Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Skkn một số biện pháp tích cực nhằm nâng cao nhận thức và văn hóa ứng xử trước hành vi miệt thị học đường cho học sinh trường thpt như thanh 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.57 KB, 21 trang )

1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong mơi trường học đường, ngày càng nhiều học sinh đang trực tiếp hoặc
gián tiếp hạ thấp giá trị và sự tự tin của các bạn khác thông qua hành vi miệt thị.
Những bạn học sinh có hành vi miệt thị dù vơ tình hay ác ý đều không ý thức
được những tác hại mà chính các bạn đang gây ra. Cịn phản ứng của các nạn
nhân chủ yếu là thụ động, im lặng chịu đựng; suy nghĩ tiêu cực dẫn đến những
hành động tiêu cực; một số ít chọn hành vi đánh lại người chế nhạo mình.
Tiến hành khảo sát 118 học sinh của ba lớp 10B3, 11C4 và 12A6, đại diện
học sinh 3 khối của Trường THPT Như Thanh 2 và kết quả cho thấy, có đến
76% học sinh gặp phải hành vi này, trong đó có 32,4% học sinh bị rất thường
xuyên, chủ yếu tập trung vào những khuyết điểm về ngoại hình (như vóc dáng,
mặt, da, eo, mơng, đùi, chân, tay, răng); về giới tính (ái, bê đê,…); về trí tuệ (óc
lợn, đầu bị, khơng có não,…); về hồn cảnh gia đình (khuyết tật, thằng mồ cơi,
đứa con hoang, nhà quê),…
Thực tế trên cho thấy, xuất phát từ những cái nhìn khơng thiện cảm về phía
bạn, học sinh sẽ tìm cách kì thị, bơi nhọ, lăng mạ, xúc phạm lẫn nhau nhằm mục
đích gây tổn hại cả về thể chất lẫn tinh thần. Thậm chí, do ảnh hưởng của thời
kỳ cách mạng cơng nghệ 4.0, sự lan truyền chóng mặt của mạng xã hội, những
hành vi miệt thị không chỉ dừng lại ở suy nghĩ, phán xét mà còn được các em
học sinh bêu rếu, dè bỉu, thách thức nhau trên mạng xã hội. Chính điều này là
một trong những nguyên nhân dẫn đến nạn bạo lực học đường ngày càng gia
tăng, gây bất ổn xã hội và đó chính là mầm mống của tội ác. Dù cho những
người là chủ thể của hành vi miệt thị chưa nhận thức được.
Trong khi đa số học sinh là nạn nhân của hành vi miệt thị học đường thì
chưa có các kĩ năng ứng xử tích cực hoặc các kĩ năng ấy chỉ ở mức trung bình,
thậm chí là yếu.
Như vậy, dù ở thời đại nào, ở bất kì nền giáo dục nào thì những nhu cầu cơ
bản của con người cũng cần phải được đặt lên trên hết. Đó là nhu cầu được an
tồn, nhu cầu được u thương, được tơn trọng, được thấu hiểu, được cảm thơng
và được có giá trị. Chính vì vậy, việc nâng cao nhận thức cho học sinh và rèn


những kĩ năng ứng xử tích cực, có văn hóa trước những tác động tiêu cực của
hành vi miệt thị là điều vô cùng cần thiết. Chỉ khi nào con người sống với nhau
bằng tình yêu thương, chỉ khi nào con người đối xử với nhau xuất phát từ sự
chân thành - sẻ chia - trách nhiệm thì khi đó mới tạo ra một xã hội tốt đẹp đầy
tính nhân văn; con người thực sự khỏe mạnh khi có một đời sống tâm lí lành
mạnh. Và tất cả những điều ấy phải được hình thành, bồi đắp ngayc từ nền tảng
giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường. Chính vì vậy tơi quyết định chọn viết
sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp tích cực nhằm nâng cao nhận thức
và văn hóa ứng xử trước hành vi miệt thị học đường cho học sinh trường
THPT Như Thanh 2”.

1

skkn


1.2. Mục đích nghiên cứu
- Những giải pháp đề ra trong sáng kiến nhằm giúp học sinh trường THPT
Như Thanh 2 nâng cao hiểu biết, nhận thức về tác hại của hành vi miệt thị,
hướng bản thân khơng hình thành thói quen miệt thị người khác.
- Bên cạnh đó, sáng kiến sẽ còn giúp trang bị cho các bạn những kiến
thức, những kỹ năng mềm để bảo vệ bản thân khi trở thành nạn nhân của hành vi
miệt thị.
- Đặc biệt, việc nâng cao nhận thức và văn hóa ứng xử trước hành vi hành
vi miệt thị ở lứa tuổi học sinh THPT sẽ tạo ra được đội ngũ tuyên truyền viên
tích cực, góp phần xây dựng nhà trường thân thiện và xã hội nhân văn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống hdóa một số lí luận và làm sâu sắc cơ
sở lí thuyết khoa học về những hành vi miệt thị, đặc biệt đi sâu khai thác vấn
đề miệt thị đang diễn ra trong môi trường học đường.

