Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Skkn hướng dẫn học sinh trung học phổ thông đọc hiểu văn bản khi soạn bài ngữ văn ở nhà góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy học văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.54 KB, 20 trang )

1

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA 4
***************

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

HƯỚNG DẪN HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐỌC
HIỂU VĂN BẢN KHI SOẠN BÀI NGỮ VĂN Ở NHÀ GÓP
PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ DẠY HỌC VĂN

Người thực hiện: Lương Thị Bình
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Ngữ văn

THANH HĨA NĂM 2022

skkn


1

MỤC LỤC

1. MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài:..............................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu:........................................................................................2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:......................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.......................................................
2.1. Cơ sở lý luận....................................................................................................2
2.2. Cơ sở thực tế.....................................................................................................4
2.3. Các giải pháp thực hiện.......................................................................................5
2.3.1.Khảo sát phân loại đối tượng học sinh.......................................................... 5
2.3.2. Giáo viên hệ thống hóa lại các kiến thức cơ bản....................................5
2.3.3.Giáo viên nghiên cứu và phân loại các văn bản......................................6
2.3.4.Các bước hướng đẫn học sinh soạn bài...................................................6
2.3.5.Các giải pháp cụ thể................................................................................7
2.3.6.Câu hỏi soạn bài minh họa....................................................................10
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm........................................................... 14
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..........................................................................15
3.1.Kết luận...........................................................................................................15
3.2. Kiến nghị........................................................................................................15

skkn


1

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Mơn Ngữ văn trong nhà trường Trung học phổ thông là một môn học
quan trọng khơng chỉ cung cấp tri thức mà cịn góp phần phát triển tồn diện cho
học sinh.Trong chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 ban hành
kèm theo Quyết định 711/QĐ-TT ngày 13/06/2012 của Thủ tướng Chính phủ
chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn
luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực
tự học của người học”; “Đổi mới kì thi tốt nghiệp trung học phổ thơng, kì thi
tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách

quan và công bằng; kết hợp kết quả kiểm tra đánh giá trong quá trình giáo dục
với kết quả thi”(trang 12)
Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09/06/2014 Ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của
Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản tồn diện giáo dục và
đào tạo cũng đã xác định:“Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và
đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực của người học; kết hợp
đánh giá cả quá trình với đánh giá cuối kì học, cuối năm học theo mơ hình của
các nước có nền giáo dục phát triển”(trang 3,4)
Vậy, đổi mới căn bản toàn diện là yêu cầu chung của giáo dục hiện nay.
Việc xây dựng, áp dụng những phương pháp dạy học mới, hướng tiếp cận mới
trong dạy học bộ môn để nâng cao hiệu quả dạy và học là vấn đề luôn được đặt
lên hàng đầu của mỗi cơ sở giáo dục nói riêng và của tồn ngành giáo dục nói
chung, từng bước thực hiện đề án giáo dục thay đổi chương trình SGK sau năm
2015, đưa chương trình giáo dục phổ thông từ hướng tiếp cận nội dung sang tiếp
cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học
được cái gì đến chỗ học sinh vận dụng được cái gì qua việc học.
Thực hiện nhiệm vụ giáo dục ấy, bản thân tơi với vai trị là một giáo viên,
trực tiếp giảng dạy mơn Ngữ văn tại Trường THPT Hoằng Hóa 4, nhận thấy một
thực tế: trong những năm trở lại đây, xu thế học lệch, học theo ban, chọn ngành
nghề theo khối đã tạo ra khơng ít khó khăn, bất cập trong việc lựa chọn môn học
ở các em học sinh. Các mơn xã hội thường bị coi nhẹ vì ít ngành nghề hấp dẫn,
nó chỉ được lựa chọn dành cho kì thi tốt nghiệp THPT. Trong khi đó, với u
cầu đổi mới thì mơn Ngữ văn trong nhà trường lại là một môn học công cụ,
đứng đầu trong việc phát triển các năng lực cơ bản ở người học. Không những
thế, xét về góc độ đặc thù mơn học, nó cịn có lợi thế để giáo dục tư tưởng, tình
cảm, và phát triển toàn diện về nhân cách cho học sinh. Vậy nên, với vai trò là
người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn ai hết
người giáo viên phải ln tìm kiếm, xây dựng các phương pháp học tập để phát
huy tính tích cực, tạo hứng thú, khơi dậy đam mê học tập ở các em.

Đứng trước yêu cầu của ngành về đổi mới chương trình giáo dục, đổi mới
cách kiểm tra đánh giá theo năng lực người học và đứng trước một thực tế của
người học là ngại học văn, chán đọc văn, xa rời văn bản...thì việc tìm ra một giải
pháp để thay đổi tư duy, thái độ của cả hai phía (người dạy và người học) là rất

skkn


1

cần thiết. Nhiều thầy cô giáo trong Tổ Ngữ văn của Nhà trường đã có những
đóng góp, sáng tạo mới mẻ, thiết thực, hiệu quả trong giảng dạy những năm học
gần đây. Bản thân tơi mong muốn tìm ra một giải pháp mang tính đột phá để các
em học sinh có thể chủ động tìm kiếm, giải mã văn bản một cách chủ động và
hứng thú, u thích góp phần nâng cao hiệu quả môn học.
Với những trăn trở như trên, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến “Hướng dẫn
học sinh Trung học phổ thông đọc hiểu văn bản khi soạn bài Ngữ văn ở nhà
góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy học văn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài nhỏ này, trong khuôn khổ của giờ học Ngữ văn, tôi mong muốn
các em học sinh sẽ xác định rõ động cơ học tập, xây dựng hứng thú học tập đối
với bộ mơn Văn nói riêng và các mơn học khác nói chung để cải thiện, nâng cao
kết quả học tập, tạo tiền đề tốt cho kì thi THPT quốc gia và định hướng nghề
nghiệp.
Giúp các em đọc - hiểu một văn bản bất kì thơng qua việc vận dụng các
kiến thức đã có sẽ tạo tính chủ động độc lập tìm kiếm tri thức và qua đó phát
triển những năng lực cơ bản của bản thân như năng lực giao tiếp tiếng Việt,
năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác... mà chương
trình giáo dục phổ thơng đề ra.
Với việc tìm ra những giải pháp trong q trình giảng dạy của mình, tơi

cũng mong muốn góp một kinh nghiệm nhỏ cho đồng nghiệp trong Tổ chun
mơn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến, nâng cao hiệu quả môn học cũng như
hiệu quả giáo dục của nhà trường những năm học tiếp theo.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: việc soạn bài của học sinh lớp 10, lớp 11 và lớp 12
Trường THPT Hoằng Hóa 4 và chương trình Ngữ văn 10, Ngữ văn 11, Ngữ văn
12 THPT.
Thời gian nghiên cứu và thực nghiệm: Khảo sát và triển khai việc hướng
dẫn đọc - hiểu văn bản thông qua soạn bài ở nhà của học sinh lớp 10A5, 11A5,
12A10 năm học 2021 – 2022.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát, thống kê.
- Phân tích, so sánh, đối chiếu.
- Kiểm tra, tổng hợp, đánh giá.
- Xây dựng phương án thực nghiệm - đối chứng.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Quan niệm về đọc - hiểu văn bản
Đọc - hiểu là một hoạt động đọc có sự tham gia của ý thức. Đọc - hiểu
chính là hiểu được nội dung văn bản, hiểu và đánh giá được ý đồ tác giả gửi
gắm, thấy được giá trị hình thức của văn bản. Đây là một hình thức giao tiếp đặc
biệt giữa người viết và người đọc. Bên cạnh việc cung cấp các tri thức về tự
nhiên, xã hội, nó cịn có khả năng bồi dưỡng tâm hồn, xây dựng nhân cách cho
con người.

