suốt, tỉnh táo tức là thiếu lý luận khoa học;
"Thực tiễn khơng có lý luận dẫn đường là thực tiễn mù quáng". Kinh
nghiệm hoạt động chính trị thực tiễn cho thấy, nhiệt tình không dựa trên cơ
sở hiểu biết nhiều khi dẫn tới hành vi phá hoại, cản trở xu thế phát triển nói
chung.
Sự hiểu biết chính trị khơng chỉ biểu hiện ở trình độ học vấn chính
trị mà cịn ở trình độ kinh nghiệm, sự khôn ngoan, sự từng trải, sự nhạy
bén, mẫn cảm... về chính trị được tích lũy qua thực tiễn chính trị của chủ
thể. Ở đó trình độ học vấn được thẩm thấu vào hành vi nhận thức, suy nghĩ,

tình cảm của con người, trở thành những giá trị ứng xử của con người dưới
dạng nguyên tắc sống hướng tới chân, thiện, mỹ, giúp chủ thể khắc phục
căn bệnh chủ quan, duy ý chí.
- Tình cảm và đạo đức cách mạng

5


Nếu tri thức là chất liệu đem lại sự hiểu biết, tạo nên mặt nhận thức
lý tính, lý trí của chính trị thì tình cảm và phẩm chất đạo đức đóng vai trị
hình thành động lực thúc đẩy hành động chính trị, tạo nên động cơ chính trị
của mỗi người.
Để có văn hóa chính trị, tri thức khơng chỉ trở thành phương pháp
mà cịn phải chuyển hóa thành xúc cảm, tình cảm nữa. Đó phải là trạng thái
tình cảm tích cực, là tình cảm cách mạng mà người hoạt động chính trị cần
phải có.
Tình cảm là một trong những động lực rất mạnh mẽ đối với con
người, thúc đẩy họ hành động để đấu tranh, bảo vệ chân lý, giữ vững niềm
tin.
Tình cảm vừa thuộc về đời sống tâm lý, đời sống tinh thần của cá
nhân vừa có cơ sở từ sự hiểu biết lý trí khoa học. Hiểu biết đúng đắn và sâu
sắc giúp cho con người có tình cảm bền vững, giúp vào việc rèn luyện, trau
dồi đạo đức, thực hành đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí cơng
vơ tư, có ý chí và nghị lực để tự mình vươn tới cái tốt, cái cao cả, vượt qua
cái xấu, cái tầm thường, vị kỷ, vụ lợi, thấp hèn của chủ nghĩa cá nhân.
Sức mạnh chủ yếu để đấu tranh và chiến thắng chủ nghĩa cá nhân là
sức mạnh của đạo đức, của ý chí và nghị lực cách mạng mà ngọn nguồn
của nó bắt đầu từ những gì tốt đẹp, lành mạnh, bền vững của tình cảm, đặc
biệt là tình cảm đạo đức.
- Lý tưởng chính trị và niềm tin khoa học

Lý tưởng không chỉ là động lực kích thích hoạt động chính trị mà
cịn đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn phương thức, phương tiện
hoạt động chính trị.
Lý tưởng cách mạng của GCCN và cuộc cách mạng do giai cấp đó
tiến hành với sự tham gia đông đảo của quần chúng dưới sự lãnh đạo củ
Đảng Cộng sản là lý tưởng nhân đạo nhất, là cuộc cách mạng triệt để nhất
trong lịch sử. Nó xóa bỏ khơng chỉ tình trạng áp bức, bóc lột và nô dịch
6