- Đối tượng khảo sát và thực nghiệm: Học sinh lớp 10B3, 11C4 và 12A6,
đại diện cho 3 khối của trường THPT Như Thanh 2 - Như Thanh - Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, tôi vận dụng sáng tạo một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Thu thập và đọc các
tài liệu lý luận, các đề tài nghiên cứu về miệt thị học đường.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: qua quan sát,
phỏng vấn, phát phiếu điều tra, phiếu học tập, bài kiểm tra của học sinh.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Phân tích, tổng hợp từ các số liệu và
đánh giá rút kinh nghiệm.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Khái niệm hành vi miệt thị học đường
Hành vi miệt thị học đường là hành vi dùng lời nói, dùng từ ngữ tàn nhẫn,
có tính chất xúc phạm, miệt thị, bao gồm: trêu chọc, sỉ nhục, đặt biệt danh, đe
doạ, bình phẩm thiếu tơn trọng về người khác (ngoại hình, trí tuệ, giới tính, hồn
cảnh gia đình..).
2.1.2. Một số hành vi miệt thị học đường thường gặp
2.1.2.1. Miệt thị ngoại hình
Miệt thị ngoại hình cơ thể là “soi mói” vẻ bề ngoài của người khác. Bất
cứ bộ phận “bất thường” nào của con người đều có thể trở thành đối tượng bị
2

skkn


phán xét. Những câu nói như: “béo như lợn”; “đồ hai lưng”; “mơi chề”, “màn
hình phẳng”, “bánh mì q lửa”; “xấu như ma”… tưởng chừng là những câu đùa
vô ý, nhưng thực chất lại tác động rất lớn đến người bị miệt thị. Những lời nói

dù vơ tình hay ác ý đều đem lại cảm giác tiêu cực cho nạn nhân. Hình thức miệt
thị này được gọi là “Body-shaming”.
2.1.2.2. Miệt thị trí tuệ
Đây cũng là một dạng miệt thị khá phổ biến trong giới học sinh phổ
thơng. Miệt thị trí tuệ là chỉ trích, xúc phạm, tỏ vẻ coi thường sự yếu kém trong
học tập cũng như những suy nghĩ thiếu hiểu biết của các bạn khác. Hành vi này
có thể dễ dàng bắt gặp ở mọi lớp học như: “ngu như bị”, “q”, …
2.1.2.3. Miệt thị hồn cảnh gia đình
Miệt thị hồn cảnh là những bình phẩm ác ý về gia cảnh, hoàn cảnh xuất
thân của người khác. Loại miệt thị này rất dễ dàng bắt gặp trong môi trường học
đường. Đó có thể là những bình phẩm về học sinh mồ cơi; học sinh khơng có
cha, học sinh có cha mẹ li hơn; học sinh có hồn cảnh nghèo khó khăn, học sinh
khuyết tật… Ở độ tuổi vị thành niên, các em chưa biết đồng cảm và cảm thơng
sâu sắc với hồn cảnh của người khác vì vậy rất dễ hình thành thói quen miệt thị
hồn cảnh của bạn khác và xem đó chỉ là dtrị đùa vui với bạn bè.
2.1.2.4. Miệt thị giới tính
Miệt thị giới tính là những lời nói giễu cợt, những bình phẩm đầy ác ý về
giới tính của người khác. Hình thức miệt thị giới tính thường bắt gặp nhất chính
là dè bĩu, chế giễu, xa lánh, xúc phạm của người có biểu hiện của giới tính thứ 3.
Có thể dễ dàng nghe thấy những câu nói kiểu như: “Đồ bê đê”; “nó là thằng
gay”, “nó là les”, “đồng tính bệnh hoạn”,…
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Tiến hành khảo sát 118 học sinh của ba lớp 10B3, 11C4 và 12A6 đại diện
cho 3 khối 10, 11, 12 của Trường THPT Như Thanh 2 và kết quả cho thấy, có
đến 76% học sinh gặp phải hành vi này, trong đó có 32,4% học sinh bị rất
thường xuyên, chủ yếu tập trung vào những khuyết điểm về ngoại hình (như vóc
dáng, mặt, da, eo, mơng, đùi, chân, tay, răng); về giới tính ( có biểu hiện giới
tính thứ 3: ái, bê đê,…); về trí tuệ (óc lợn, ngu như bị, khơng có não,…); về
hồn cảnh gia đình (đứa mồ côi, đứa con hoang, đồ không cha),… Các nạn nhân
bị miệt thị cho biết, khi bị bạn bè đánh giá như vậy, các em phải chịu rất nhiều

áp lực, các em dần dần xa cách với bạn bè, từ đó dẫn đến tự ti, trầm cảm,… kết
quả học tập giảm sút, thậm chí muốn bỏ học. Cho nên có thể khẳng định miệt thị
chính là một dạng “bạo lực về tâm lý”. Tôi đã tiến hành khảo sát và kết quả cụ
thể như sau:

3

skkn


Số HS tham Nội dung khảo sát
gia khảo sát

Số HS chọn

Tỉ lệ (%)

C47

39,8

Bị miệt thị trí tuệ

37

31,4

Bị miệt thị hồn
cảnh gia đình


34

28,8

Bị miệt thị giới
tính

12

10,2

Bị miệt thị ngoại
hình
118

Bảng thống kê số học sinh bị miệt thị
Em Lê.Thị.L, học sinh lớp 10B3 trường THPT Như Thanh 2 từng chia sẻ:
“em đã từng là nạn nhân của miệt thị cơ thể khi bị các bạn trong lớp chê cười vì
người béo ú, chân tay to như con trai và eo quá khổ. Em cảm thấy rất xấu hổ vì
điều này. Em rất mong các bạn khác hãy thơi bình luận, chỉ trỏ sau lưng bởi
những người như em sẽ cảm thấy cực kỳ tủi thân và chán nản”. Còn em Dương
Tuấn Đ chia sẻ: “Em không may mắn khi bị sứt môi bẩm sinh. Đi học thường bị
các bạn soi mói, trêu chọc và cười đùa làm em rất xấu hổ, ngại ngùng và vô
cùng tự ti mỗi khi đến lớp”. Lê Văn T tâm sự, các bạn gọi em là “môi chề”, em
thấy “thẹn lắm”. Dần dần em bắt đầu tin vào những lời nói đó, rằng mình thật
xấu xí. Mỗi ngày đi học đối với em như một cơn ác mộng...”. Lời kể của Văn T
có lẽ là tâm sự chung của rất nhiều em học sinh từng rơi vào hoàn cảnh tương tự
khác.
Miệt thị cơ thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Các em học sinh
thường mang cân nặng hoặc những bộ phận trên cơ thể ra đùa, những câu đùa ác