skkn


1


Theo PGS.TS Nguyễn Quang Ninh thì đọc để nắm được nội dung ý nghĩa
của văn bản, hiểu được chiều sâu của văn bản và những điều mà văn bản muốn
đề cập đến đằng sau câu chữ. Còn GS.TS Nguyễn Thanh Hùng thì cho rằng bản
chất của đọc hiểu là nhận thức (nguồn Internet)
Năng lực đọc - hiểu không chỉ là năng lực giải mã các kí tự mà cịn bao
gồm các kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp, ngôn ngữ, cấu trúc văn bản và cách
trình bày văn bản. Nó là sự phản ánh những gì đã biết, đã có trước đó với những
thơng tin đọc được để suy luận ra thực tiễn, đưa ra hướng giải quyết phù hợp.
Như vậy, bên cạnh việc tiếp cận đọc - hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau
thì cuối cùng đọc hiểu cũng là một hoạt động học mà ở đó người đọc tri giác
được những gì đang đọc để làm tăng thêm kiến thức cho bản thân và sử dụng
chúng một cách hiệu quả trong cuộc sống. Cùng với sự phát triển của xã hội,
người ta đánh giá đọc hiểu như một năng lực - một năng lực nhận thức đặc biệt
về ngôn ngữ của mỗi cá nhân.
2.1.2. Quan điểm dạy đọc - hiểu theo định hướng năng lực cho học sinh
THPT
Theo Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo
định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp trung học phổ thông
của Bộ giáo dục và đào tạo năm 2014 đã cho thấy:
- Trong định hướng xây dựng chương trình và đổi mới SGK phổ thông
sau năm 2015 đã nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương
trình theo định hướng năng lực, trong đó có một số năng lực cốt lõi mà mọi học
sinh cần có để thích ứng với nhu cầu phát triển của xã hội. Các năng lực này liên
quan đến nhiều môn học, theo đó mỗi mơn học với đối tượng và thế mạnh riêng
của mình sẽ tập trung hướng đến một số năng lực nhất định.
- Môn Ngữ văn được xem là một môn học công cụ, môn học bắt buộc ở
cả 3 cấp, hướng tới sự hình thành và phát triển các năng lực đọc, viết tiếng Việt.
Để phát huy vai trị cơng cụ của mơn học thì phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học cũng đã có cái nhìn mới, trong đó có sự thay đổi về việc dạy đọc - hiểu
văn bản.

- Dạy đọc - hiểu văn bản đang là khâu đột phá mới trong dạy văn, học văn
hiện nay. Cách dạy - đọc hiểu mới này không nhằm truyền thụ kiến thức một
chiều cho học sinh bằng cảm nhận của giáo viên về văn bản được học mà hướng
đến việc học sinh tự đọc, tự tiếp cận, khám phá những vấn đề thuộc về nội dung
cũng như nghệ thuật của văn bản văn học và các văn bản khác văn học. Từ đó
hình thành cho các em năng lực tự học một cách tích cực, chủ động mang sắc
thái cá nhân. Năng lực đọc - hiểu của học sinh cịn được hiểu là sự tích hợp
những kiến thức và kĩ năng của các phân môn cũng như toàn bộ kĩ năng và kinh
nghiệm sống.
- Khi đọc - hiểu bất kì một văn bản nào các em cũng phải thực hiện được
các nhiệm vụ sau:
+ Tìm kiếm thơng tin từ văn bản.
+ Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối thông tin để tạo nên
những hiểu biết chung về văn bản.

skkn


1

+ Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản.
+ Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại
văn bản khác nhau, đáp ứng những mục đích học tập và đời sống.
- Cùng với sự thay đổi về cách dạy đọc - hiểu ở bộ mơn Ngữ văn, thì u
cầu đổi mới, kiểm tra đánh giá năng lực qua việc đọc hiểu văn bản của học sinh
cũng đã được Bộ GD&ĐT đặt ra và thực hiện từ những năm 2013 trở lại đây
trong các kì thi Đại học, thi THPT quốc gia, thi tốt nghiệp THPT năm học 2021,
2022. Ngay đến các Sở GD&ĐT cũng đã đưa phần đọc - hiểu vào trong cấu trúc
đề thi của các kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh mơn Ngữ văn (Sở GD&ĐT Thanh
Hóa năm 2018 - 2019 đã thực hiện).

Để học sinh có thể tiếp xúc với văn bản theo định hướng năng lực ở bộ
mơn Ngữ văn thì khâu soạn bài và chuẩn bị bài ở nhà của các em là rất cần thiết
và quan trọng. Nó khơng chỉ đánh giá độ chun cần, siêng năng của người học
theo quan niệm truyền thống mà cịn chứng minh việc học sinh có thể tiếp cận
và tự giải quyết những văn bản trước khi đến lớp một cách chủ động giúp cho
quá trình học tập trên lớp của các em đạt hiệu quả, các em có thể tự mình đánh
giá được năng lực mà bản thân đạt được ở mức độ nhận thức nào (nhận biết,
thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao…). Đồng thời giúp giáo viên có thể
nhận thấy các năng lực ở từng em từ đó giao nhiệm vụ cụ thể nhằm đánh giá,
kiểm tra năng lực của các em, nâng cao chất lượng học tập và chỉ tiêu bộ môn.
Để soạn bài có hiệu quả theo hướng đọc - hiểu văn bản của chương trình
đổi mới SGK thì việc tìm ra những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm giải
quyết một “bài tốn cho mơn Văn” lâu nay quả là một cái nhìn có tính đột phá
với bất kì thầy cơ giáo nào ln có tâm huyết nghề nghiệp. Hướng dẫn học sinh
đọc - hiểu văn bản từ khâu soạn bài sẽ giúp giáo viên tổ chức bài học trên lớp
đạt hiệu quả, đồng thời khơi dậy lại đam mê, hứng thú với cái đẹp trong chốn
văn chương, giúp các em có thể cân bằng các cảm xúc cá nhân, giải quyết các
vấn đề đời sống phức tạp, đa dạng, hướng tới vẻ đẹp Chân - Thiện - Mĩ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
2.2.1. Thực trạng chung
Chúng ta đều nhận thấy một thực tế rất rõ ràng là với sự phát triển như vũ
bão của công nghệ thơng tin, kiến thức khơng cịn là tài sản riêng của trường
học. Học sinh có thể tiếp nhận thơng tin, tri thức từ nhiều nguồn kênh khác
nhau. Các nguồn thơng tin phong phú, đa chiều mà người học có thể tiếp nhận
đã đặt giáo dục trước những bất cập và thử thách mới.
Tiếp đến, chúng ta đều thấy được sự lên ngơi của cơng nghệ giải trí, kéo
theo cơng nghệ nghe nhìn làm văn hóa nghe nhìn chiếm ưu thế, văn hóa đọc bị
suy giảm, dẫn tới học sinh khơng thích đọc văn, học văn. Một ngun nhân khác
xuất phát từ tính thực dụng của con người thời nay. Đó là hầu hết các bậc cha
mẹ, thậm chí ngay bản thân các thầy cô giáo đều định hướng cho con em mình