con người, làm tha hóa lao động và bản chất con người dưới ách thống trị
của CNTB mà cịn xóa bỏ tận gốc những cơ sở kinh tế - xã hội đã đẻ ra
tình trạng phi nhân tính. Đó là chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu
sản xuất, là tình trạng người bóc lột người gắn liền với chế độ tư hữu
TBCN. Nó hướng tới mục tiêu giải phóng giai cấp, dân tộc và xã hội lồi
người để giải phóng con người, thực hiện sự phát triển toàn diện và tự do
mọi năng lực của con người, sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội,
coi đó là mục đích tự thân của lịch sử. Lý tưởng XHCN và CSCN đó
hướng dẫn và thúc đẩy con người hoạt động chính trị vào những mục tiêu
cao cả nhất, xây dựng một xã hội cơng bằng, bình đẳng, đem lại cho con
người quyền làm chủ và nhân dân lao động làm chủ xã hội, thực sự là
những chủ thể sáng tạo.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, vì lý
tưởng "khơng có gì quý hơn độc lập tự do", nhiều đồng bào và chiến sĩ đã
dũng cảm hy sinh cả bản thân mình, nhiều cán bộ đảng viên đã tìm ra
những phương thức đấu tranh có hiệu quả nhất trong cuộc chiến đấu với
quân thù. Cùng với lý tưởng chính trị, niềm tin là một nhân tố hết sức quan
trọng của văn hóa chính trị. Đó là niềm tin có cơ sở khoa học, dựa trên hiểu
biết chứ không phải niềm tin giáo điều, mù quáng.
Chỉ có niềm tin dựa trên sự hiểu biết khoa học mới làm cho con

người giữ được sự kiên định, khơng dao động trước những khó khăn, thất
bại nhất thời. Dĩ nhiên, cùng với tri thức khoa học cịn phải có sự thơi thúc
của tình cảm cách mạng, của đạo đức, của kinh nghiệm sống và bản lĩnh
chính trị thì niềm tin mới thật sự bền vững.
- Các truyền thống chính trị, đặc biệt là các giá trị tiêu biểu của
văn hóa chính trị, kết tinh trong truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa
của dân tộc, trong di sản văn hóa của lồi người qua các thời đại được kế
thừa, vận dụng vào hoạt động chính trị.

7


Đây là một nhân tố không thể thiếu để xây dựng nền văn hóa chính
trị hiện đại và đương đại ngày nay của chúng ta.
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã
xây đắp nên và để lại những di sản quý giá về nhiều mặt trong đó có khơng
ít những giá trị đặc sắc về văn hóa chính trị. Đó là tư tưởng chính trị nhân
nghĩa, truyền thống đồn kết, hịa hợp, đồng thuận để phát triển, là chủ
nghĩa yêu nước, khí phách quật cường chống mọi kẻ thù xâm lược, là triết
lý "thà chết chứ không chịu làm nô lệ", "thà chết vinh cịn hơn sống nhục".
Đó cịn là lịng nhân ái, vị tha, văn hóa bao dung trong đối nhân xử thế, là
tư tưởng thân dân, vì dân trong đạo lý của người cầm quyền, là an dân,
khuyến dân để thực hiện an sinh và an ninh cho dân chúng.
Những tư tưởng quý báu đó cần được kế thừa trên quan điểm lịch
sử và phát triển trên trình độ hiện đại, vận dụng vào công việc lãnh đạo,
quản lý, rèn luyện nhân cách chính trị và giáo dục văn hóa chính trị hiện
nay. Những học thuyết tư tưởng chính trị trên thế giới hình thành từ thời cổ
đại ở phương Đơng và phương Tây, qua các bước ngoặt của thời đại Phục
hưng và Khai sáng, những kinh nghiệm và thành tựu của các cuộc cách
mạng điển hình trong lịch sử, của các nhà nước, Chính phủ, các quốc gia dân tộc... đều chứa đựng trong đó các giá trị, các hạt nhân hợp lý của nó.

Tiếp thu có chọn lọc, có phê phán những giá trị ấy trong di sản văn hóa thế
giới có thể làm phong phú thêm cho văn hóa chính trị của chúng ta.
- Những phương tiện chính trị, những chuẩn mực, những phương
thức tổ chức và hoạt động của quyền lực chính trị.
Hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, cơ chế vận hành và mơ hình
tổ chức các bộ máy; các thiết chế chính trị; thơng tin và các phương tiện,
các hình thức thơng tin; đào tạo nhân lực cho bộ máy quyền lực; các vấn đề
về kỹ thuật - cơng nghệ chính trị nói lên trình độ khoa học và nghệ thuật
của chính trị... nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động chính trị thực tiễn đều
là những nhân tố tham gia vào cấu trúc của văn hóa chính trị.
8


