Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Skkn một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn miêu tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.47 KB, 27 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5
LÀM TỐT BÀI VĂN TẢ CẢNH

Người thực hiện: Lê Thị Dung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thọ Cường
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HOÁ, NĂM 2022

skkn


MỤC LỤC
Mục
1

NỘI DUNG

Trang

Mở đầu

1


1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

1

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2

2.1


Cơ sở lý luận

2

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

2

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

3

2

2.3.1. Rèn kĩ năng quan sát và tìm ý

3

2.3.2. Rèn kỹ năng sắp xếp ý, lập dàn ý sau khi quan sát

6

2.3.3. Rèn kĩ năng viết đoạn mở bài, kết bài

8


2.3.4. Làm giàu vốn từ cho học sinh

11

2.3.5. Sử dụng biện pháp nghệ thuật (nhân hoá, so sánh) trong
làm văn tả cảnh

13

2.3.6. Giúp HS biết cách thể hiện tình cảm, cảm xúc khi làm văn tả
cảnh

16

2.3.7 Tạo hứng thú học tập cho học sinh từ  việc chấm và chữa bài 

18

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

18

Kết luận và kiến nghị

19

3.1


Kết luận

19

3.2

Kiến nghị

20

3

skkn


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Mơn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học có nhiệm vụ hồn thành
năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được
thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết.
Từ đó các em có thể học tập và giao tiếp trong môi trường học tập lứa tuổi, giúp
học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức lớp trên.
Trong mơn Tiếng Việt có nhiều phân mơn (Tập đọc, Tập viết, Chính tả,
Tập làm văn, Luyện từ và câu, Kể chuyện), mỗi phân môn chứa đựng một bộ
phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để người học học tốt tiếng Việt.
Trong đó Tập làm văn là phân mơn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực
hành, thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân. Tập làm văn, viết văn, hành văn là cái
đích cuối cùng cao nhất của việc học Tiếng Việt ở tiểu học. Đối với học sinh
tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã là khó; để nói, viết hay,
có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy chính là cái đích mà

phân mơn Tập làm văn địi hỏi người học cần dần đạt tới. Từ đó, các em được
mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ và
hình thành nhân cách.
Trong phân môn Tập làm văn, nhiều học sinh cịn gặp khó khăn trong
việc dùng từ, đặt câu và sắp xếp ý để nói và viết thành đoạn, bài văn. Do đặc
điểm tâm lý, khả năng tập trung chú ý quan sát của học sinh tiểu học chưa tinh
tế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết bài văn tả
cảnh, học sinh còn thiếu vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả, hoặc không biết
cách diễn đạt điều muốn tả.
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 5, với mong muốn giúp
các em sử dụng phương tiện ngôn ngữ Tiếng việt trong giao tiếp ngày càng tốt
hơn.Trong phạm vi sáng kiến này, tôi xin đề cập đến một vấn đề nhỏ mà tôi đã
thử nghiệm ở học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thọ Cường, đó là : “Một số giải
pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh” nhằm nâng cao chất lượng
giờ dạy Tập làm văn nói riêng và chất lượng Giáo dục nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu
* Giúp cho học sinh:
- Có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới, thú vị về thế giới xung
quanh, từ đó các em biết lựa chọn được những chi tiết tiêu biểu để miêu tả.
- Biết cách sắp xếp ý, lập dàn ý sau khi quan sát, xây dựng được bố cục bài
văn tả cảnh đủ ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
- Biết tích lũy vốn từ, làm giàu vốn từ và sử dụng vốn từ một cách có hiệu
quả khi viết các bài văn tả cảnh khác nhau.
- Có thói quen sử dụng các biện pháp nghệ thuật (nhân hoá, so sánh) trong
làm văn tả cảnh. Biết thể hiện cảm xúc tự nhiên, chân thành trong bài văn. Biết
cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung động trước
đối tượng được miêu tả.

skkn



* Giúp giáo viên:

skkn


2
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 để
vận dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh
hoạt.
- Tự tìm tịi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập
làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn tả cảnh nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Văn tả cảnh lớp 5.
Các giải pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh.     
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
Phương pháp thu thập thông tin.
Phương pháp thực hành.
Phương pháp đánh giá kết quả.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Ở Tiểu học, Tập làm văn là một trong những phân mơn khó, mang tính
tổng hợp, sáng tạo cao. Nó có vai trị và vị trí quan trọng trong việc hồn thiện
và nâng dần kĩ năng sử dụng tiếng Việt mà học sinh đã được hình thành và xây
dựng từ các phân mơn khác. Học tốt được phân môn Tập làm văn là giúp cho
các em học tốt các môn học khác. Vậy dạy phân môn Tập làm văn là dạy các
kiến thức và kĩ năng giúp cho học sinh tạo lập và sản sinh ngôn bản, đồng thời
giáo dục cho các em tình cảm trong sáng, rèn luyện khả năng giao tiếp góp phần

giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt.
Mục đích của việc dạy văn miêu tả nói chung và văn tả cảnh nói riêng ở
Tiểu học là giúp cho các em học sinh có thói quen quan sát, phát hiện những
điều mới, thú vị về thế giới xung quanh, biết cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài
văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung động trước đối tượng được miêu tả. Rồi từ đó
các em có cơ sở để tái hiện lại bằng ngơn ngữ giàu hình ảnh vào bài văn miêu tả.
Nếu bài tập làm văn thiếu sáng tạo, thiếu cảm xúc, không dùng từ ngữ giàu hình
ảnh thì bài văn trở nên khơ khan, nghèo ý. Vậy để làm được bài văn tả cảnh hay,
không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động của đối tượng miêu tả
mà cịn thể hiện được trí tưởng tượng, tình cảm của mình đối với đối tượng miêu
tả. Do đó địi hỏi học sinh phải có kiến thức sâu rộng và chính xác của phân mơn
này, nắm vững mục tiêu chung của từng bài, có những hiểu biết cơ bản về nội
dung bài học, có trí óc tưởng tượng thật phong phú, biết cách dùng từ viết câu
phù hợp, viết bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc... Là một giáo viên giảng dạy lớp
5, bản thân tơi ln trăn trở, tìm mọi biện pháp để giúp đỡ các em học tốt văn tả
cảnh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