thi vào các trường/ngành khoa học tự nhiên, kinh tế … để sau này ra trường có
cơ hội tìm kiếm việc làm cao, chế độ đãi ngộ tốt, đáp ứng được nhu cầu cuộc
sống.Thế nhưng, mục đích bộ môn không phải chỉ hướng đến nghề nghiệp mà là

skkn


1

hướng đến việc làm người và hoàn thiện nhân cách cho người học, cao cả hơn là
hướng tới Chân - Thiện - Mĩ.
Mấu chốt của vấn đề này có lẽ nằm ở cả hai phía người học và người dạy.
Chỉ cần người học chán bỏ, người dạy thờ ơ, phó mặc theo xu thế chung là đã
làm cho chất lượng giáo dục bộ môn giảm sút. Giáo viên chỉ cần thiếu tâm huyết
là sự tìm tịi, tích cực chủ động áp dụng các phương pháp mới vào giảng dạy sẽ
không có. Mỗi giờ Tiếng Việt, Đọc văn, Làm văn nếu cứ rập ngun một khn
thầy nói - trị nghe, thầy giảng - trị chép thì sẽ vừa biến học sinh thành cái máy
sao chép thụ động, vừa triệt tiêu các năng lực tự học, năng lực cảm thụ thẩm mĩ,
năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo của học sinh. Các em theo đó quen được
cảm thụ hộ, làm hộ, sẽ rất lúng túng khi gặp phải một tình huống tương tự. Sự
tích tụ này lâu ngày làm nảy sinh tâm lí ngại học, sợ học đối với mơn học.
2.2.2. Thực trạng việc đọc – hiểu văn bản khi soạn bài của học sinh Trường
THPT Hoằng Hóa 4
Trong năm học 2021 - 2022 , tôi tiếp nhận 3 lớp :10A5; 11A15; 11A10.
Qua khảo sát, kiểm tra, đánh giá việc soạn bài của các em thì thấy khơng hiệu
quả: các em không biết cách đọc - hiểu một văn bản cho sẵn, không nhớ kiến
thức cũ, nhất là kiến thức Tiếng Việt và Làm văn, trả lời khơng có nội dung kiến
thức, cách trình bày văn bản xấu, lỗi chữ viết, không rõ bố cục bài văn….
Trước thực trạng như vậy, tôi đã mạnh dạn đưa ra phương án riêng cho
bản thân nhằm giúp các em có thể soạn bài một cách hiệu quả, khơng áp lực, đối

phó, gắn việc soạn với bài học trên lớp làm một, để vừa khắc sâu kiến thức vừa
tạo động lực giúp các em có thể thấy được bản thân có những tố chất mà lâu nay
mình khơng biết phát huy. Đề tài này tôi chỉ áp dụng và kiểm chứng đối với học
sinh của 3 lớp: 10A5; 11A5; 11A10 năm học 2021 – 2022 tại Trường THPT
Hoằng Hóa 4. Đặc biệt là hướng các em chủ động, tự tin khi bước vào các kì thi
học kì (I, II) và kì thi Tốt nghiệp THPT.
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Khảo sát phân loại đối tượng học sinh
Có thể nói đây là bước đầu tiên để thực hiện đề tài. Vì tính khả thi của đề
tài bắt đầu từ việc giáo viên phân loại các đối tượng học sinh để đưa ra giải pháp
phù hợp với từng em hay không. Việc phân loại học sinh sẽ giúp giáo viên có
cái nhìn bao qt tồn diện, tránh việc cào bằng các đối tượng mà giải pháp
nghiên cứu áp dụng không hiệu quả.
Để thực hiện việc phân loại này giáo viên cho học sinh làm bài kiểm tra
đọc - hiểu. Tôi làm thử 3 bài kiểm tra với các mức độ đề tương tự nhưng rút
ngắn thời gian làm bài của mỗi lần để xem phản ứng của học sinh. Hiệu quả của
việc phân loại này sẽ tạo ra một hiệu ứng nhanh chóng giúp giáo viên kiểm tra
được cả về số lượng lẫn chất lượng học sinh lớp mình giảng dạy.
Cụ thể của việc kiểm tra đánh giá dựa vào hai tiêu chí :
+ Về mức độ kiến thức cần đạt: nhận biết; thông hiểu; vận dụng thấp; vận
dụng cao.
+ Sự hứng thú đối với môn học: học sinh lười biếng, không soạn bài; học
sinh không hứng thú trên lớp.

skkn


1

2.3.2. Giáo viên hệ thống hóa lại các kiến thức cơ bản mà ở cấp dưới các em

đã được học để dễ ghi nhớ, vận dụng tốt trong quá trình tiếp cận văn bản mới
Ở bước này giáo viên yêu cầu học sinh ghi lại kiến thức theo bảng biểu
mà giáo viên đã hệ thống vào vở soạn văn, vì tất cả những kiến thức này có liên
quan trực tiếp đến bài đọc - hiểu.
Cụ thể, các kiến thức cần ghi nhớ:
- Kiến thức Tiếng Việt: từ loại tiếng Việt; cấu tạo từ; cấu tạo ngữ pháp;
các biện pháp tu từ; các phương châm hội thoại; các phương thức biểu đạt; các
phép liên kết; nghĩa tường minh và hàm ý…
- Kiến thức Làm văn: Các phương pháp lập luận; Kĩ năng viết đoạn văn;
Kết cấu đoạn văn; Kĩ năng viết bài văn nghị luận…
- Kiến thức Văn học: Văn học dân gian; Văn học trung đại Việt Nam; Văn
học hiện đại Việt Nam.
2.3.3. Giáo viên nghiên cứu và phân loại các văn bản trong chương trình để
hướng dẫn học sinh soạn bài hiệu quả, tạo hứng thú
Ở bước này, đòi hỏi người giáo viên phải thật sự tâm huyết. Vì lâu nay
việc soạn bài được giao phó cho học sinh. Các em soạn bài theo câu hỏi hướng
dẫn trong sách giáo khoa. Để thay đổi thói quen này và giúp học sinh không quá
áp lực, gây ra sự nhàm chán, bất mãn với mơn học thì giáo viên phải có một cái
nhìn mới và đánh giá mới trong cách soạn bài của các em dựa vào 3 phân môn
cụ thể: Tiếng Việt; Làm văn; Văn học.
Phân
môn

Văn học

Tiếng
Việt

Làm


Phân loại
Bài khái quát – văn học sử
Ví dụ:
- “Tổng quan văn học Việt
Nam” (Ngữ văn 10, tập 1).
- “Khái quát văn học Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến Cách
mạng tháng Tám 1945” (Ngữ
văn 11, tập 1).
Bài cung cấp kiến thức lí thuyết
Ví dụ:
- “Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ” (Ngữ văn 10, tập 1).
- “Ngữ cảnh” (Ngữ văn 11, tập
1).