- Hệ tư tưởng, đường lối, chính sách và các quyết sách của giai cấp
cầm quyền.
Hệ tư tưởng chính trị phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp cũng
như phương thức, con đường để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp, của
liên minh giai cấp hoặc của nhân dân nói chung. Giai cấp nào cầm quyền
thì hệ tư tưởng của giai cấp đó được sử dụng và truyền bá một cách có ý
thức vào đời sống xã hội, trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội đó.
Nền chính trị và văn hóa chính trị mà chúng ta xây dựng mang bản chất
GCCN, do đó hệ tư tưởng chủ đạo của văn hóa chính trị XHCN, thấm sâu
trong tồn bộ nội dung của nó là hệ tư tưởng khoa học tiên tiến và cách
mạng phản ánh vai trị và sứ mệnh lịch sử của GCCN. Đó là chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Văn hóa chính trị cá nhân:
VHCT cá nhân thường được nhìn nhận, đánh giá qua những yếu tố
như: trình độ hiểu biết và sự giác ngộ chính trị của mỗi cá nhân trong tư
cách con người chính trị của nó (cơng dân, một người cán bộ, một thủ lĩnh).
Trình độ đó được biểu hiện ở ý thức chính trị, thái độ, lập trường quan

điểm chính trị; mức độ nhận thức, đánh giá các sự kiện, các diễn biến chính
trị; sự lựa chọn tham gia của cá nhân vào các hoạt động chính trị thực tiễn;
thái độ và mức độ phản ứng hay hưởng ứng trước một tình huống chính trị
nào đó trong đời sống xã hội. VHCT cá nhân vừa góp phần tạo lập các giá
trị, vừa góp phần hình thành dư luận xã hội tích cực đấu tranh chống những
hành vi gây tổn hại tới lợi ích chung của xã hội.
VHCT cá nhân cịn là tình cảm và niềm tin chính trị được bộc lộ
qua những phẩm chất, sắc thái cá nhân đối với lý tưởng, chế độ chính trị,
với Đảng, Nhà nước, với các cá nhân lãnh đạo... Nó được xác định bởi cách
thức và sự biểu hiện tính văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, trong giải quyết
các mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, cá nhân với cá nhân, cá nhân với

9


xã hội (và ngược lại) trên các vấn đề chính trị - xã hội mà các chủ thể cùng
quan tâm. Hình thức biểu hiện trực tiếp của VHCT trên phương diện này
chính là văn hóa đối thoại, văn hóa tranh luận, ở đó những nét tinh tế của
VHCT được bộc lộ rõ nét. Vì vậy, VHCT có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong
hoạt động chính trị của mỗi con người.
Để đạt đến sự thành cơng trong q trình giao tiếp và đối thoại, sự
nhạy cảm và hiểu biết tâm lý đối tượng giao tiếp là rất cần thiết. Muốn đạt
đến trình độ văn hóa trong đối thoại, tranh luận, mỗi người rất cần đến
những hiểu biết về dân chủ và thực hành văn hóa dân chủ. Chính với nghĩa
này, sự phát triển đầy đủ và toàn diện VHCT cá nhân cũng là sự phản ánh
trình độ chín muồi của chế độ dân chủ.
- Văn hóa chính trị của tổ chức
VHCT của tổ chức thể hiện qua phương thức và hiệu quả hoạt động
của HTCT, đặc biệt là của tổ chức QLNN. VHCT của tổ chức do VHCT
của cá nhân hợp thành, trong đó những cá nhân lãnh đạo đóng vai trò quan