ý như “hai lưng”, “eo bánh mì”, “ngực tấn cơng mơng phịng thủ”, “răng tung
tăng đi trước, môi lả lướt theo sau”,… xuất hiện rất nhiều trong giới học đường.
Đó là những lời nói khơng dao nhưng lại chính là thứ vũ khí sát thương sắc bén.
Miệt thị cơ thể khiến học sinh trở nên tự ti, chán chường, mất hết sự tự tin, tin
tưởng vào chính mình.
Các em học sinh khơng ngại ngần miệt thị nhau những câu nói gây tổn
thương người khác như: “ngu như bị”, “đồ óc bã đậu”, “óc chó”, “thứ khơng có
não”, “đồ đần”,… Điều này thực sự tác động rất lớn đến tâm lí của những nạn
nhân của hành vi miệt thị. Các em dễ bị mặc cảm bởi những lời phê phán về
“thành tích” yếu kém của bản thân. Có một số trường hợp người nói lại cố ý
xốy sâu vào khuyết điểm của bạn mình để thỏa sự ganh ghét: “Mày ngu như
bị, có học nữa cũng chẳng được trên điểm trung bình?”; “Nước đổ đầu vịt” “Mi
khơng có não à? Trời não mi ai lấy mất rồi?”,… Em Nguyễn Thị Mỹ T, lớp
10B3 trường THPT Như Thanh 2 tâm sự: “Em bắt đầu bị miệt thị trí tuệ từ hồi
năm cấp 2 tới tận bây giờ, em học không được tốt nên thường xuyên bị các bạn
chê bai, kì thị, chẳng có ai chơi với mình, em thấy cô đơn, tự ti về năng lực của
4

skkn


bản thân và chẳng muốn đến trường học nữa. Khảo sát ngẫu nhiên 118 học sinh
cho thấy có 37 học sinh nhận rằng từng bị miệt thị trí tuệ.
Bạn Lơ Thị Cẩm V chia sẻ: “Bố mẹ em li hôn, mẹ em đi làm cơng nhân
ngồi Bắc Ninh, 2 chị em ở nhà với ông bà ngoại. Nhà ông bà nghèo lắm, em
hay bị các bạn chê cười hoàn cảnh xuất thân. Lúc đó em khơng quan trọng
chuyện này lắm nhưng khi bị nói q nhiều thì chẳng bạn nào còn muốn chơi
với em nữa, em cũng chẳng muốn chơi thân với một ai, đôi lúc em chỉ muốn
nghỉ học vì cảm thấy như cuộc đời bất cơng với mình…”.
Bạn Nguyễn Văn Minh như ám ảnh trước những lời chọc ghẹo của các

bạn “mắt lồi, mắt to” rồi “M ái, M bê đê, Thị M”.
Như vậy, rõ ràng, các bạn học sinh hầu như không ý thức được rằng xúc
phạm các bạn khác như vậy là hành động vô đạo đức. Những cử chỉ, lời nói của
các bạn gây tổn thương rất lớn đối với họ - những người không may mắn đã gặp
phải số phận bất hạnh. Đáng lẽ, họ cần được nhận sự quan tâm, an ủi, yêu
thương, động viên nhiều hơn từ phía bạn bè, xã hội. Họ càng mặc cảm với nỗi
đau của chính mình thì càng suy sụp ý chí, khó có thể vượt lên hồn cảnh.
Tất cả những loại miệt thị trên có thể được biểu thị qua hành động, qua lời
nói trực tiếp hoặc nói xấu sau lưng. Mỗi loại miệt thị có biểu hiện ở phương diện
khác nhau nhưng đều giống nhau về cách thức, mục đích và tác động tiêu cực
của nó. Vậy làm sao để phân biệt đùa vui hay miệt thị? Đùa vui, đồng nghĩa với
việc người được tiếp nhận phải cảm thấy thoải mái và vui vẻ. Đừng nhầm lẫn
giữa đùa vui và miệt thị bởi một lời nói chỉ vui khi được đón nhận hoặc khơng
gây cảm giác khó chịu cho người khác và chỉ gói gọn trong ranh giới những
người thân quen. Một khi không xác định được ranh giới của hai vấn đề này thì
ta sẽ có thể giẫm phải nó bất cứ lúc nào. Vì thế bất cứ ai cũng có thể nằm trong
vùng bị “miệt thị”. Dư luận hiện nay chín người mười ý, hành động đầu tiên của
những người thích miệt thị là “vạch lá tìm sâu”, tìm rồi đâu chỉ để trong suy
nghĩ, các học sinh chê bai bạn khác bằng những ngơn từ hết sức khiếm nhã, khó
nghe.
Dù do lí do gì thì những suy nghĩ, lời nói, hành vi mang tính miệt thị
người khác cũng để lại hậu quả vơ cùng nghiêm trọng.Trước hết nó sẽ dẫn tới sự
kì thị, phân biệt đối xử trong nhóm bạn, trong tập thể, gây tổn thương về tinh
thần. Nếu không may là nạn nhân của những lời nói, hành vi miệt thị thì hầu hết
các em học sinh ấy đều có những biểu hiện rối nhiễu hành vi, ảnh hưởng đến
học tập, lao động, năng khiếu, ước mơ, sở thích của bản thân. Hầu hết các em bị
miệt thị luôn cảm thấy thua kém, tự ti hoặc ngại giao tiếp, tự cách li mình khỏi
tập thể, tìm cách chạy trốn bằng việc hay nghỉ học hoặc thậm chí muốn bỏ học.
Ở một mức độ phức tạp hơn, những em học sinh này sẽ bị rối loạn cảm xúc, rơi
vào trầm cảm do khơng muốn đi ra ngồi, khơng muốn xuất hiện trước bất kì ai