Văn bản văn học
Ví dụ:
-“Cảnh ngày hè” - Nguyễn Trãi
(Ngữ văn 10, tập 1).
- “Tự tình” – Hồ Xuân Hương
(Ngữ văn 11, tập 1)
- “Vợ chồng A Phủ”– Tơ Hồi
(Ngữ văn 12, tập 2).
Bài thực hành

Ví dụ:
- “Thực hành về phép tu từ ẩn
dụ và hoán dụ” (Ngữ văn 10, tập
2).

- “Thực hành một số phép tu từ
ngữ âm” (Ngữ văn 12, tập 1).
Bài cung cấp kiến thức lí thuyết
Bài thực hành
Ví dụ :
Ví dụ :
- “Văn bản” (Ngữ văn 10, tập - “Luyện tập thao tác lập luận so
1).
sánh” (Ngữ văn 11, tập 1).

skkn


1

- “Nghị luận về một bài thơ, - “Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết
đoạn thơ” (Ngữ văn 12, tập 1).
bài trong văn nghị luận” (Ngữ
văn
văn 12, tập 2)
Việc phân loại này giúp giáo viên có thể soạn thảo hệ thống câu hỏi phù
hợp cho từng đối tượng học sinh và kiến thức cần nắm trong bài học.
2.3.4. Các bước hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản khi soạn bài
Bước 1: Đọc văn bản.
Ở bước này học sinh phải ghi nhớ:
- Tên bài cần đọc.
- Ghi lại thời gian đọc (việc này giúp học sinh tự kiểm tra được phản ứng
của mình khi đọc văn bản)
- Các phần cần đọc. Ví dụ: Đối với Văn bản văn học thì cần đọc: phần
Tiểu dẫn; phần Văn bản và phần Chú thích.

Bước 2: Trả lời câu hỏi
Nếu trước đây học sinh soạn bài dựa vào các câu hởi ở phần Hướng dẫn
học bài trong sách giáo khoa thì với phương án mới đưa ra giáo viên cần đặt ra
hệ thống câu hỏi phù hợp với mục đích mà mình đề ra cho bài học trên lớp, phát
huy được các năng lực ở từng học sinh, dù đó là học sinh yếu kém. Các câu hỏi
sẽ được ghi trên Phiếu học tập và yêu cầu học sinh kẹp, hoặc dán vào vở soạn
ngay bài cần soạn mới.
Các câu hỏi sẽ được giáo viên chuẩn bị và giao nhiệm vụ cho học sinh
vào cuối mỗi tiết học để học sinh chuẩn bị cho bài mới.
Bước 3: Sưu tầm các tài liệu khác có liên quan
Giáo viên có nhiệm vụ hướng dẫn, giới thiệu các tài liệu có liên quan đến
bài học mới để học sinh tự tìm kiếm và ghi vào vở soạn một cách ngắn nhất, dễ
nhớ nhất.
Ví dụ khi dạy về bài Khái quát văn học dân gian, giáo viên giao nhiệm
vụ cho từng nhóm học sinh sưu tầm về những tác phẩm mà các em đã biết hoặc
chưa biết như truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích….để có thêm kiến thức về bài
học.
Mục đích là để các em có cơ hội tìm kiếm những kiến thức cùng đề tài,
thể loại, kích thích sự tị mị, hứng thú ở các em, nâng cao hiểu biết của bản
thân.
Bước 4. Kiểm tra, đánh giá thường xuyên vấn đề soạn bài của các em
Song song với việc giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh soạn bài ở nhà thì
việc kiểm tra, đánh giá thường xuyên việc làm của các em để đôn đốc, nhắc nhở,
động viên, khích lệ kịp thời cũng rất quan trọng. Vấn đề này được coi là nghệ
thuật sư phạm của người giáo viên. Một câu phê bình kịp thời, một câu khen
đúng lúc sẽ tạo cho học sinh tâm thế học tập cũng như niềm vui mà các em nhận
được trong thành quả học tập của mình.
Sự kiểm tra đánh giá thường xuyên của giáo viên còn thể hiện sự quan
tâm đặc biệt đối với từng học sinh. Sau mỗi tiết học chỉ cần giáo viên thu vở của
5 - 7 học sinh và trả lại vào 15 phút sinh hoạt đầu giờ hôm sau kèm với lời nhận


skkn


1

xét cụ thể cho từng em. Các em sẽ nhận được lời nhận xét đánh giá cho riêng
mình và như thế các em sẽ thấy mình trở thành đặc biệt trong mắt thầy - cô.
2.3.5. Các giải pháp cụ thể
2.3.5.1. Tạo tâm thế soạn bài trước khi đến lớp
Học sinh là người chủ động về mặt thời gian học tập của mình. Bất cứ lúc
nào cảm thấy thoải mái nhất thì soạn bài, nhưng phải thực sự nghiêm túc, khơng
qua loa cho xong việc. Học sinh có thể tự mình đối thoại với văn bản để tạo thói
quen phản biện, dù ban đầu rất khó khăn, nhất là với học sinh yếu kém. Các em
phải ln ghi nhớ rằng “mình có thể làm được”.
Giáo viên phải sẵn sàng lắng nghe những khó khăn của các em, giúp các
em tự mình gỡ rối, tạo tâm lí được chia sẻ, thân thiện trong học tập. Trên lớp
không tạo áp lực, cho cơ hội để các em cố gắng và thay đổi. Phối kết hợp với
giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh để phát huy năng lực ở các em và điều chỉnh
kịp thời những vấn đề không mong muốn.
2.3.5.2. Linh hoạt, đa dạng câu hỏi soạn bài
Để học sinh không nhàm chán khi soạn văn, thì bên cạnh việc tạo phương
pháp học tập trên lớp cũng cần linh hoạt, đa dạng hóa câu hỏi khi soạn bài. Câu
hỏi soạn bài không nhất thiết phải là hoàn toàn từ câu hỏi trong sách mà giáo
viên phải biên soạn câu hỏi cụ thể cho từng bài, giao nhiệm vụ phù hợp đối
tượng. Đây chính là giải pháp mới tôi muốn áp dụng để tránh việc các em sao
chép mà khơng có kiến thức, khơng tự mình giải quyết được vấn đề. Có điều đây
cũng là phần khó nhọc nhất đối với giáo viên, cần sự tâm huyết và quyết tâm
cao.
Cụ thể về hệ thống câu hỏi mà tôi đưa ra để hướng dẫn học sinh soạn bài

theo hướng mới, góp phần giúp học sinh có thể tự mình làm tốt bài đọc - hiểu
văn bản:
Một là: Câu hỏi điền khuyết theo mẫu.
Ví dụ khi tìm hiểu về tác giả, giáo viên tạo phiếu học tập điền khuyết để
học sinh tự mình tìm kiếm thơng tin hoàn thành kiến thức cần ghi nhớ . Hiệu quả
là trên lớp giáo viên chỉ nhấn mạnh, khắc sâu những điểm cần nhớ.