trọng, là tấm gương của VHCT của tổ chức. Nhưng để tạo nên sự thống
nhất giữa VHCT của các cá nhân trong tổ chức thì VHCT của tổ chức phải
là sự đoàn kết, sự phối hợp, sự thống nhất trong mục tiêu, lý tưởng và trong
hành động chính trị. Do vậy, để duy trì, phát triển VHCT của tổ chức thì
phải thực hiện và giữ vững các nguyên tắc chính trị với ý nghĩa là những
chuẩn giá trị VHCT. Những giá trị VHCT của tổ chức ngoài việc được mọi
thành viên trong cộng đồng chấp nhận và tự nguyện phục tùng (được đảm
bảo về mặt xã hội) còn phải được đảm bảo về mặt pháp lý.
VHCT của người cán bộ, nhất là những người lãnh đạo chủ chốt
vừa hội tụ những giá trị quy định phẩm chất cá nhân, đồng thời cũng
mang một phần, một khía cạnh, một yếu tố trong VHCT của tổ chức.
Nhưng dù ở cấp độ chủ thể nào VHCT cũng đều chứa đựng hệ thống các
chuẩn giá trị được hình thành qua các hoạt động chính trị, được chủ thể sử

10


dụng trong cuộc đấu tranh giành và thực thi quyền lực, hoặc để thực hiện
các mối quan hệ xã hội nào đó, hoặc dùng làm phương thức để đạt đến các
mục tiêu khác.
Nghiên cứu cấu trúc VHCT trên nhiều phương diện tạo cơ sở giúp
chúng ta xác định rõ chủ thể VHCT, từ đó định hướng những chuẩn giá trị
tương ứng quy định phẩm chất, trình độ và năng lực VHCT của chủ thể.
2.2. Đặc điểm của văn hóa chính trị
* Văn hóa chính trị mang tính giai cấp
VHCT hình thành trong thực tiễn đấu tranh giai cấp, do đó nó ln
bị chi phối bởi thế giới quan, hệ tư tưởng, những quan điểm chính trị của
giai cấp nhất định và nó phục vụ lợi ích của mỗi giai cấp. Khơng bao giờ có
những giá trị chính trị chung chung. Chính trị và cơng việc nhà nước đều là
phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ quyền lực. Do vậy, bất cứ hành

vin nào của chủ thể chính trị khi đã chịu sự điều chỉnh của các chuẩn giá trị
VHCT cũng là hành vi hướng tới thực hiện lợi ích giai cấp và bảo vệ lợi ích
của giai cấp ấy một cách nhân văn.
Tuy rất quan trọng, nhưng tính giai cấp khơng phải là thuộc tính
duy nhất của VHCT. Tính dân tộc và tính nhân loại ln tồn tại trong
VHCT của từng giai cấp. Đặc biệt trong bối cảnh của thế giới hiện đại, mối
quan hệ giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại càng gắn bó chặt
chẽ hữu cơ hơn bao giờ hết. Văn hóa trước hết là vấn đề tồn tại và phát
triển của một cộng đồng người nhất định, cộng đồng trở nên bền vững khi
nó trở thành dân tộc - đó là yếu tố quyết định của một nền văn hóa. Tính
dân tộc ln gắn liền với tính nhân loại và tính giai cấp, trong mối quan hệ
này thì quan hệ dân tộc - nhân loại là trường cửu, giai cấp dù tồn tại lâu thì
cũng chỉ là phạm trù lịch sử. Như vậy, giá trị VHCT chỉ thống nhất với giá
trị văn hóa khi mà giai cấp - chủ thể chính trị của nó đại diện cho phương
thức sản xuất mới, cho xu thế vận động và phát triển phù hợp với tiến bộ xã

11


hội. Do đó, tác động của giai cấp và đấu tranh giai cấp vào văn hóa của một
dân tộc tùy thuộc vào từng biến động của lịch sử, tác động tới bước đi của
nền văn hóa chứ khơng quyết định bản chất của nền văn hóa. Hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị tất yếu có dấu ấn mạnh tới nền văn hóa dân tộc khi
quyền lợi của giai cấp đó nhất trí với quyền lợi của dân tộc.
Để phát triển bền vững theo hướng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc,
vừa khơng đi ngược giá trị nhân loại (nhân văn - tính người) cần phải kết
hợp nhuần nhuyễn tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại trong văn
hóa nói chung và VHCT nói riêng. Việc phát huy văn hóa dân tộc chung
chung, thốt ly khỏi định hướng giai cấp trong lĩnh vực văn hóa là một sai
lầm. Sự mất cảnh giác đối với chiến lược "diễn biến hịa bình" về văn hóa