skkn


3
*Về phía giáo viên: Thơng qua việc dự giờ, thăm lớp, qua trực tiếp giảng
dạy trên lớp, tôi nhận thấy những tồn tại ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy Tập
làm văn chưa cao là bởi các nguyên nhân như sau:
- Một số giáo viên còn ngại khi phải dạy phân mơn tập làm văn nên khi
dạy cịn nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung hay hình thức tổ chức một
tiết dạy Tập làm văn dẫn đến hiệu quả các tiết dạy chưa cao.
- Phương pháp dạy của giáo viên cịn rập khn, thiếu sự dẫn dắt gợi mở
cho học sinh, chưa kích thích được sự sáng tạo tìm tịi, chưa chọn từ ngữ, hình

ảnh, ý của học sinh.
- Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để
bộc lộ được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả.
- Giáo viên khi lên lớp còn truyền đạt “chay”, thiếu tranh ảnh, vật thật để
hỗ trợ cho các em trong quá trình làm văn miêu tả.
*Về phía học sinh:. Từ các nhận định được kiểm chứng qua dạy học, tôi
đã rút ra các điểm yếu mà các em hay mắc phải trong giờ làm văn như sau:
- Chưa xác định trọng tâm đề bài cần miêu tả.
- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng,
- Vốn từ cịn nghèo nàn, khn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt.
- Chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả, thiếu hình
ảnh, cảm xúc, chưa biết tả những chi tiết cụ thể nổi bật...
- Mặt khác, hiện nay bày bán rất  nhiều sách tham khảo, văn mẫu tạo điều
kiện cho các em chép lại văn mẫu, thiếu sự sáng tạo khi làm bài...
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giờ dạy
và bài văn của học sinh, không gây được sự hứng thú học tập của học sinh.
Năm học 2020 - 2021, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp
5B. Qua việc chấm, chữa bài, tôi nắm bắt được lớp 5B có chất lượng bài
viết Tập làm văn tả cảnh như sau:
Tổng
số HS

30 em

Kĩ năng viết văn tốt, đúng
thể loại, đúng bố cục, có
cảm xúc, giàu hình ảnh, từ
ngữ chính xác.

Đúng bố cục, đúng

thể loại, dùng từ
chính xác, bài văn
chưa sáng tạo.

Bố cục chưa rõ
ràng, dùng từ
chưa chính xác,
ý chưa mạch lạc

18 em = 60.0%

7 em=23.4%

5 em = 16.6%

Năm học 2021 - 2022, tôi tiếp tục được phân công chủ nhiệm và giảng
dạy lớp 5A. Xuất phát từ thực trạng trên và qua một năm trực tiếp giảng dạy lớp
5, bản thân thấy rõ những tồn tại mà học sinh lớp 5 đang gặp phải khi làm văn
tả cảnh. Với vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi
mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau đây, hy vọng sẽ góp phần nâng cao được
chất lượng phân mơn Tập làm văn nói riêng và mơn Tiếng Việt nói chung.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Rèn kĩ năng quan sát và tìm ý

skkn


4
Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả thì kĩ năng quan sát và ghi
chép những điều đã quan sát được là một trong những việc làm rất cần thiết. Vì

nếu khơng được quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng thì sẽ xảy ra tình trạng
bịa đặt hình ảnh trong bài khiến cho những hình ảnh ấy thiếu tính chân thực. Vì
thế, tơi thường xun tổ chức cho các em quan sát thực tế với những bài văn tả
cảnh đẹp quê hương, trường lớp,… Để bước quan sát có hiệu quả, tơi hướng
dẫn các em xác định được đối tượng và mục đích quan sát. Khi đã có đề tài, các
em chủ động quan sát sự vật để tìm ý. Việc tìm ý cho bài văn phải được tiến
hành song song với việc quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Để làm được việc
trên với mỗi một đề bài, tôi hướng cho học sinh quan sát trực tiếp đối tượng
bằng một số câu hỏi gợi ý để học sinh quan sát và ghi lại tỉ mỉ những nét tiêu
biểu, đặc sắc của cảnh để làm tư liệu cho việc sắp xếp ý và tìm ý.
Ví dụ 1: Khi hướng dẫn các em tả cánh đồng, tôi đã dặn các em quan sát
cánh đồng mỗi khi có dịp. Có thể các em ra thăm cánh đồng cùng bố mẹ, anh chị
hoặc mỗi khi em đi học qua cánh đồng… Như trường tơi, ngay phía trước
trường có cánh đồng, tơi dẫn học sinh ra để quan sát trực tiếp, đưa ra những câu
hỏi gợi ý giúp các em biết tìm ra những đặc điểm nổi bật khi tìm ý để tả cánh
đồng. Các em quan sát kĩ và ghi những điều các em quan sát được theo gợi ý
như:
+ Em quan sát cánh đồng đó vào thời gian nào trong ngày?
+ Em định quan sát cảnh vật đó theo trình tự nào?
+ Em thấy những cảnh vật gì trên cánh đồng? Nghe thấy những âm thanh
nào? Ngửi thấy mùi vị gì?
+ Hình ảnh nào để lại cho em nhiều ấn tượng nhất?...
Hay cảnh sông nước, các em cũng quan sát kĩ mỗi khi có dịp được ra sơng
tắm hoặc đi qua con sơng... Nếu khơng có dịp được quan sát trực tiếp các em có
thể quan sát qua tranh ảnh, qua màn hình ti vi...và ghi chép những gì quan sát
được. Hoặc khi hướng dẫn các em quan sát con đường từ nhà đến trường. Tôi
dặn các em khi đi học (hoặc khi về) vừa đi vừa quan sát kĩ con đường (hình
dáng, mặt đường, lề đường, cảnh vật hai bên đường, ... ). Nhớ lại hình ảnh con
đường làng mà các em đã được đọc, được học, các em sẽ thấy có những nét tả
thật cụ thể, thật sinh động và hình ảnh con đường hiện ra thật đẹp qua cách miêu