1. Tác giả
a. Cuộc đời
- Năm sinh…………, năm mất…………..
- Tên khai sinh………..
- Quê quán…………
- Sự kiện chính trong cuộc đời.........
b. Sự nghiệp sáng tác
- Các tác phẩm chính..................
- Nội dung của các tác phẩm đó.......
- Nghệ thuật đặc sắc ......
2. Tác phẩm ( Văn bản học )
- Xuất xứ ....
- Hoàn cảnh ra đời .....
- Thể loại......

skkn


1

Hai là: Câu hỏi tình huống có vấn đề
Trong văn bản có rất nhiều tình huống có vấn đề, dựa vào đó giáo viên đặt
ra câu hỏi và yêu cầu học sinh lí giải theo suy nghĩ của bản thân. Mấu chốt của

dạng câu hỏi này không nằm ở đúng - sai mà ở việc học sinh lí giải theo quan
điểm của các em có hợp lí khơng sau đó giáo viên sẽ định hướng để các em có
cái nhìn đúng đắn trong suy nghĩ cũng như hành động với tình huống đó.
Ví dụ:
- Khi dạy bài Hai đứa trẻ – Thạch Lam (Ngữ Văn 11, tập 1), giáo viên có
thể đặt câu hỏi: Tại sao nói trong văn bản Liên lại là người khổ nhất. Ý kiến của
em?
- Hay khi dạy Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi (Ngữ văn 12, tập 2), giáo viên
có thể đặt câu hỏi: Tại sao bao nhiêu năm làm dâu nhà thống lí Pá Tra, mà chỉ
có mùa xuân năm nay Mị mới khao khát được đi chơi, khao khát được sống như
bao người khác?
Ba là: Câu hỏi gắn với thực tiễn
Việc gắn nội dung bài học với thực tiễn là một trong những yêu cầu cơ
bản của đổi mới trong dạy học hiện nay. Bất cứ môn học nào cũng phải xây
dựng theo hướng này để học sinh có thể vận dụng những kiến thức vào giải
quyết những vấn đề có trong đời sống.
Ví dụ:
- Khi dạy bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Cao Bá Quát (Ngữ văn 11, tập
1), giáo viên đặt câu hỏi: Từ hình ảnh người sĩ tử trong bài thơ, hãy nói về con
đường lập Chí, lập Danh của thanh niên thời nay (hãy chia sẻ ý kiến của
anh/chị bằng một đoạn văn từ 8 đến 10 dòng).
- Khi dạy bài Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm (Ngữ văn 10, tập 1), giáo viên
có thể đặt câu hỏi: Anh/chị có thích kiếu sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm?
Kiểu sống nhàn của giới trẻ hiện nay là gì?
Bốn là: Câu hỏi “Ơ chữ văn học”
Có thể nói đây là câu hỏi để tổ chức trò chơi rất tốt trên lớp mà học sinh
nào cũng hào hứng. Giáo viên soạn ra một ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương
ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng
ngang, học sinh sẽ tìm ra được từ chìa khóa ở ơ hàng dọc. Đây chính là nội dung
cần nắm về tác giả hoặc tác phẩm.

Ví dụ:
- Khi dạy về bài Câu cá mùa thu – Nguyễn Khuyến (Ngữ văn 11, tập 1),
giáo viên đặt câu hỏi bằng ô chữ: Đọc phần Kết quả cần đạt, Tiểu dẫn, đọc lướt
bài thơ Thu điếu và hồn thành ơ chữ theo gợi mở sau để tìm hiểu chung về tác
giả, tác phẩm.
Mỗi một ô chữ sẽ gợi dẫn học sinh về kiến thức bài học khác nhau, ít nhất
với học sinh khá giỏi sẽ kích thích sự tị mị ở các em và đặt ra sự phản biện cho
chính mình bằng những câu hỏi “Tại sao”?
Năm là: Câu hỏi hùng biện
Ở dạng câu hỏi này, đầu tiên là dùng cho học sinh khá giỏi, nhưng vẫn có
thể hướng tới đối tượng học sinh yếu hơn để các em tập làm quen với mức độ

skkn


1

câu hỏi hùng biện đơn giản hơn. Câu hỏi hùng biện sẽ giúp cho học sinh phát
huy được khả năng giao tiếp tiếng Việt và khả năng tranh biện vấn đề, nhất là
vấn đề gặp trong cuộc sống. Câu hỏi hùng biện cũng là dạng câu hỏi vừa gắn
kiến thức sách vở với kiến thức đời sống.
Ví dụ:
- Khi dạy bài Vội vàng – Xuân Diệu (Ngữ văn 11, tập 2), giáo viên có thể
hỏi: “Sống” là câu hỏi lớn mà ai và thế hệ nào cũng tự hỏi mình. “Sống” là câu
trả lời luôn mở, ai và thế hệ nào cũng cần có cho mình lời đáp. Qua “Vội vàng”
của Xuân Diệu và cuộc sống của bản thân hãy chia sẻ suy nghĩ của anh/chị về
một quan niệm sống tích cực (chia sẻ bằng một đoạn văn từ 10 đến 15 dịng).
Sáu là: Câu hỏi tìm kiếm từ ứng dụng cơng nghệ thơng tin.
Phải nói rằng việc tìm kiếm tri thức từ công nghệ thông tin hiện nay là
phổ biến và dễ dàng. Chỉ cần học sinh gõ từ chìa khóa cần tìm là đã tìm được cái