cũng chính là "tự diễn biến hịa bình" trong chính chúng ta. Mặt khác, trong
khi khẳng định tính giai cấp của VHCT khơng được đối lập giữa giai cấp cộng đồng - nhân loại, nếu không sẽ rơi vào quan điểm giai cấp cực đoan.
Để đạt đến VHCT thì vừa phải sử dụng những giá trị giai cấp, vừa phải sử
dụng những giá trị cộng đồng và nhân loại; điều đó cũng lý giải vấn đề vì
sao nước ta với nhiều nước trên thế giới khác nhau về chế độ chính trị
nhưng vẫn quan hệ, giao lưu và hợp tác.
* VHCT mang tính lịch sử
VHCT bị quy định bởi những điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan. Hai loại nhân tố này có nội dung, tính chất và phương thức quy định
khác nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, điều đó quy định tính lịch sử
của VHCT.
+ VHCT khơng chỉ là kết quả của sự phát triển của nhận thức chính
trị và hoạt động chính trị sáng tạo của nhiều chủ thể VHCT ở các nước
khác nhau và các dân tộc khác nhau mà cịn gắn liền với các nền chính trị
khác nhau. Có VHCT của giai cấp nắm quyền lực nhà nước đặc trưng cho
mỗi nền chính trị, nhưng bản thân sự tồn tại của mỗi nền chính trị lại khơng

12


vĩnh viễn mà ln có sự thay thế kế tiếp nhau trong lịch sử, nên VHCT
cũng thay đổi theo.
+ Hơn nữa, VHCT không phải là một hiện tượng biệt lập, sự xuất
hiện và phát triển của nó nằm trong mối liên hệ mật thiết, biện chứng với
các yếu tố lịch sử, nó chịu sự chi phối của những điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội. Khi các yếu tố này có sự thay đổi thì VHCT cũng chịu ảnh
hưởng của sự thay đổi đó.
Sự truyền dẫn VHCT từ thế hệ này sang thế hệ khác cũng được
thực hiện theo khuôn mẫu và định hướng nhất định, thích hợp với nhận
thức và nhu cầu của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong đời sống chính trị ở

mỗi giai đoạn lịch sử. Do vậy, VHCT còn phụ thuộc vào khả năng tạo lập,
kế thừa và sử dụng các giá trị VHCT của mỗi chủ thể nào đó trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định.
- Trong xã hội có giai cấp, văn hóa chính trị ln có tính đa dạng,
phản ánh tính đa dạng, khác biệt của văn hóa. Cái cốt lõi của văn hóa chính
trị là hệ tư tưởng nhưng hệ tư tưởng của các giai cấp không đồng nhất với
nhau, từ đó, văn hóa chính trị của mỗi giai cấp bị chi phối bởi hệ tư tưởng
giai cấp và những nhân tố kinh tế - xã hội, lịch sử, văn hóa, tâm lý dân tộc,
truyền thống và tập quán trong xã hội, tạo nên những khác biệt đặc thù rất
sâu sắc.
Trong mỗi nền chính trị, văn hóa chính trị cũng khơng thuần nhất
mà có sự đa dạng, phong phú của các loại hình văn hóa chính trị tương ứng
với từng giai cấp, giai tầng xã hội khác nhau.
Văn hóa chính trị của cá nhân lại cũng có những khác biệt về trình
độ và hình thức biểu hiện do những cá nhân đó khác nhau về đặc điểm lao
động nghề nghiệp, về kinh nghiệm chính trị, về phạm vi hoạt động và mức
độ chú ý, định hướng giá trị khác nhau, những nhu cầu, lợi ích khác nhau.
Văn hóa chính trị trong CNXH, ngồi các đặc điểm nêu trên cịn
bao hàm một số đặc điểm khác. đó là: Văn hóa chính trị XHCN vừa là nội