tả của tác giả:
“ Đường mềm như dải lụa
Uốn mình dưới cây xanh”
Từ đó, tôi cho học sinh nhận xét xem con đường đến trường của các em có
như vậy khơng? Ven đường có hàng cây xanh, những dãy nhà cao tầng, hay có
những rẫy ngơ xanh rì rào trong nắng khơng?...
Ví dụ 2: Để quan sát và tìm ý bài: "Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em
trong giờ ra chơi" tôi đưa ra hệ thống câu hỏi gợi ý sau:
- Khung cảnh và khơng khí của sân trường trước giờ ra chơi như thế nào?
- Cảnh sân trường trong giờ ra chơi:
+ Âm thanh lúc đó ra sao? Học sinh từ các lớp ra sân như thế nào?
+ Toàn sân trường lúc này ồn ào, náo nhiệt ra sao? (Tiếng cười? Tiếng nói?
các nhóm chơi diễn ra ở những chỗ nào trên sân trường?)

skkn


5
+ Nhóm hoạt động sơi nổi nhất là nhóm nào? Họ chơi những trị chơi gì?
+ Tiếng hị reo, cổ vũ của các cổ động viên lúc trò chơi bắt đầu đến lúc kết
thúc?
- Lúc có tiếng trống báo hoạt động giữa giờ:
+ Các bạn nhanh chóng xếp hàng tập thể dục như thế nào?
- Sau khi hoạt động giữa giờ xong:
+ Trên khn mặt một số bạn có biểu hiện gì?
+ Khơng khí trên sân trường lúc này ra sao?
- Cảm nghĩ của em về giờ ra chơi:
+ Những cảm xúc gì sau giờ ra chơi?
Dựa vào các câu hỏi gợi ý trên, tôi đã giúp cho học sinh vừa quan sát vừa
tìm ra được nét chính, đặc sắc cần miêu tả, đồng thời giúp các em cảm nhận

được hình ảnh, các thơng tin về cảnh vật một cách tường tận, chính xác. Khi
cảnh vật được tả đúng như nó vốn có thì tự nhiên bài văn có sức hấp dẫn, lôi
cuốn người đọc. Điều đặc biệt là quan sát phải có sự lựa chọn, phải tìm ra nét
riêng biệt chủ yếu của sự vật, hiện tượng, tránh kể lể dài dòng, rườm rà.
* Để học sinh quan sát các đối tượng miêu tả có hiệu quả, giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh biết cách vận dụng các giác quan để quan sát.
Ví dụ: Đề bài “Em hãy tả một cơn mưa mùa hè.”
- Tôi hướng dẫn học sinh quan sát bằng các giác quan như sau:
+ Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy hạt mưa
rơi, thấy cây cối, con người (trước, trong và sau cơn mưa)…
+ Xúc giác: Gió thổi làm xua tan cái nóng mà nhường chỗ cho luồng khí
mát lạnh.
+ Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng kêu
của ếch nhái.
Nhờ biết cách vận dụng các giác quan để quan sát mà các em ghi nhận
được nhiều ý, nhiều hình ảnh, làm cho đoạn văn, bài văn thêm đa dạng, phong
phú, chân thực và sinh động.

skkn


6

(Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát quang cảnh trường em và cánh
đồng lúa quê em vào buổi sáng. Các em kết hợp vừa quan sát vừa ghi chép.)
2.3.2. Rèn kỹ năng sắp xếp ý, lập dàn ý sau khi quan sát
Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý, sắp xếp ý và lập dàn ý trước khi làm
bài tập làm văn thực sự là một vấn đề cần thiết và quan trọng. Quan sát nhằm
phát hiện hình dáng, âm thanh, màu sắc riêng của từng sự vật, hiện tượng… Sau
khi quan sát các đối tượng được miêu tả, thường thì các em thu thập được hàng

loạt chi tiết. Lúc đó giáo viên phải hướng dẫn để học sinh biết chọn lọc, giữ lại
chi tiết chính, loại đi những chi tiết không cần thiết. Tôi đã từng bước tập trung
rèn cho học sinh các kĩ năng sau:
*Rèn kỹ năng sắp xếp ý: Sau khi quan sát, tìm ý, trước khi lập dàn bài chi
tiết, học sinh cần xác định trình tự miêu tả để sắp xếp các ý một cách hợp lí.
Nhưng việc sắp xếp các ý một cách có thứ tự vào bài quả là một cơng việc khó.
Trên thực tế học sinh chỉ biết cách quan sát, biết tìm ý nhưng sắp xếp ý đúng
trình tự hợp lý thì các em lại rất lúng túng. Các em không biết nên đưa ý nào vào
trước, ý nào sắp xếp sau. Nhiều học sinh rơi vào tình trạng quan sát được gì viết
nấy, nghĩ gì viết nấy mà khơng cần biết ý văn đó có lơgic hay khơng, có đi theo
trình tự miêu tả hay khơng, dẫn đến bài viết lủng củng, lộn xộn trong cách miêu
tả. Cho nên khi dạy, tôi đã đưa ra và hướng dẫn tỉ mỉ cho các em cách sắp xếp
các ý và nhất là các bài đầu của thể loại tả cảnh. Sắp xếp có thể theo thứ tự thời
gian, khơng gian, tâm lý… Tránh đang tả chi tiết xa lại xen tả chi tiết gần dẫn
đến bài làm lộn xộn.
Với tôi, khi học sinh còn lúng túng trong việc sắp xếp ý, khi dạy văn tả
cảnh, tôi hướng dẫn học sinh sắp xếp ý theo trình tự như sau:
- Tả theo trình tự khơng gian
Tả bao qt tồn bộ trước rồi đến tả từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải,...