mình muốn. Việc soạn bài của học sinh cũng vậy. Giáo viên giao bài tập cho học
sinh thì các em khơng cần suy nghĩ mà cứ gõ Google là việc soạn bài nhẹ tênh.
Chính điều này đã khiến tơi phải suy nghĩ khi bài soạn các em cứ hồn thành,
thậm chí rất tốt, trong khi ra đề đọc hiểu từ chính văn bản đó các em lại làm
khơng được, khơng hiểu gì. Vậy nên việc tìm kiếm từ cơng nghệ thơng tin chỉ là
những tri thức mới mang tính thời sự, gần nhất đang được xã hội quan tâm.
Ví dụ: Khi dạy về Vợ nhặt – Kim Lân (Ngữ văn 12, tập 2), giáo viên đặt
câu hỏi: Tìm, sưu tầm những hình ảnh, những bài báo viết về nạn đói năm 1945
ở nước ta. Qua đó anh/chị hãy thể hiện quan điểm và suy nghĩ của mình khi
đang được hưởng một cuộc sống của ngày hôm nay?
Bảy là: Câu hỏi vẽ sơ đồ tư duy
Dạng câu hỏi này thường sử dụng sau khi kết thúc bài học nhằm ghi nhớ
kiến thức cho học sinh. Đây là dạng câu hỏi phát huy trí tuệ ở học sinh có học
lực khá. Qua việc vẽ sơ đồ tư duy học sinh có thể nắm bao quát được kiến thức
trong bài, dễ nhớ, nhớ lâu, và nhớ có hệ thống.
Tuy nhiên, để học sinh có thể hình dung trước bài học, giáo viên có thể
u cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy theo cách cảm nhận của riêng mình về nội
dung kiến thức sẽ học. Nếu học sinh chưa định hình đúng hướng các em sẽ khắc
phục kiến thức đó sau khi học xong
Ví dụ: Khi học tác phẩm Thương vợ - Tú Xương (Ngữ văn 11, tập 1),
giáo viên yêu cầu học sinh vẽ hai sơ đồ tư duy về việc phân tích bài thơ hoặc
phân tích hình ảnh bà Tú.
Tương tự, khi học đến các tác phẩm văn xi, giáo viên có thể yêu cầu
học sinh tóm tắt nhân vật theo sơ đồ tư duy: như nhân vật Huấn Cao (Chữ
người tử tù – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, tập 1); nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo –
Nam Cao, Ngữ văn 11, tập 1); nhân vật Mị, A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi,
Ngữ văn 12, tập 2)....
2.3.5.3. Lồng ghép tranh ảnh, trị chơi
Đây cũng là cách soạn bài có tình huống, tạo sự thú vị, và hứng sáng tạo
cho các em. Tuy nhiên khi giao nhiệm vụ soạn bài này, giáo viên phải xem xét

rất kĩ đối tượng học sinh để tránh khơng đạt được mục đích.

skkn


1

Ví dụ:
- Khi dạy bài Chí Phèo – Nam Cao (Ngữ văn 11, tập 1), giáo viên giao
nhiệm vụ cho học sinh theo nhóm với yêu cầu: Diễn kịch theo từng ngữ cảnh: tổ
1 diễn cảnh Chí Phèo vừa đi vừa chửi; tổ 2 diễn cảnh Chí Phèo đến ăn vạ nhà
Bá Kiến; tổ 3 Chí Phèo diễn cảnh Chí Phèo gặp thị Nở; tổ 4 diễn cảnh Chí Phèo
địi lương thiện (lồng ghép những phân đoạn diễn của các em và việc tìm hiểu
nhân vật).
- Khi dạy đến văn bản Tấm Cám (Ngữ văn 10, tập 1), giao nhiệm vụ cho
các em đóng kịch đoạn đầu, khi Tấm cịn ở nhà và bị mẹ con Cám hành hạ.
2.3.6. Câu hỏi soạn bài minh họa
2.3.6.1. Đối với văn bản văn học (Ngữ văn 11 và Ngữ văn 12)
* Bài Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng
tháng Tám 1945 (Ngữ văn 11, tập 1)
- Phiếu học tập 1:
Câu hỏi 1. Đọc kĩ văn bản và cho biết văn bản đề cập đến những nội dung nào?
Vẽ sơ đồ tư duy những kiến thức cần nắm của bài học.
Câu hỏi 2. Kể tên những tác phẩm văn học từng giai đoạn.
Câu 3. Kể tên những tác phẩm sẽ học trong chương trình Ngữ văn 11 thuộc thời
kì văn học này
- Phiếu học tập 2:
Câu hỏi: Trong chương trình văn học Ngữ văn 9 em đã được học những tác
phẩm văn học Việt Nam hiện đại nào (kể tên khoảng 3 - 4 tác phẩm) và cho biết
em thích tác phẩm nào nhất, vì sao?

* Bài Vội vàng – Xuân Diệu (Ngữ văn 11, tập 2)
- Phiếu học tập 1:
Câu hỏi 1. Đọc phần Tiểu dẫn và văn bản rồi hồn thành ơ chữ sau bởi các câu
hỏi từ Hàng ngang 1 - 7?
Hàng ngang 1. Đây là quê nội của thi sĩ Xuân Diệu.
Hàng ngang 2. Xuân Diệu là nhà thơ “... trong các nhà thơ mới”.
Hàng ngang 3. Quê mẹ của thi sĩ Xuân Diệu ở.....
Hàng ngang 4. Đây là tên một tác phẩm văn xi của Xn Diệu.
Hàng ngang 5. Xn Diệu có một giọng thơ sôi nổi và ...
Hàng ngang 6. Đây là tên một tập thơ ra đời năm 1960 của Xuân Diệu.
Hàng ngang 7. Tập thơ ra đời năm 1945 của Xuân Diệu có nhan đề là ...
1
2
3
4
5
6
7

skkn


1

Câu hỏi 2. Cho biết từ chìa khóa trong ơ chữ là gì? Từ chìa khóa đó có gợi cho
em suy nghĩ về thi sĩ Xuân Diệu. Tập giới thiệu bằng lời những điều em biết về
nhà thơ
- Phiếu học tập 2:
Câu hỏi 1. Nhan đề bài thơ có gì đặc biệt?
Câu hỏi 2. Ai là người đang bộc lộ cảm xúc trong bài thơ? Người đó hiện ra qua