13


dung vừa là động lực lại vừa là biểu hiện chất lượng của nền dân chủ, là
nhân tố thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu của CNXH. Văn hóa chính trị
XHCN cịn là phương thức và trình độ làm chủ của quần chúng, làm cho
nhân dân lao động trở thành chủ thể của quyền lực chính trị.
2.3. Chức năng của văn hóa chính trị
Vai trị to lớn của văn hóa chính trị trong hoạt động chính trị của cá
nhân, của quần chúng nhân dân, của chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội để

thực thi quyền lực được thể hiện qua những chức năng của văn hóa chính
trị. Có thể nói tới những chức năng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, văn hóa chính trị góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội
- chính trị, nâng cao chất lượng lãnh đạo và quản lý của chủ thể quyền lực.
Với ảnh hưởng của văn hóa chính trị, giới cầm quyền có thể kịp
thời phát hiện ra những mâu thuẫn trong các quan hệ xã hội - chính trị, đưa
ra những biện pháp, giải pháp hữu hiệu, kể cả những giải pháp tình thế khi
cần thiết để chủ động giải quyết những tình huống nảy sinh như xung đột,
khủng hoảng, mất ổn định, những phản ứng của dân chúng hay của một lực
lượng nào đó hướng vào thể chế. Đó là những giải pháp có tính chất "tháo
ngịi nổ" để làm dịu bớt những xung đột xã hội.
Ngược lại, do thiếu trình độ văn hóa chính trị, người ta có thể làm
cho những quan hệ xã hội - chính trị vốn bình thường lại trở nên căng
thẳng, phức tạp, thậm chí vì những biện pháp và quyết sách sai lầm, chủ
quan, không cân nhắc thận trọng, thiếu tinh tế trong kinh nghiệm ứng xử
mà có thể dẫn tới những đối đầu gay gắt, ảnh hưởng xấu tới ổn định xã hội
và tâm trạng quần chúng. Văn hóa chính trị vừa góp phần nâng cao năng
lực và trình độ của các nhà lãnh đạo và quản lý, mở rộng nhãn quan chính
trị, trau dồi kinh nghiệm và hình thành bản lĩnh của họ trong hoạt động
chính trị vừa bồi dưỡng cho người hoạt động chính trị những phương pháp
và kỹ năng cần thiết trong công tác hàng ngày, làm cho hành vi và ứng xử
chính trị phù hợp với những chuẩn mực văn hóa.

14


Thứ hai, văn hóa chính trị hướng năng lực và phẩm chất con người
vào những hoạt động tích cực, sáng tạo để thực hiện các giá trị lý tưởng đã
lựa chọn. Sự phát triển văn hóa chính trị ở trình độ cao, với niềm tin sâu
sắc dựa trên cơ sở khoa học vào lý tưởng chính trị đã lựa chọn, có thể giúp

cho con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thậm chí có thể hy sinh
để thực hiện lý tưởng chính trị cao đẹp. Sự hy sinh của những thế hệ người
lớp trước trong quá trình đấu tranh cách mạng để thực hiện trọn vẹn độc lập
dân tộc, lý tưởng "khơng có gì q hơn độc lập tự do", thực hiện ĐLDT
gắn liền với CNXH trong 1/3 thế kỷ chống đế quốc xâm lược Pháp và Mỹ
là một minh chứng sinh động.
Thứ ba, văn hóa chính trị thơng qua sự giáo dục, tuyên truyền,
quảng bá trong xã hội, thông qua rèn luyện và thực hành của cá nhân, tập
thể, cộng đồng góp phần thúc đẩy tính tích cực chính trị của cơng dân, thái
độ quan tâm tới đời sống chính trị, nâng cao trách nhiệm chính trị của từng
người, từng tổ chức trong hệ thống chính trị.
Trong một xã hội có văn hóa chính trị cao, một mặt, mỗi cá nhân
cơng dân đều ý thức rõ vị trí của mình trong hệ thống quyền lực chính trị
của xã hội, mặt khác, xã hội cũng hình thành và hồn thiện cơ chế để mỗi
cá nhân công dân tham gia tích cực và tự giác vào cơng việc của nhà nước
và xã hội. Nhờ đó, hoạt động chính trị trở thành công việc thực tế, hàng
ngày của mỗi người, củng cố ý thức tổ chức kỷ luật, đề cao tinh thần trách
nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận của công dân đối với nhà nước và xã hội.
Thứ tư, văn hóa chính trị góp phần đảm bảo thực hiện phát huy dân
chủ, đấu tranh chống quan liêu tham nhũng và mọi biểu hiện thối hóa
chính trị; góp phần giáo dục ý thức chính trị cho quần chúng, đào tạo và rèn
luyện những nhân cách chính trị, những tài năng chính trị xuất hiện và
trưởng thành trong phong trào quần chúng và trong thực tiễn chính trị.
3. Một số phương hướng và giải pháp để xây dựng văn hóa
chính trị