skkn


7
Ví dụ: Với bài tả dịng sơng, tơi hướng dẫn học sinh chọn miêu tả theo
trình tự khơng gian là tả từ xa đến gần:
Nhìn từ xa dịng sơng như dải lụa mềm mại uốn lượn quanh thơn xóm.
Nước sơng trong veo in rõ từng mảng mây trời. Bờ bên trái là hàng phi lao xanh
mướt đang in bóng xuống mặt sông như những nàng thiếu nữ yểu điệu soi

gương chải tóc. Trên mặt sơng một vài đám bèo lục bình đang lững lờ trơi. Bên
phải là con đường nhựa nhẵn bóng như đang sánh dun cùng dịng sơng…
- Tả theo trình tự thời gian
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau)
thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu
tả cảnh vật.
Ví dụ: Khi tả dịng sơng, ngồi hướng dẫn học sinh miêu tả theo trình tự
khơng gian, tơi cũng có thể hướng dẫn học sinh miêu tả theo trình tự thời gian
như sau:
+ Buổi sáng, ông mặt trời từ từ nhô lên tỏa những tia sáng rực rỡ xuống
mặt sông.
+ Trưa về, mặt sơng như khốc trên mình chiếc áo lụa đào thướt tha…
+ Chiều đến, là lúc dịng sơng thay chiếc áo xanh lộng lẫy trông thật duyên
dáng.
+ Khi mặt trăng đã lên cao. Dịng sơng mặc áo ráng vàng quyến rũ…
- Tả theo trình tự tâm lí
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả
sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ
nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau
của đối tượng.
Ví dụ: “Sầu riêng là loại trái quý ở miền Nam. Hương vị của nó hết sức
đặc biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa... Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm... Hoa đậu
từng chùm màu trắng ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng
cây kì lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột...”.
Tác giả đã tả nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng.
Với cách sắp xếp các ý theo trình tự nêu trên, dựa vào câu hỏi gợi ý của
giáo viên hướng dẫn khi quan sát và tìm ý tả cánh đồng, một em học sinh đã sắp
xếp các ý sau khi quan sát được như sau:
+ Em tả cánh đồng lúa chín vào buổi sáng.

+ Em quan sát từ xa tới gần.
+ Em nhìn thấy các cảnh vật:
- Màu vàng nhạt trải ra mênh mơng.
- Sóng lúa lao xao xơ nhau chạy.
- Những ruộng lúa gần con đường đã chín vàng.
- Bơng lúa to, hạt mẩy.
- Các bác nông dân gặt lúa trên những thửa ruộng chín sớm.
+ Em nghe thấy tiếng chim hót véo von, tiếng cười nói của các bác nơng
dân.
+ Em ngửi thấy mùi thơm của lúa chín.

skkn


8
Việc sắp xếp các ý đúng trình tự sẽ giúp học sinh lập dàn ý rất dễ dàng,
không bị xáo trộn các ý, tránh bỏ sót ý khi miêu tả.
* Rèn kỹ năng lập dàn ý
Khi học sinh đã biết cách tìm ý và sắp xếp các ý theo đúng trình tự miêu tả
rồi, giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý. Mục đích xây dựng
dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở bài, thân
bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học sinh
viết tràn lan, lạc đề và miêu tả khơng trọng tâm.
.Ví dụ : Lập dàn ý bài văn tả cơn mưa (Tiết 5 tuần 3, Tập 1-Trang 32)
Tôi hỏi các em:
- Phần mở bài em nêu những gì? (Giới thiệu hồn cảnh xuất hiện cơn
mưa)
- Phần thân bài em miêu tả cơn mưa theo trình tự nào? (trình tự thời gian,
từng cảnh vật trong cơn mưa).
+ Những cảnh vật nào ta thường gặp trong cơn mưa (mây, gió, bầu trời,

con người, chim mng...)
- Phần kết bài em nêu những gì? (Nêu cảm xúc của mình và cảnh vật tươi
sáng sau cơn mưa).
Từ đó các em viết sẵn ra giấy và trình bày (làm việc cá nhân) hoặc tổ
chức
từng nhóm chuẩn bị sẵn và gọi đại diện nhóm báo cáo kết quả của nhóm mình.
Hoạt động tiếp theo sau khi tìm ý cho từng phần dàn ý là hoàn thiện dàn
ý. Đây là bước quan trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt
nhất. Từ những ý kiến các em đã tìm được giáo viên tiếp tục hướng dẫn các em
lựa chọn ý hay phù hợp sắp xếp theo trình tự, hệ thống các ý đưa nó vào các
phần khác nhau để hồn thiện dàn ý của bài cụ thể. Giáo viên yêu cầu học sinh
trình bày từng phần của dàn bài để cả lớp nhận xét, sửa chữa bổ sung.
Ví dụ : Dàn ý bài văn tả cơn mưa.
- Mở bài:
+ Trời nổi cơn giông. Mây đen ùn ùn kéo về. Lá rụng lả tả trên mặt
đường. Bụi bay mù mịt báo hiệu trời mưa rất lớn.
- Thân bài:
+ Mây đen bao phủ khắp trời.
+ Gió mang hơi nước mát lạnh.
+ Mưa bắt đầu rơi lẹt đẹt.
+ Mưa nặng hạt dần.
+ Âm thanh của mưa.
+ Nước chảy.
+ Cây cối dưới mưa.
+ Lũ chim ướt lướt thướt.
- Kết bài:
+ Mưa ngớt dần rồi tạnh hẳn.
+ Cây lá sạch bóng, xanh mát như có ai vừa lau chùi.
+ Đường phố lại bắt đầu huyên náo, mọi người lại tiếp tục công việc ...