cịn bị bạn bè xa lánh, cơ lập vì khơng ai muốn “cùng nhóm với kẻ yếu thế”.
Nguy hiểm hơn, những mặc cảm tự ti ấy sẽ dẫn đến suy nghĩ tiêu cực “nhiều lúc
em không muốn sống nữa, sống như chết thì khơng nên sống, chết đi thì sẽ giải
thốt” (Em Trọng Ph- B3 đã viết khi tôi ra đề nghị luận về hiện tượng miệt thị).
5

skkn


Từ những suy nghĩ tiêu cực đó rất dễ dẫn đến hành động tự tử bởi nạn
nhân nhận thức lệch lạc và chưa đủ khả năng xử lí vấn đề cho nên khi mắc phải
chứng trầm cảm, nạn nhân rất dễ tìm đến cái chết. Tiến sĩ tâm lí học Pepper đã
từng khẳng định trong một buổi diễn thuyết: “Trầm cảm giết người còn nhanh
và nguy hiểm hơn AIDS. Đặc biệt là trầm cảm ở độ tuổi vị thành niên. Ở thời
điểm hiện tại, khơng q khi nói rằng trầm cảm là căn bệnh của thế kỉ. Nó hiện
đang hồnh hành trên khắp thế giới. Những nước phát triển cũng đang phải đau
đầu tìm cách giải quyết việc hàng loạt học sinh bị mắc bệnh trầm cảm và tự tử
do trầm cảm”.
Bên cạnh đó, theo thống kê khảo sát, tơi nhận thấy đa số học sinh khi là
nạn nhân của hành vi miệt thị học đường thì chưa có các kĩ năng ứng xử tí ch cực
hoặc các kĩ năng ấy chỉ ở mức yếu và trung bình. Kết quả khảo sát thu được như sau:

Mức
độ

Tiêu chí

Kiềm chế những cảm xúc và hành vi
tiêu cực, không để cảm xúc chi phối
hành vi


Bình tĩnh đối đầu, suy nghĩ lạc quan

Ứng xử tích cực, tự tin sống “như
những đóa hoa”
Tơn trọng nhu cầu, giá trị của chính
mình và người khác

Kết quả đạt được
Trước tác động
Số lượng
Tỉ lệ
(%)

Tốt

0

0

Khá

23

19,5

TB

54


45,8

Yếu

41

34,7

Tốt

0

0

Khá

3

2,5

TB

71

60,2

Yếu

44


37,3

Tốt

0

0

Khá

4

3,4

TB

57

48,3

Yếu

57

48,3

Tốt

0


0

Khá

26

22

TB

79

66,9

Yếu

13

11,1
6

skkn


Lựa chọn cách giải quyết lành mạnh
và tích cực

Phản hồi sự miệt thị theo nguyên lí
của “chiếc bánh Sandwich”


Tốt

0

0

Khá

26

22

TB

23

19,5

Yếu

69

58,5

Tốt

0

0


Khá

0

0

TB

42

35,6

Yếu

76

64,4

Bảng thống kê kết quả tự đánh giá của học sinh trước tác động về kĩ năng
ứng xử tích cực trước hành vi miệt thị
2.3. Một số biện pháp giải quyết thực trạng.
2.3.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức về miệt thị học
đường
Tôi hướng dẫn học sinh tra cứu trên google.com các tài liệu liên quan đến
miệt thị và miệt thị học đường.

Học sinh 10B3 tìm hiểu về miệt thị học đường trên google, sách báo
7

skkn



Đồng thời, cung cấp cho các em tài liệu về tác động tiêu cực từ hành vi
miệt thị học đường. Tơi từng chia sẻ với các em câu chuyện có thật trong cuốn
sách “Marion – mãi mãi tuổi 13” của Nora Fraisse Jacqueline Remy. Cuốn sách
được viết bởi một người mẹ đã mất con gái vì bạo lực học đường. Trong cuốn
sách, cô bé Marion bị những người bạn cùng lớp lăng mạ, dè bỉu, kì thị, đánh
đập nhưng khơng được ai giúp đỡ. Cô bé âm thầm chịu đựng một mình, để rồi
rơi vào trầm cảm, tuyệt vọng và đã treo cổ tự tử trong phòng một buổi sáng
tháng hai, đã khiến bố mẹ kinh hoàng.
Thật vậy, ngay ở Việt Nam, tình trạng tự tử học đường vì bị miệt thị, bị
bêu rếu, hành hung hội đồng ngày càng có xu hướng gia tăng. Một số sự việc
liên quan đến vấn đề tự tử của học sinh nói chung trong thời gian qua cho thấy ở
tuổi các em có nhiều biến động. Sức ép từ gia đình, sự kì thị, miệt thị từ môi
trường sống, môi trường học tập cũng như vấn đề rối nhiễu tâm căn của lứa tuổi
cho thấy khi còn hạn chế kinh nghiệm sống, kỹ năng sống cũng như khả năng tự
cân bằng đời sống tinh thần, các em chọn hành vi tự hủy hoại bản thân như một
lối thốt”.
Đồng thời, tơi hướng dẫn để các em nhận ra miệt thị là hành vi vi phạm
pháp luật. Trong các bộ luật Hình sự 1999 và bộ luật Dân sự 2015, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của người khác được quy định cụ thể: Về xử phạt vi phạm
hành chính: Đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác có thể bị
xử phạt hành chính, tùy theo mức độ, hành vi của người đó có thể bị xử phạt
hành chính theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP như sau:
“Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: Có
cử chỉ, lời nói thơ bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của người khác”; Về vấn đề quy cứu trách nhiệm hình sự: Điều 121 Bộ luật hình
sự 1999 quy định về tội làm nhục người khác như sau: “Điều 121. Tội làm nhục
người khác: Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự ccủa người

khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo khơng giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ
ba tháng đến hai năm”.
Từ đó, học sinh sẽ nâng cao hiểu biết về tác động tiêu cực của hành vi
miệt thị và đưa ra các giải pháp phịng ngừa, để các em có thể tự bảo vệ bản
thân.
2.3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh luyện đề nghị luận về hiện tượng
miệt thị trong môi trường học đường
Giải pháp này được tôi tiến hành trong bài: Nghị luận về hiện tượng trong
đời sống. Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngữ liệu, giúp các em nhận biết
dạng đề và cách làm đề nghị luận về hiện tượng trong đời sống, tôi cho học sinh
luyện tập với đề văn sau: “Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng miệt thị trong
môi trường học đường hiện nay?”. Tơi sử dụng hình thức thảo luận nhóm, giao
nhiệm vụ cho các nhóm như sau:
Nhóm 1: Giải thích hiện tượng miệt thị và miệt thị học đường?
8

skkn


Nhóm 2: Nêu thực trạng của hiện tượng diễn ra trong mơi trường học
đường?
Nhóm 3: Chỉ ra hậu quả của hiện tượng miệt thị học đường?
Nhóm 4: Chỉ ra nguyên nhân và cách giải quyết thực trạng trên?
Các nhóm đã thảo luận hết sức sôi nổi.
Sau thời gian 2 phút, các nhóm cử đại diện lên trình bày.

Nhóm 1: Thảo luận hiện tượng miệt thị và miệt thị học đường

Nhóm 2: Tìm hiểu thực trạng của hiện tượng miệt thị học đường


9

skkn


Nhóm 3: Thảo luận hậu quả của hiện tượng miệt thị học đường

Nhóm 4: Thảo luận tìm ra ngun nhân và cách giải quyết thực trạng
Các em bày tỏ sự thấu hiểu suy nghĩ và cảm xúc của những nạn nhân bị
miệt thị, từ đó tránh được hành vi miệt thị, gây tổn thương đến người khác.
Đồng thời, rút ra thông điệp: sống tự tin, lạc quan, biết cách ứng xử tích cực hơn
trước hành vi miệt thị trong học đường và ngồi xã hội.
Như vậy, thơng qua giải pháp này, học sinh nhận thức rõ ràng hơn về thực
trạng của hành vi miệt thị, nhận ra miệt thị - chính là cách thức “giết người”
bằng lời nói và cử chỉ; miệt thị - chính là “nhục mạ danh dự và nhân phẩm”;
miệt thị là hành động bắt nạt tinh thần có thể gây tổn thương trầm trọng lên cả
10

skkn


sức khỏe, tinh thần và thể chất của người khác. Từ hiểu rõ bản chất vấn đề dẫn
đến thay đổi hành vi ở các em theo hướng tích cực hơn.
2.3.3. Biện pháp 3: Tổ chức sinh hoạt lớp về chủ đề “Miệt thị học đường”
Mỗi tuần, giáo viên chủ nhiệm đều có tiết sinh hoạt lớp. Ngồi việc đánh
giá hoạt động của lớp trong tuần và triển khai công việc trong tuần tới thì giáo
viên chủ nhiệm có thể dành thời gian để trao đổi về những vấn đề diễn ra trong
mơi trường giáo dục, trong đó có hiện tượng miệt thị học đường. Với câu hỏi:
“Các em cảm thấy thế nào khi bị miệt thị ngay trong lớp học và trường học?”,
“Hãy thể hiện ý kiến của mình về hành vi miệt thị theo cách của riêng em?”, tôi

đã thu thập rất nhiều phản hồi từ phía các em. Các bạn đã thể hiện suy nghĩ về
hành vi miệt thị học đường qua nhiều hình thức khác nhau: vẽ tranh, sáng tác
nhạc, làm thơ, viết thư,…

Em Hồng Thắm vẽ tranh với thơng điệp “Nói khơng với bao lực học đường”

Em Nguyễn Hoàng Anh Tuấn sáng tác bài hát “SAY NO TO BODY SHAMING”

11

skkn


Đó là cách tơi lắng nghe, thấu hiểu suy nghĩ, tâm tư của mỗi học sinh. Từ
đó có những biện pháp can thiệp kịp thời, ngăn ngừa tác động tiêu cực đến từ
hành vi miệt thị học đường. Nhờ các tiết sinh hoạt như vậy, cơ trị chúng tơi có
thêm cơ hội để chia sẻ, thấu hiểu và cảm thông cho nhau, góp phần đẩy lùi hành
vi miệt thị ra khỏi lớp học, trường học.
2.3.4. Biện pháp 4: Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp với chủ đề “Sống
như những đóa hoa”
Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các tổ chức trong nhà trường như: tổ
chun mơn, Đồn trường, Hội liên hiệp thanh niên,…từ khâu lên kế hoạch,
chuẩn bị nội dung, nhân sự, tập luyện, duyệt chương trình, chuẩn bị sân khấu,
chúng tôi tổ chức thành công hoạt động ngồi giờ lên lớp với chủ đề “Sống như
những đóa hoa”. Thông qua diễn đàn này, học sinh trường THPT Như Thanh 2
đã nâng cao nhận thức cũng như văn hóa ứng xử trước hành vi miệt thị học
đường.
Học sinh tồn trường vơ cùng hứng thú với tiết mục múa mở màn:

Múa: Sống như những đóa hoa”


Hình ảnh những đóa hoa rạng ngời, rất vui vẻ, hứng thú khi tham gia hoạt
động ngoài giờ lên lớp.
12

skkn


Ca khúc “Là tơi” qua phần trình bày của bạn Thanh Trúc đã gửi đến các
bạn thông điệp đầy ý nghĩa: Nếu bạn biết cách làm chủ đời mình, tự yêu thương
và tìm niềm vui quanh mình, thì mọi thứ sẽ trở nên ý nghĩa, tuyệt vời hơn.
"Buồn thì đến với sóng, cho hết cơn đau đầu. Buồn thì hát với gió, cho thế gian
quên sầu. Lalalala hát ca mọi nơi. Hey! Lalala lalala. Vẫn luôn yêu đời." Hạnh
phúc nằm ở hiện tại, ở ngày hôm nay.
Các bạn học sinh nhiệt tình tham gia trả lời câu hỏi “Ai nhanh hơn” với
các câu hỏi liên quan đến chủ đề miệt thị. Các em rất hào hứng với phần phỏng
vấn và trả lời phỏng vấn của người dẫn chương trình với hai vị khách mời. Đó là
cơ giáo Lê Thị Thùy, tổ trưởng tổ Ngữ văn và bạn Lê Văn Thành, học sinh
khuyết tật của 10B3. Qua trao đổi của cô Thùy, học sinh có thêm những kĩ năng,
bản lĩnh để ứng xử một cách có văn hóa trước hành vi miệt thị học đường. Đặc
biệt, qua chính câu chuyện thật của mình, các bạn học sinh vơ cùng khâm phục
trước nghị lực và lối sống lạc quan của bạn Lê Văn Thành.
Diễn đàn kết thúc trong dư âm lắng đọng của vở kịch “Muộn màng”- Và
diễn đàn đã thực sự lan tỏa đến tất cả học sinh thông điệp: “Hãy nói khơng với
miệt thị học đường”.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sau khi tiến hành nghiên cứu, cùng với việc đưa ra các biện pháp để nâng
cao nhận thức, rèn kỹ năng ứng xử tích cực trước hành vi miệt thị và đánh giá
kết quả thông qua dữ liệu thu thập được từ quá trình khảo sát, ta có thể nhận

thấy: hiệu quả mà đề tài mang lại là rất lớn. Hầu hết các học sinh đã có những
cái nhìn tồn diện, đa chiều về tác động tiêu cực của hành vi miệt thị học đường
đến đời sống, học tập của các bạn học sinh. Từ đó có những nhận thức lạc quan,
rèn được cách ứng phó hợp lí, tích cực trước hành vi miệt thị góp phần nâng cao
chất lượng học tập cũng như chất lượng cuộc sống. Qua khảo sát, thu thập số
liệu, kết quả cho thấy:
Ý kiến của học sinh
TT

1

Nội dung khảo sát

Hoàn
Đồng
toàn đồng
ý
ý

Sau khi học, luyện đề 61
và tham gia các giải 51,7%
pháp thực nghiệm,
anh/chị có nhận thức rõ
hơn về khái niệm “miệt
thị”.

Bình
thường

55


2

46,6
%

1,7%

Khơng
đồng ý

Hồn
tồn
khơng
đồng ý

0

0

13

skkn


2

3

4


5

6

7

Qua quá trình học, 32
luyện đề và tham gia 27,1%
các giải pháp thực
nghiệm, anh/chị nhận
thấy “miệt thị” không
phải là một trị đùa vơ
hại.

62

24

0

0

52,5
%

20,4%

Sau khi học, luyện đề 13
và tham gia các giải 11,0%

pháp thực nghiệm,
anh/chị biết quan tâm
nhiều hơn đến cảm xúc
của những người bị
“miệt thị”.

103

2

0

0

87,3
%

1,7%

Quá trình học và tham 64
gia thực nghiệm giúp 54,2%
anh/chị hiểu rằng hành
vi “miệt thị” người
khác gây ra hậu quả vơ
cùng nghiêm trọng

33

21


0

0

28%

17,8%

Q trình học và tham 56
gia thực nghiệm giúp 47,5%
anh/chị nhận ra rằng
“miệt thị” là một hành
vi có thể tác động để
thay đổi và loại bỏ
được.

61

1

0

0

51,7
%

0,8%

Qua nghiên cứu và 49

tham gia thực nghiệm, 41,5%
anh/chị nhận thấy việc
xóa bỏ hành vi “miệt
thị” cũng như rèn kĩ
năng để ứng phó với sự
“miệt thị” là rất cần
thiết.

5d8

10

1

0

49,2
%

8,5%

0,8%

Để xóa bỏ hành vi 36
“miệt thị” thì các hoạt 30,5%
động ở môi trường nhà
trường là rất quan
trọng.

82


0

0

0

69,5
%

14

skkn


8

9

10

Việc nghiên cứu và 51
tham gia thực nghiệm 43,3%
giúp anh/chị nâng cao
kĩ năng ứng xử trước
hành vi “miệt thị”.