15


- Xây dựng văn hóa chính trị gắn liền mật thiết giữa giáo dục tuyên

truyền đường lối quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước với việc nâng cao ảnh hưởng thực tế của đường lối, chính sách ấy
trong đời sống xã hội, thực hiện công phu và lâu dài việc giáo dục ý thức
chính trị, giáo dục đạo đức và tình cảm cách mạng, nâng cao trình độ học
vấn và dân trí nói chung để quần chúng tham gia vào hoạt động chính trị
một cách chủ động, tích cực và sáng tạo.
- Để làm cho văn hóa, trong đó có văn hóa chính trị thấm sâu vào
đời sống trước hết phải chú trọng giáo dục văn hóa chính trị trong Đảng,
trong nhà nước và trong các đồn thể chính trị xã hội của quần chúng, đặc
biệt là trong Đảng, từ các tổ chức Đảng ở cơ sở đến toàn Đảng. Cán bộ
đảng viên phải làm gương mẫu cho quần chúng nên việc giáo dục và thực
hành văn hóa chính trị trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước phải được
chú trọng thường xuyên, phải thực sự có tác dụng nêu gương cho dân
chúng, thực sự là nội dung cốt lõi, chủ đạo của văn hóa chính trị trong xã
hội.
* Để thực hiện được những phương hướng nêu trên trong việc xây
dựng văn hóa chính trị, cần lưu ý những giải pháp sau:
- Nâng cao trình độ học vấn mặt bằng dân trí trong xã hội. Dân trí
khơng chỉ hướng vào đối tượng dân mà giờ đây phải đặc biệt chú trọng tới
năng lực hiểu biết, năng lực trí tuệ của người lãnh đạo, người quản lý, của
cơng chức, quan chức. Nâng cao dân trí, đồng thời phải rất chú trọng nâng
cao chất lượng cán bộ lãnh đạo, nhất là đạo đức và năng lực trí tuệ của họ
(quan trí). Cán bộ đảng viên mà ngại khó, lười học tập, rèn luyện phải được
xem là sự thoái hóa hư hỏng, khơng phù hợp với u cầu "xã hội học tập"
trong điều kiện hiện nay.
- Mở rộng việc cung cấp thơng tin, xã hội hóa và cập nhật hóa
thơng tin theo tinh thần cơng khai, dân chủ, đạo đức, pháp luật. Tính khách