skkn


9
Đối với học sinh Tiểu học, mỗi em có thể có những suy nghĩ sáng tạo
riêng nên cách sắp xếp ý của mỗi học sinh cũng có đặc điểm riêng. Vì vậy chúng
ta nên tơn trọng đặc điểm, suy nghĩ độc đáo, sáng tạo riêng đó. Nếu dàn ý của
các em vẫn bảo đảm, thể hiện bố cục 3 phần, với nội dung từng phần đầy đủ,
phù hợp yêu cầu của đề bài.
Nhờ hướng dẫn cẩn thận từ khâu quan sát, tìm ý, sắp xếp ý và lập dàn ý
nên bài viết của các em ngày càng có nhiều điểm tiến bộ, nhiều em đã khắc phục
được những điểm yếu kém trước đây như: Sắp xếp ý lộn xộn, tả thiếu chính xác,
viết lan man khơng trọng tâm.
2.3.3. Rèn kĩ năng viết đoạn mở bài, kết bài
Để bài văn thu hút được sự chú ý của người đọc, trên cơ sở dàn bài
vừa lập, các em viết thành bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (mở bài, thân bài, kết
bài). Để viết được bài văn sinh động, giàu hình ảnh cuốn hút người đọc, ngoài
trú trọng hướng dẫn học sinh viết phần thân bài, tơi cịn định hướng cho học sinh
làm tốt cả phần mở bài và kết bài.
* Rèn kĩ năng viết đoạn mở bài: Mở bài là phần đầu tiên, là phần trước
nhất đến với người đọc, tạo cho người đọc cảm giác ấn tượng về bài viết. Phần
này có vai trị và tầm quan trọng khá đặc biệt. Vì vậy một mở bài ngắn gọn, hấp
dẫn sẽ tạo được hứng thú cho người đọc và báo hiệu một bài văn hay. Để học
sinh làm tốt phần mở bài các em cần hiểu được thế nào là mở bài trực tiếp, gián
tiếp, ưu nhược điểm của từng loại.
+ Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu ngay với người đọc cảnh hoặc người mà
mình sẽ miêu tả.
Ưu điểm: Cách trình bày nhanh gọn, tự nhiên, giản dị, dễ tiếp nhận và
thích hợp với bài viết ngắn.
Nhược điểm: Nếu mở bài khơng khéo sẽ gây cảm giác khơ khan, ít hấp

dẫn. Với kiểu mở bài này tôi đã hướng dẫn học sinh một số cách vào bài trực
tiếp như sau:
- Mở bài bằng một câu cảm giới thiệu hoặc đánh giá về cảnh:
Ví dụ: Có em viết mở bài khi tả dịng sơng: “Ơi, dịng sơng q em mới
đẹp làm sao !”
- Mở bài bằng cách nêu cảnh miêu tả và vị trí hoặc thời gian miêu tả đối
tượng:
Ví dụ: “Trước trường em, có dịng sơng hiền hịa thơ mộng”, hoặc “ Buổi
sáng trên quê hương em thật là đẹp và thanh bình”.
+ Mở bài gián tiếp: Là nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào giới
thiệu đối tượng mình định tả. Khi dạy kiểu mở bài này tôi hướng dẫn các em
một số cách mở bài gián tiếp như:
- Mở bài bằng cách so sánh
Ví dụ: Tuổi thơ ấu của tôi gắn liền với nhiều kỉ niệm. Con đường thơ
mộng ngày hai buổi đưa đôi chân nhún nhảy của tôi đến trường. Triền đê - nơi
tôi và các bạn thi nhau thả diều vào mỗi buổi chiều hè. Nhưng thân thiết với tôi
nhất vẫn là cảnh nhộn nhịp của sân trường vào giờ ra chơi.
- Mở bài bằng một câu nói

skkn


10
Ví dụ: “Ơi! Sao tự nhiên trời tối thế nhỉ?” Ngước mắt nhìn lên trời, em
thấy mây đen ùn ùn kéo đến. Gió thổi mạnh làm lá cây trong vườn bay lả tả.
Chắc trời sắp mưa rồi đây.
- Mở bài bằng cách trích dẫn câu văn, câu thơ, câu đố, câu hát… về đối
tượng.
Ví dụ: Có em mở bài chân thật, xúc động: 
“Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày…
“ Quê hương”hai tiếng gọi thân thương nhất với mỗi con người. Bởi đó là
nơi ta sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Đối với em cũng vậy, quê hương em thật
đẹp và mỗi lần nhắc gọi quê hương em thấy trong lịng trào dâng bao cảm xúc
khó tả.”
Với mỗi bài văn tơi ln khuyến khích học sinh mở bài theo cách gián
tiếp. Vì mở bài gián tiếp sẽ làm cho bài văn thêm sinh động, gợi cảm hấp dẫn,
gây hứng thú cho người đọc. Từ những cách mở bài trên, tôi đã rút ra kết luận để
các em hiểu rằng: Vào bài trực tiếp hay gián tiếp bằng cách nhắc lại một câu nói,
một tiếng khóc hay tiếng cười …bao giờ cũng phải bám sát yêu cầu của đề, để
viết được bài văn với nội dung tốt, mang tính nghệ thuật cao.
*Rèn kĩ năng viết đoạn kết bài: Nếu như mở bài như một lời thân ái mời
chào của chúng ta đối với khách tới thăm thì kết bài là lời tạm biệt đầy tình cảm
mến yêu, nó khép lại trước mắt người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình
ảnh đẹp đẽ mà các em đã miêu tả, nó kết lại những ý lớn ở phần thân bài. Vì thế
khi viết phần kết bài, tơi cũng đã hướng dẫn các em viết làm sao cho thật cơ
đọng, ngắn gọn. Chính vì điều đó, ngồi các tiết dạy dựng đoạn kết bài trên lớp,
vào các tiết học Luyện tập thực hành tơi cịn hướng dẫn các em kỹ hơn, cụ thể
hơn các cách kết bài để làm sao sau khi đọc bài văn người đọc có ấn tượng tốt
về bài văn của mình.
Để làm được điều đó các em cần hiểu được thế nào là kết bài mở rộng và
không mở rộng đồng thời cũng biết được với mỗi cách kết bài đều có nhữngcách
diễn đạt khác nhau.
- Kết bài khơng mở rộng: Thường được đóng ý một cách ngắn gọn, đủ ý,
thường là:
Nhận xét, đánh giá về cảnh hoặc người.
Hoặc tình cảm đối với cảnh hoặc người.
Hoặc hành động : Chăm sóc, bảo vệ,...
Các ý trên có thể được sắp xếp ở các vị trí khác nhau để tạo ra các kết bài
khác nhau.