đại từ nào?
Câu hỏi 3. Bài thơ có thể chia thành mấy đoạn? Nêu nội dung chính của mỗi
đoạn.
- Phiếu học tập 3:
Câu hỏi 1. Đọc 4 câu đầu và cho biết “Tơi” ước muốn điều gì? Cảm nghĩ của
anh/chị về điều ước ấy của thi sĩ?
Câu hỏi 2. Đọc 7 câu tiếp và cho biết khu vườn mùa xuân hiện lên với những
hình ảnh nào? Những hình ảnh ấy được cảm nhận bằng những giác quan nào?
Câu 3. Anh/chị có ấn tượng gì với hình ảnh so sánh: “ tháng giêng ngon như
một cặp mơi gần”.
Câu 4. Anh/chị hiểu gì về hai câu thơ: “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một
nửa/Tơi khơng chờ nắng hạ mới hồi xn.”
- Phiếu học tập 4:
Đọc 17 câu tiếp và cho biết:
Câu 1. Gạch chân các từ ngữ chỉ bước đi của thời gian.
Câu 2. Đọc lại bài “Cáo bệnh bảo mọi người” của Mãn Giác Thiền Sư (Ngữ văn
10, tập 1) và so sánh quan niệm thời gian của Xuân Diệu với quan niệm của
người xưa.
Câu 3. Theo thời gian, vạn vật đã biến đổi như thế nào (những từ ngữ thể hiện).
Câu 4. Câu thơ nào thể hiện sự giục giã của thi sĩ.
- Phiếu học tập 5:
Đọc 9 câu cuối và cho biết
Câu 1. Những động từ và tính từ được nhắc đến trong các câu thơ cuối.
Câu 2. Sử dụng gạch chéo để xác định nhịp ngắt của các câu thơ trong đoạn. Và
đọc diễn cảm đoạn thơ.
- Phiếu học tập 6:
“Sống” là câu hỏi lớn mà ai và thế hệ nào cũng tự hỏi mình. “Sống” là
câu trả lời ln mở, ai và thế hệ nào cũng cần có cho mình lời đáp. Qua “Vội
vàng” của Xuân Diệu và cuộc sống của bản thân hãy chia sẻ suy nghĩ của
anh/chị về một quan niệm sống tích cực (chia sẻ bằng một đoạn văn từ 10 đến

15 dòng).
* Bài Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi (Ngữ văn 12).
- Phiếu học tập 1:
Câu 1. Dựa vào nội dung đoạn trích được học, tái hiện lại cuộc đời nhân vật Mị
và A Phủ bằng một đoạn kịch (10 phút).
Câu 2. Tóm tắt cuộc đời của Mị và A Phủ bằng sơ đồ tư duy.
- Phiếu học tập 2:

skkn


1

Câu 1. Tìm những chi tiết nói về cuộc đời làm dâu của Mị. Qua những chi tiết
ấy em có những suy nghĩ gì về cơ gái vùng cao ấy.
Câu 2. Đọc đoạn văn nói về Mị khi những đêm tình mùa xn về trên núi cao và
cho biết:
- Khơng khí mùa xuân được miêu tả với những chi tiết nào?
- Mị đã có những biểu hiện thay đổi nào trong đêm tình mùa xuân ấy
- Mị hành động như thế nào khi muốn đi chơi?
- Mị có đi chơi được khơng? Tại sao
Câu 3. Đọc đoạn văn nói về hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cho biết:
- Trước khi cắt dây trói cứu A Phủ Mị có biểu hiện tâm lí như thế nào?
- Hành động cắt dây trói cho A Phủ được miêu tả ra sao?
- Sau khi cắt dây trói cho A Phủ thì Mị có phản ứng gì?
- Lần chạy trốn này của Mị có thành cơng khơng? Nó nói lên điều gì về những
con người vùng cao này?
- Phiếu học tập 3:
Đọc những đoạn văn nói về A Phủ và cho biết:
Câu 1. Cuộc đời, số phận của A Phủ có gì đặc biệt, có giống như Mị khơng?

Câu 2. Tính cách, phẩm chất của A Phủ trước khi bị bắt làm nô lệ và sau khi bị
bắt vào nhà thống lí Pá Tra.
- Phiếu học tập 4:
Từ hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy cho biết nghệ thật xây dựng nhân vật
của nhà văn có gì độc đáo:
- Cách giới thiệu nhân vật có gì đặc biệt (so sánh với cách giới thiệu nhân vật
Chí Phèo của Nam Cao).
- Xây dựng tính cách (tính cách của Mị và A Phủ có giống nhau khơng).
- Miêu tả tâm lí (nét tâm lí phản kháng của nhân vật Mị).
2.3.6.2. Đối với văn bản Tiếng Việt
* Bài Thực hành về thành ngữ, điển cố.
- Phiếu học tập 1: Đọc kĩ bài tập 1;2;3. (SGK tr66) và bài tập 4;5 (SGK tr67)
rồi thực hiện những yêu cầu nêu ở đề bài.
- Phiếu học tập 2:
Câu 1. Giải thích nghĩa và đặt câu với mỗi thành ngữ sau:
- Mẹ trịn con vng
- Nấu sử sơi kinh
- Nước đổ đầu vịt
- Con nhà lính, tính nhà quan...
Câu 2. Tìm hiểu ý nghĩa và đặt câu với mỗi điển cố sau:
- Gót chân A-sin.
- Đẽo cày giữa đường.
- sức trai Phù Đổng.
- Phiếu học tập 3:
- Em hiểu thế nào là thành ngữ, điển cố?
* Bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt

skkn



1

- Phiếu học tập 1: Đọc kĩ văn bản Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và cho biết
bài học giúp anh/chị nắm được những kiến thức nào?
- Phiếu học tập 2: Hãy cho biết khi ở nhà, anh/chị thường nói chuyện với
những ai, khơng khí của những cuộc nói chuyện đó?
- Phiếu học tập 3: Hãy đọc một bài thơ, một câu chuyện mà anh/chị yêu thích
và cho biết anh/chị đang giao tiếp với ai trong đó, giao tiếp về vấn đề gì?
2.3.6.3. Đối với văn bản Làm văn (Ngữ văn 10)
* Bài Văn bản
- Phiếu học tập 1: Kể tên 2 văn bản khác văn bản của bộ môn văn trong chương
trình học lớp 10 (Ví dụ : mơn Sử, môn GDCD...).
- Phiếu học tập 2: Đọc kĩ các bài tập trong văn bản SGK và cho biết bài Văn
bản đề cập đến mấy nội dung?
- Phiếu học tập 3: Nêu cấu trúc của một bài văn mà các em thường viết?
................................
Như vậy, hệ thống câu hỏi soạn bài chủ yếu tập trung ở văn bản Văn học.
Sự đa dạng, phong phú của câu hỏi cũng nằm trong các văn bản đó, cịn ở các
văn bản Làm văn và Tiếng Việt cơ bản đều đi từ bài tập đọc - hiểu rồi rút ra kết
luận về kiến thức cần nhớ nên phần hướng dẫn sẽ đơn giản hơn. Giáo viên chủ
yếu tập trung ở phần câu hỏi cho các tác phẩm Văn học để gợi sự hứng thú và
soạn bài hiệu quả ở học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Năm học 2021 – 2022, tôi áp dụng thực nghiệm và kiểm chứng ở các lớp
10A5, 11A5, 11A10
Kết quả khảo sát kiểm chứng như sau:
- Kết quả khảo sát về hứng thú đối với sự thay đổi cách soạn văn cũ theo
hướng đọc - hiểu văn bản bằng hệ thống câu hỏi mới.
Lớp


Sĩ số

Đối tượng
khảo sát

10A5
11A5
11A10

40
39
46

ĐC
TN
TN

Hứng thú với cách
soạn mới

SL
18
39
46

Không hứng thú với
cách soạn mới

%
45

100
100

SL
22
0
0

%
55
0
0

- Kết quả kiểm tra việc soạn bài của học sinh:
Lớp

Sĩ số

Đối tượng

Soạn bài tích cực
SL

%

Soạn bài khơng tích
cực
SL
%


10A5
40
ĐC
16
40
24
11A5
39
TN
36
92,3
3
11A10
46
TN
46
100
0
- Kết quả kiểm tra nhận thức qua bài đọc – hiểu văn bản:
Lớp