16



quan, trung thực của thông tin và truyền bá thông tin là điều khơng thể
thiếu để có chính trị lành mạnh và văn hóa chính trị dân chủ.
- Cùng với thông tin là đẩy mạnh giáo dục pháp luật. Tôn trọng
pháp luật, tự giác thực hiện pháp luật, đấu tranh cho việc pháp luật được
coi trọng và xử lý nghiêm minh theo luật, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên
tắc bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật, trừng trị theo pháp luật
đối với mọi hành vi phạm tội, không có bất cứ một kẽ hở, ngoại lệ nào... là
một địi hỏi cấp bách. Khơng có những đảm bảo khoa học, đạo đức, luật
pháp thì khơng thể có bất cứ một văn hóa chính trị nào theo nghĩa trung
thực, nghiêm túc của nó. Văn hóa chính trị với tất cả tính chất lành mạnh,
trong sạch của đạo đức, nhân cách địi hỏi khơng nói sng, khơng hình
thức, khơng giả dối, lời nói phải đi đơi với việc làm.
- Tơn trọng và thực hành các giá trị, các chuẩn mực dân chủ trong
lối sống, hành vi, ứng xử chính trị. Đối thoại, tranh luận trên tinh thần trọng
chân lý, trọng nhân cách của nhau, tự do tư tưởng, thảo luận dân chủ, bình
đẳng để tìm ra chân lý, khi chân lý đã tìm thấy rồi thì tự do tư tưởng hóa ra
tự do phục tùng chân lý (Hồ Chí Minh). Đó là điều cần trau dồi ở tất cả mọi
người theo u cầu văn hóa chính trị, nhất là với những người nắm giữ
quyền lực.
- Trau dồi đạo đức, thực hành đạo đức theo tư tưởng và gương sáng
đạo đức Hồ Chí Minh. Việc thực hành đạo đức cách mạng là cách tốt nhất
để chống chủ nghĩa cá nhân, cũng như muốn chống quan liêu thì phải ra
sức thực hành dân chủ (Hồ Chí Minh). Thực hành đạo đức cách mạng ở tất
cả mọi người, trong các mối quan hệ với tự mình, với người khác, với cơng
việc, với tổ chức. Phải có đủ bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính thì mới là
người hồn tồn. Cần, kiệm, liêm, chính là đạo đức, là chính trị, là sự cơ
đọng các giá trị văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị.
- Đề cao tính ngun tắc, tính kỷ luật (tính Đảng) trong cơng tác,
trong sinh hoạt Đảng, trong rèn luyện tư cách đảng viên, trong đấu tranh


17


phê bình. Chú trọng cơng tác kiểm tra, quản lý cán bộ, giữ mối liên hệ mật
thiết với dân, dựa vào dân mà xây dựng Đảng, mà giáo dục cán bộ. Đó là
điều đặc biệt cần thiết để xây dựng văn hóa chính trị trong Đảng, Nhà nước
hệ thống chính trị và trong xã hội nói chung.

18


KẾT LUẬN
Sự nghiệp đổi mới mà Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào đề ra là một cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện và
triệt để nhất. Việc xác lập văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa của giai cấp
công nhân thực chất là biểu hiện sự phù hợp giữa chính trị nhân văn
hướng tới cái ích, chân, thiện, mỹ dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin với tính tất yếu khách quan của sự phát triển xã hội, với lợi ích
của đơng đảo quần chúng nhân dân. Việc hình thành và phát triển nền
văn hóa chính trị mà chúng ta đang xây dựng hiện nay, chẳng qua là để
đáp ứng nhu cầu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là việc
thực hiện mục tiêu lý tưởng của Đảng và Nhân dân lao động các bộ tộc
Lào hiện nay và tương lai.
Trong đời sống chính trị hiện đại ngày nay, văn hóa nói chung, văn
hóa chính trị nói riêng là nhân tố cơ bản đóng vai trị là mục tiêu, động lực
của mọi sự phát triển, có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành phát
triển và phát huy nhân cách con người. Trong sự nghiệp xây dựng và thực
hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nguồn nhân lực có tầm quan
trọng đặc biệt trong việc khai thác và phát huy các nguồn lực nhằm đạt đến
mục tiêu phát triển bền vững. Do vậy, cần phải nâng cao chất lượng nguồn

nhân lực. Nâng cao chất lượng con người và phát huy vai trị của nó khơng
thể thiếu văn hóa và văn hóa chính trị. Với một hệ thống các giá trị phản
ánh lợi ích xã hội, lợi ích các giai cấp, văn hóa nói chung và văn hóa chính
trị nói riêng đóng vai trị điều chỉnh, nhận thức, định hướng cho các chủ thể
về mọi phương diện; thâm nhập vào mọi suy nghĩ, tình cảm, niềm tin, lý
tưởng, hành vi của các chủ thể, làm gia tăng giá trị xã hội cho họ. Đến lượt
nó, chất lượng con người lại làm phong phú, đa dạng, bổ sung và nâng cao
hệ thống giá trị của văn hóa và văn hóa chính trị.

19



×