Ví dụ: Khi kết bài văn tả khu vườn vào buổi sáng học sinh nêu được các ý
+ Nhận xét, đánh giá: Khu vườn thật đẹp!
+ Tình cảm: u q và ln cảm thấy thích thú khi ngắm khu vườn.
+ Hành động: Chăm sóc, bảo vệ cây cối.
Với 3 ý trên học sinh có thể viết được các kiểu kết bài chung đảo trật tự
như sau:
+ Khu vườn thật đẹp. Được ngắm nhìn nó em thấy rất thích thú và thoải
mái. Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây ln tươi tốt.

skkn


11
Hoặc: Được ngắm nhìn khu vườn em rất thích thú trước vẻ đẹp của nó.
Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây ln tươi tốt.
Hoặc: Chăm sóc và bảo vệ cây cối ở đây để khu vườn ngày thêm đẹp là
niềm vui của em.
Những kết bài không mở rộng như vậy thường dễ viết nhưng khó hay vì
đã đóng kín bài văn mất rồi. Vậy làm thế nào để có những kết bài khơng chỉ
khép lại bài văn mà cịn mở ra những ấn tượng cảm xúc cho người đọc? Sẽ
khơng khó nếu giáo viên hướng dẫn học sinh biết sử dụng linh hoạt một số kết
bài mở rộng sau đây:
- Kết bài mở rộng: là mở ra những cảm xúc, suy nghĩ  thơng qua cử chỉ,
hành động, ích lợi của cảnh vật của người viết đối với cảnh vật vừa miêu tả.
Cách 1: Thể hiện cảm xúc, suy nghĩ  thông qua cử chỉ, hành động (đầy
yêu mến) đối với cảnh  vật vừa miêu tả.
Ví dụ: Tơi đứng lặng trước cửa lớp ngắm nhìn vẻ đẹp hiền dịu của ngôi
trường trong nắng sớm mùa thu. ( Tả ngôi trường).
Cách 2: Thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của người viết và nêu ích lợi của
cảnh vật được tả hoặc mong ước của mình đối với cảnh đẹp, với q hương, đất

nước: Ví dụ: “ Ơi dịng sơng! Dịng sơng q hương tơi thật hiền hịa. Dịng
sơng làm cho quang cảnh làng q thêm đẹp. Dịng sơng làm xanh mát bãi mía,
nương dâu. Dịng sơng là nơi tơi đằm mình tắm mát mỗi buổi trưa hè. Tơi u
và ln tự hào về dịng sơng q hương đã gắn bó suốt tuổi thơ tơi.”
Với cách viết kết bài mở rộng giúp học sinh vừa bộc lộ được tình cảm,
cảm xúc với đối tượng miêu tả lại vừa mở rộng thêm suy nghĩ, cử chỉ, hành
động của người viết đối với cảnh  vật được miêu tả. Làm cho bài văn sinh động
hơn, giàu cảm xúc hơn, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
2.3.4. Làm giàu vốn từ cho học sinh
Muốn một bài văn hay, có chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ phong
phú. Vậy làm thế nào để tăng vốn từ cho học sinh? Trước tiên giáo viên cần chú
ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập đọc, luyện từ và câu và cả trong khi
dạy các mơn khác hay trong những buổi nói chuyện trong các tiết sinh hoạt
hoặc thông qua đọc sách, báo... Chương trình Tiếng Việt có các phân mơn Tập
đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn theo chủ điểm làm cơ sở để các
em học tốt phân mơn tập làm văn. Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ
ngữ cho học sinh qua từng bài đọc, từng bài tập nhất là hai phân môn: Tập đọc
và Luyện từ và câu.
* Làm giàu vốn từ qua phân môn Tập đọc: Đầu tiên tôi giúp các em tích
luỹ vốn từ ngữ miêu tả qua các bài Tập đọc, nhiều bài Tập đọc là các bài miêu tả
hay của nhà văn, nhà thơ. Số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài đó phong phú, cách
sử dụng rất sáng tạo.
Như các bài Tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (TV 5 - Tập1 -Trang
10); Bài: sắc màu em yêu (TV5 - Tập1 - Trang 19, 20 ). Các em có thể tìm thấy
rất nhiều từ chỉ màu sắc và những hình ảnh mà các sắc màu gợi ra. Như lúa chín
vàng xuộm; Nắng vàng hoe; Mía vàng xọng, tàu đu đủ, lá sắn héo: vàng tươi, lá
mít: vàng ối, con gà, con chó vàng mượt...; Áo mẹ, đất đai, gỗ rừng màu nâu;