Sĩ số

Đối tượng

10A5
11A5

40
39


ĐC
TN

60
7,7
0

Điểm
1-3

4-6

7 -8

9 - 10

3
0

25
2

12
27

0
10

skkn



1

11A10
46
TN
0
8
23
15
Dựa vào kết quả thực nghiệm trên cho thấy việc soạn bài theo hướng mới
đã cho kết quả học tập của học sinh tốt hơn. Các em khơng cịn thấy lúng túng
với việc tiếp nhận một văn bản mới mà ít nhất cũng biết tự mình trả lời các câu
hỏi sát vấn đề, tiếp thu kiến thức một cách chủ động; làm bài khoa học, sáng tạo.
Như vậy có thể khẳng định rằng sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đưa ra có
tác dụng tới việc nâng cao chất lượng học tập và giáo dục cho học sinh trong
nhà trường.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Là một giáo viên tâm huyết thì bất cứ thầy cơ nào đứng lớp cũng đều có
một mong muốn là được học sinh tin tưởng và u thích mơn học của mình. Tơi
cũng vậy, trong những năm giảng dạy tại trường THPT Hoằng Hóa 4, tơi cũng
đã ln cố gắng để tìm ra những giải pháp tốt nhất nhằm nâng cao hiệu quả môn
học và chất lượng giáo dục chung của nhà trường, đặc biệt là chất lượng thi tốt
nghiệp và xét tuyển đại học.
Mỗi khi phát phiếu học tập cho các em soạn bài, tôi thấy các em rất hứng
thú với sự đa dạng của câu hỏi, nhất là câu hỏi trị chơi ơ chữ. Vì các em có cảm
giác như một cuộc thi, mà kiến thức bài học lại rất cụ thể. Những câu hỏi mang

tính tình huống, ban đầu các em lí giải rất ngây ngô nhưng dần dần các em cũng
đã định hình được kiến thức cần có trong đó, nhất là với các em yếu, còn với
những em khá giỏi thì khả năng hùng biện cho kiểu câu hỏi đó cũng tốt hơn, các
em viết mạch lạc, sáng rõ hơn.
Ngoài ra còn thu hút các em vào việc diễn xướng tác phẩm, đưa tác phẩm
ra đời sống với đủ loại cung bậc cảm xúc. Các em cảm thấy thích thú với việc
được là chính mình, làm điều mình thích và được người khác trân trọng.
Đối với các thầy cô trong Tổ chun mơn thì đều đồng ý rằng việc soạn
bài theo hướng mới từ việc soạn thảo câu hỏi nơi người thầy, người cơ là rất
hay, có tính sáng tạo, có thể phát triển những năng lực mà lâu nay các em trì trệ,
bỏ rơi nó. Nhưng khó khăn lớn nhất cho việc thực hiện đề tài này chính là vấn
đề đầu tư tâm - trí của người Thầy. Tơi mong sao các thầy cơ giáo sẽ góp chút
tâm sức để có thể làm điều mình muốn vì học trị của mình, đưa chất lượng giáo
dục của nhà trường sang một bước tiến mới, được học sinh và nhân dân tin yêu.
3.2. Kiến nghị

skkn


1

Để việc học tập của học sinh và quá trình giảng dạy của giáo viên đạt hiệu
quả cao, tơi kính đề nghị Nhà trường và Tổ chuyên môn đưa các giải pháp mang
tính sáng kiến của các giáo viên vào sinh hoạt chuyên đề trong các buổi họp tổ,
nhằm kịp thời điều chỉnh những hạn chế, khó khăn bất cập khi thực hiện, phát
huy những mặt tích cực giúp các giáo viên có nhiều hơn các giải pháp cụ thể,
hồn thành tốt nhiệm vụ của mình trong giảng dạy.
Trên đây chỉ là một kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình dạy học mơn
Ngữ văn. Tơi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và Hội
đồng khoa học giáo dục nhà trường để đề tài được hoàn thiện hơn, áp dụng vào

giảng dạy học tập cho tất cả các khối lớp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 02 tháng 6 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết khơng sao chép nội dung của người
khác

Lương Thị Bình

skkn


1

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ sách giáo khoa Ngữ văn 10,11,12 - NXB Giáo dục và Đào tạo, 2006 2013.
2. Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng 10,11,12 - NXB Giáo dục Việt Nam
3. Tài liệu bồi dưỡng thay sách giáo khoa Ngữ văn 10,11,12 - Bộ GD&ĐT,
2006 - 2009.
4. Phương pháp dạy học Văn, Phan Trọng Luận - NXBĐHQGHN, năm 2006
5. Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông (Tập 1; 2),
Phan Trọng Luận - Nhà xuất bản giáo dục, năm 2000.
6. Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn cấp THPT - 2014 của Bộ
GD&ĐT.
7. Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản văn chương qua hệ thống phiếu học
tập Lớp 10,11,12 (Tập 1, Tập 2) Phạm Thị Thu Hương (chủ biên) - Nhà xuất

bản Đại học sư phạm, năm 2018.
8. Các trang web:
- Hiểu đúng về nội dung đọc hiểu văn học.
- GS. Trần Đình Sử: Đọc hiểu văn bản - khâu đột phá trong
nội dung và phương pháp dạy văn.
Cth.edu.vn - Tổng quan về kỹ năng đọc và đọc hiểu.
- Phương pháp dạy đọc hiểu văn bản.
- Sáng kiến kinh nghiệm môn văn.

skkn


1

DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
KHOA HỌC NGÀNH GIÁO DỤC TỈNH THANH HÓA ĐÁNH GIÁ
Tên đề tài sáng kiến

Năm Xếp Số, ngày,tháng, năm của Quyết
cấp loại định công nhận, cơ quan ban
hành Quyết định
2013 C
QĐ số 743/QĐ- SGD&ĐT ngày
05/11/2013

Rèn luyện kĩ năng đọc văn bản
thơ cho học sinh góp phần năng
cao hiệu quả trong giờ dạy văn
Phương pháp ôn tập dạng đề đọc 2016 B
– hiểu cho học sinh trung học

phổ thông
Rèn luyện kĩ năng làm dạng đề
2018 C
nghị luận so sánh văn học cho
học sinh trung học phổ thông
Vận dụng kiến thức liên môn
2021 C
trong dạy học văn bản “ Đất
Nước”( trích trường ca “ Mặt
đường khát vọng”) của Nguyễn
Khoa Điềm

skkn

QĐ soos972/QĐ- SGD&ĐT
ngày 28/11/2016
QĐsố 1455/QQĐ- SGD&ĐT
ngày 26/11/2018
QĐ số 1362/QĐ-SGD&ĐT
ngày 05/11/2021



×