66

1


0

0

55c,9
%

0,8%

Anh/chị có đồng ý 62
chúng ta nên lan tỏa 52,5%
những thông điệp yêu
thương đến toàn cộng
đồng, hãy chung tay
đánh đổ thành lũy của
sự kì thị phân biệt đối
xử.

56

0

0

0

Anh/chị
rất
mong 83

muốn được giáo viên tổ 70,3%
chức các hoạt động trải
nghiệm nhằm nâng cao
văn hóa ứng xử trước
hành vi “miệt thị” và cả
những rào cản tâm lí
khác.

35

0

0

0

47,5
%

29,4
%

Bảng thống kê kết quả thang đo thái độ
Nhìn vào bảng kết quả trên, có thể nhận thấy: Nhận thức cũng như kĩ năng
của học sinh được tăng lên rõ rệt sau khi thực hiện các giải pháp tác động tích
cực. Có đến 98,3% học sinh đồng ý và hoàn toàn đồng ý rằng các hoạt động
thực nghiệm giúp các em nhận thức được thế nào là miệt thị và nhận thấy miệt
thị khơng phải là một trị đùa vơ hại (79,6%) mà nó gây ra hậu quả vơ cùng
nghiêm trọng (82,2%) nhưng miệt thị cũng là một hành vi có thể tác động để
thay đổi được, tất nhiên cần có thời gian (99,2%) và việc xóa bỏ hành vi miệt thị

cũng như rèn kĩ năng ứng xử trước hành vi này là việc rất cần thiết (93,7%).
Đồng thời nhờ các hoạt động thực nghiệm giải pháp, đa số học sinh nâng cao
được kĩ năng ứng xử trước hành vi miệt thị (99,2%). Vì thế, nên có 100% học
sinh đều đồng ý và hoàn toàn đồng ý rằng “ chúng ta nên lan tỏa những thông
điệp yêu thương đến toàn cộng đồng, hãy chung tay đánh đổ thành lũy của sự kì
thị, phân biệt đối xử”. Và 100% học sinh rất mong muốn được tổ chức các hoạt
động trải nghiệm nhằm nâng cao văn hóa ứng xử trước hành vi “miệt thị” và cả
những rào cản tâm lí khác.
Bên cạnh đó, những giải pháp tích cực được thực nghiệm không chỉ giúp
học sinh nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ, hành vi mà còn nâng cao được năng lực
ứng xử tích cực trước hành vi “miệt thị”. Dựa vào bảng kiểm tự đánh giá năng lực của học
sinh và kết quả thu được như sau:

Kết quả đạt được
Mức

skkn

15


Phản hồi sự miệt thị theo nguyên lí
của “chiếc bánh Sandwich”
(Sandwich feedback)

TB

23

19,5


18

15,3

Yếu

69

58,5

0

0

Tốt

0

0

19

16,1

Khá

0

0


75

63,6

TB

42

35,6

24

20,3

Yếu

76

64,4

0

0

Bảng thống kê khả năng thuộc về kĩ năng ứng xử của học sinh
trước hành vi miệt thị
Như vậy có thể thấy, nếu trước tác động, đa phần học sinh đều có những
cảm xúc, hành vi tiêu cực khi bị miệt thị như: Buồn, lo lắng, ức chế; Ấm ức, khó
chịu, căng thẳng, trầm cảm; Mất tự tin, trốn tránh, muốn bỏ học; Bức xúc, tức

giận, hung hăng đánh trả…. cịn những kĩ năng ứng xử tích cực thì lại rất yếu.
Như thống kê bảng trên thì khơng có học sinh nào có kĩ năng ứng xử tích cực ở
mức tốt, khá rất ít và chủ yếu là mức trung bình và yếu. Cịn sau tác động học
sinh tự nhận thấy kĩ năng ấy được tăng lên đáng kể. Như kĩ năng “Kiềm chế
những cảm xúc và hành vi tiêu cực, không để cảm xúc chi phối hành vi” có 115
học sinh tự đánh giá ở mức tốt và khá sau tác động (97,5%), kĩ năng “Bình tĩnh
đối đầu, suy nghĩ lạc quan” ( có 104 học sinh chiếm 88,1% thực hiện tốt mức tốt
và khá), kĩ năng “Ứng xử tích cực, tự tin sống “như những đóa hoa” ( 72 học
sinh chiếm 61% thực hiện ở mức tốt và khá); kĩ năng “Tôn trọng nhu cầu, giá trị
của chính mình và người khác” (89 học sinh chiếm 75,4% học sinh thực hiện tốt
và khá); kĩ năng “Lựa chọn cách giải quyết lành mạnh và tích cực” có 100 học
sinh thực hiện ở mức tốt và khá (84,7%); kĩ năng “Phản hồi sự miệt thị theo
nguyên lí của “chiếc bánh Sandwich” (Sandwich feedback)” có 94 học sinh
thực hiện mức khá trở lên (79,7%).
Để quan sát rõ hơn, tôi cụ thể hóa bằng 2 biểu đồ so sánh sau:
TRƯỚC TÁC ĐỘNG