skkn



12
Đồng bằng, rừng núi, biển, bầu trời : màu xanh... Hay bài: “Tiếng đàn ba la lai
ca trên sông Đà” (TV 5- Tập 1- Trang 69). Bài “Kì diệu rừng xanh” (TV 5 Tập1- Trang75)...các em cũng thấy được cách dùng từ đặc sắc, những liên tưởng
thú vị và các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa trong các bài tập đọc.
Khi dạy các bài Tập đọc tôi thường gợi ý hướng dẫn các em tìm ra từ ngữ
miêu tả đặc sắc nhất, từ chìa khóa để phân tích cái hay khi tác giả sử dụng
chúng. Tôi cũng đã khuyến khích các em lập sổ tay từ ngữ miêu tả, sau mỗi bài
Tập đọc lựa chọn một vài từ ngữ miêu tả hoặc câu văn miêu tả hay ghi vào sổ.
Thỉnh thoảng các em giở sổ tay ra xem lại, đọc lại nhất là khi chuẩn bị cho tiết
Tập làm văn.Với yêu cầu này học sinh lớp tôi làm rất tốt. Nhiều em thích thú,
say mê sưu tầm những từ ngữ hay, hình ảnh đẹp khơng những trong các bài Tập
đọc mà còn trong Báo đội các em đọc hàng ngày. Nhờ đó mà vốn từ của các em
càng thêm phong phú.
* Làm giàu vốn từ qua phân môn Luyện từ và câu: Là phân mơn có thể
giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều nhất khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong
các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép
từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả như
nhóm từ ngữ miêu tả ngoại hình, nhóm từ ngữ miêu tả đặc điểm cảnh vật, nhóm
miêu tả hoạt động,...
Ví dụ : Khi dạy bài “ Từ đồng nghĩa” có bài tập với đoạn văn “ Màu lúa
chín dưới đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn, lắc
lư những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống, như những chuỗi
tràng hạt bồ đề treo lơ lửng”. Mục đích của bài tập này là nhận xét các từ in đậm
rút ra từ đồng nghĩa. Nhưng đối với tôi ngoài mục đích đó ra nó còn là ghi chép
những câu văn hay mà các em cần học tập khi làm văn tả cảnh.
Do vốn từ của học sinh tiểu học còn quá nghèo nàn, vì vậy các em thường
viết những đoạn văn khơ khan, thiếu tính gợi tả, gợi cảm khơng hấp dẫn người
đọc, người nghe. Để rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ hay trong viết văn tả cảnh cần
đưa ra cho các em một số bài tập khắc phục tình trạng đó bằng hình thức tìm từ

ngữ theo từng đề tài nhỏ... Sau đây là một số ví dụ minh họa:
Ví dụ 1: Tìm những từ láy gợi tả âm thanh trên dịng sơng: (Bì bọp, lăn tăn,
lao xao, ì ọp, ì ầm, ào ào, xơn xao,…)
Ví dụ 2: Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với con sơng: (Dịng sơng
như dải lụa, dịng sơng như con trăn khổng lồ trườn lên bãi mía bờ khoai, dịng
sơng như người mẹ ơm ấp đồng lúa,…)
Ví dụ 3: Cung cấp cho các em các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề
cụ thể như:
+ Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn, rung
rinh, um tùm, khẳng khiu, rực rỡ, mở màng, vàng úa, xơ xác, lác đác…
+ Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: trịn xoe, vng vắn, nhỏ
nhắn, xinh xắn, đo đỏ…
+ Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: oai vệ, rón rén, lặc lè, nhanh
thoăn thoắt, chậm chạp, ì ạch, phành phạch, tinh nhanh, ranh mãnh…
+ Những từ chỉ màu sắc, những từ chỉ mức độ khác nhau của màu xanh,
màu đỏ, màu vàng, màu tím, màu nâu,…

skkn


13
Bên cạnh các phân môn như Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể
chuyện ở mơn Tiếng Việt thì các mơn học khác như: Địa lí, Lịch sử, Đạo đức đã
góp phần khơng nhỏ trong việc viết nên những đoạn văn, bài văn hay của các
em. Trong quá trình dạy các môn học này tôi cũng đã lồng ghép, đưa ra một số
yêu cầu cụ thể đối với từng bài giúp các em khắc sâu kiến thức của bài học.
Đồng thời phát huy được tính sáng tạo trong việc dùng từ diễn đạt của các em, ý
đoạn văn của các em muốn thể hiện.
Ví dụ: Khi dạy bài “Vùng biển nước ta” (SGK Địa lí 5 trang 77,78,79)
các em quan sát những hình ảnh minh hoạt trong bài học kết hợp với các thông