16

skkn


69,5%
63,6%

66,9%

70

52,5%

58,5%

60,2%

64,4%

60
50

Tốt

34,7%

40
30

48,3% 48,3%

45,8%
37,3%

35,6%
Khá
20,3%
Trung bình
15,3%16,1%
22% 19,5%
Yếu

22%


19,5%

20

11,1%
10

3,4%

2,5%

0
Bình tĩnh
đối đầu

Kiềm chế
cảm xúc

Ứng xử tích
cực

Tơn trọng
mình và
người khác

Giải quyết
lành mạnh

Phản hồi

theo ngun
lí Sandwich

SAU TÁC ĐỘNG
70
60

58,5%
48,3%

50

39%
33%
28%

40

39%
30

Khá

27,1%

Trung bình

32,2%

Yếu


24,6%

18,6%

20
10

Tốt

11,9%
2,5%

0
Kiềm chế
cảm xúc

Bình tĩnh
đối đầu

Ứng xử tích
cực

Tơn trọng
mình và
người khác

Giải quyết
lành mạnh


Phản hồi
theo nguyên
lí Sandwich

Biểu đồ so sánh khả năng thuộc về kĩ năng ứng xử của học sinh trước và sau
tác động trước hành vi miệt thị
Qua quá trình hướng dẫn học sinh tổ chức thực hiện các giải pháp thực
nghiệm tích cực, nhận thức, thái độ, hành vi của học sinh về vấn đề miệt thị học
đường đã có sự thay đổi rõ rệt và kĩ năng ứng xử của các em cũng được nâng
cao hơn.
Vì vậy, có thể thấy đây là một hoạt động thiết thực, khả thi cần được thực
hiện và nhân rộng trong môi trường học đường ở các trường THPT để đẩy lùi
hành vi miệt thị, góp phần xây dựng mơi trường học tập thân thiện và lành
mạnh.

3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
17

skkn


Miệt thị người khác hiện là vấn đề nhạy cảm mà nhiều học sinh đang phải
đối mặt vì bị “soi mói” ở bất kì đâu và bất cứ ai cũng có thể nằm trong vùng bị
miệt thị. Từ những kết quả trong nghiên cứu, chúng tôi muốn cung cấp một phần
kiến thức cho các bạn trẻ về tác động tiêu cực của hành vi miệt thị và đưa ra các
giải pháp phòng ngừa, để các em tự bảo vệ bản thân trước tác động của tệ nạn
miệt thị. Rộng hơn, chúng tôi muốn đưa ra những giải pháp nhằm tư vấn, giải
tỏa tâm lý, giúp các em học sinh vượt qua được vấn đề và quan trọng hơn, là
giúp các em hiểu rõ bản chất vấn đề để từ đó dẫn đến thay đổi hành vi.

Xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” đang là nguyên lí phát
triển giáo dục ở nước ta. Đích đến của giáo dục là hướng con người tới những
giá trị “chân, thiện, mĩ” dù ở bất kì quốc gia nào, bất kì thời đại nào. Thật tốt
đẹp và hạnh phúc biết bao nếu con người biết đối xử với nhau bằng sự nhân văn.
3.2. Kiến nghị
Cần phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức và đoàn thể, giáo viên chủ nhiệm,
giáo viên bộ môn, lựa chọn các chủ đề thuộc nhiều lĩnh vực để tổ chức các hoạt
động tập thể, ngoại khóa,…giúp học sinh có nhiều cơ hội được giao lưu, học hỏi
và hoàn thiện bản thân.
Cần thành lập ban tư vấn tâm lý học đường và tổ chức hoạt động hiệu
quả, tổ chức những buổi học về giới tính, kĩ năng sống nhằm nâng cao nhận thức
của học sinh về các vấn đề liên quan đến hành vi miệt thị; nên xây dựng các hộp
thư mang tính chất tư vấn, tâm sự như “điều em muốn nói”, “thư gửi tuổi 18”,…
Hướng dẫn các em viết bài, đăng bài định hướng các nội dung liên quan
về miệt thị lên trang Web của trường học. Đây là một trong những kênh thông
tin mà các bạn học sinh trong trường quan tâm. Có hàng ngàn lượt truy cập.
Chính vì vậy có thể sử dụng trang Web của nhà trường để truyền tải thông tin
đến các bạn học sinh.
Thanh Hóa, ngày 02 tháng 05 năm 2022
XÁC NHẬN CỦA BGH

Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép của người khác.
Người viết

Phạm Thị Phương Thảo

18

skkn



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trần Văn Công, Nguyễn Thị Hồng, Lý Ngọc Huyền, Xây dựng thang đo năng
lực tự kiểm soát cho học sinh trung học cơ sở tại Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo
khoa học quốc tế tâm lý học học đường lần thứ 5 - Phát triển tâm lý học học
đường trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Thông tin và truyền thông, 2016.
2. Trần Văn Công, Bahr Weiss, David Cole, Bị bắt nạt bởi bạn cùng lứa và mối
liên hệ với nhận thức bản thân, trầm cảm ở học sinh phổ thơng, Tạp chí Tâm lý
học, Số 11, 2009.
3. Kim Thơ – Bookademy, Miệt Thị Ngoại Hình - Đừng Dùng Tự Do Ngôn
Luận Để Tổn Thương Người khác!,trang Web />4. Trần Quốc Thành (Chủ biên), Nguyễn Đức Sơn, Tâm lí học xã hội, NXB Đại
học Sư phạm, 2011.

19

skkn


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT

Họ và tên tác giả: Phạm Thị Phương Thảo
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Như Thanh 2
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại

TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
1. Sử dụng bản đồ tư duy trong
Cấp Sở
C
2011 - 2012
dạy học phần Văn học của
môn Ngữ văn ở trường THPT
Quan Sơn 2.
2. Một số biện pháp hướng dẫn Cấp Sở
C
2015 - 2016
học sinh lớp 12A1 trường
THPT Quan Sơn 2 làm tốt
dạng đề “Nghị luận về hiện
tượng trong đời sống” trong
kì thi tốt nghiệp THPT Quốc
gia.
3. Một số biện pháp hướng dẫn Cấp Sở
C
2016 -2017
20

skkn




×