tin trong bài học và vốn hiểu biết của các em, vốn hiểu biết có được qua tích luỹ
các năm học trước, qua ti vi, sách báo... Khi củng cố bài tổ chức cho các em thi
nhau giữa các nhóm, các tổ chơi trị chơi “ Tập làm hướng dẫn viên du lịch” giới
thiệu với bạn bè trong nước và quốc tế về vẻ đẹp của đất nước, của vùng biển
Việt Nam... Một số em có năng khiếu về viết văn của lớp tơi có những bài
thuyết trình rất hay.
Qua những trị chơi của mơn học này tôi thấy các em rất mạnh dạn, tự tin
hứng thú trong học tập, khả năng thể hiện ngôn ngữ nói của các em cũng được
nâng lên rõ rệt. Vốn từ được tích lũy từ nhiều nguồn: Giao tiếp hàng ngày; đọc
sách, báo; xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung
cấp…
*Làm giàu vốn từ thông qua đọc sách, báo: Để ngày càng nâng cao và
hiểu rõ vốn từ và để đọc sách báo có hiệu quả, tôi luôn cố gắng hướng dẫn cho
các em phương pháp, thời gian đọc sách cho hợp lí và khoa học. Đọc sách phải
có sự nghiền ngẫm, suy nghĩ để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của câu chuyện
hay bài văn mình đọc. Khi đọc xong nên ghi chép những từ ngữ, những ý hay
hoặc đoạn văn mà mình u thích vào sổ tay văn học. Để làm được điều đó, lớp
tơi đã xây dựng một tủ sách ngay tại lớp học. Tủ sách này nhằm tập hợp những
quyển sách hay, số báo của trường phục vụ cho học sinh trong lớp. Khi học sinh
có nhu cầu đọc sách các em sẽ đến mượn ở tủ và đọc xong lại cất vào vị trí một
cách tự giác. Khi phát động phong trào đọc sách, tôi hướng dẫn các em tìm đọc
các loại sách có ở tủ sách thư viện, ở tủ sách của lớp, …(Lưu ý học sinh đọc các
loại sách báo phù hợp với lứa tuổi). Ngoài việc tự đọc, tơi cịn cho một số em có
kỹ năng đọc tốt đọc các tin, bài, tác phẩm hay trước lớp trong giờ ra chơi,15
phút sinh hoạt đầu buổi. Nhìn chung học sinh rất hứng thú nghe và cảm nhận
được nhiều cái hay, cái đẹp trong thơ văn; về đặc điểm, tính cách của từng nhân
vật trong mỗi câu chuyện. Sự cảm nhận đó sẽ giúp các em rất nhiều trong việc
tính lũy vốn từ và kiến thức cho việc học, nâng cao khả năng lực dùng từ và viết
viết văn miêu tả phong phú và hợp lí hơn.
Qua các ví dụ trên, học sinh sẽ tự mình làm giàu được vốn từ và sử dụng

một cách có hiệu quả khi viết các đoạn văn, bài văn tả cảnh khác nhau. Những
cách làm như trên nhằm trang bị cho học sinh vốn từ phong phú, chuẩn bị tốt
điều kiện cho các em làm bài viết.

skkn


14
Góc thư viện của lớp

Học sinh đọc truyện trong giờ ra chơi

2.3.5. Sử dụng biện pháp nghệ thuật (nhân hoá, so sánh) trong văn tả
cảnh
Như chúng ta đã biết, sử dụng biện pháp nhân hoá, so sánh trong viết văn
thể hiện sự nhận thức chính xác, sâu sắc của người sử dụng và tăng cường sự
nhận thức cho người đọc, người nghe về sự vật. So sánh làm tăng sức gợi hình,
gợi cảm cho sự diễn đạt, khiến sự vật được so sánh trở nên đẹp đẽ, sinh động, hấp
dẫn, cụ thể và lôi cuốn người đọc, người nghe. Nhân hoá làm cho sự vật được
miêu tả sinh động, hấp dẫn, lí thú, làm các đối tượng khơng phải con người lại
mang dấu hiệu, thuộc tính của con người, các sự vật được thổi một luồng sinh khí
mới vào cuộc sống của chúng, đó là sức sống của con người. Với hai biện pháp
này, người miêu tả có thể thể hiện được màu sắc, hình khối, âm thanh và thể hiện
kín đáo sâu sắc tình cảm, cảm xúc, thái độ, sự đánh giá đối với sự vật đó. Chính
vì vậy, tôi giúp học sinh khai thác, sử dụng hai biện pháp này vào viết văn miêu
tả.
*Hướng dẫn học sinh cách dùng biện pháp so sánh
So sánh là việc đối chiếu hai hay nhiều sự vật, sự việc cùng có một nét
giống nhau nào đó, nhằm diễn tả một cách đầy đủ các hình ảnh, đặc điểm của sự
vật, hiện tượng. Biện pháp nghê thuật này khơng cịn xa lạ đối với học sinh lớp 5

vì các em đã được học ở chương trình Tiếng việt lớp Ba, lớp Bốn.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ
thuật khi miêu tả và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như
vậy. Học sinh có thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì
nhưng khi viết văn lại khó vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp
các em? Tôi đã giúp các em bằng cách như sau:
Ví dụ: Giáo viên đưa ra đoạn văn sau:
“Những tàu lá chuối vàng ối xõa xuống như những đi áo, vạt áo. Nắng
vườn chuối đương có gió lẫn với lá vàng như những vạt áo nắng, đuôi áo nắng
vẫy vẫy”.
- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên.

skkn


15
- Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.
- Giải thích vì sao có thể so sánh những tàu lá chuối vàng ối xõa xuống
với đuôi áo, vạt áo (mà không phải sự vật khác).
- Tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh “những tàu lá chuối vàng ối xõa
xuống” với hình ảnh khác theo cảm nhận của các em. Chú ý giúp học sinh nhận
ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và những so sánh khơng có giá trị.
Sau khi học sinh biết vận dụng để tìm hình ảnh so sánh khác thay thế, giáo viên
tiếp tục đưa ra ví dụ khác để học sinh củng cố.
Ví dụ: Trong một câu văn học sinh đã viết: Lá tràm nhỏ, cong cong màu
xanh.
Tôi đã gợi ý để học sinh tìm ra được sự liên tưởng so sánh:
Nhìn lá tràm nhỏ, cong cong em liên tưởng đến những vật gì?
Học sinh:
+ Quả chuối cịn non.

+ Vầng trăng khuyết.
+ Cái lưỡi liềm.
+ Con thuyền.
Từ những liên tưởng ấy tôi đưa ra yêu cầu cho các em. Em hãy dùng biện
pháp so sánh để viết lại câu văn trên sao cho hay hơn? Bằng những kiến thức đã
học được, các em viết thành những câu văn đầy đủ về nội dung và sữ dụng biện
pháp nghệ thuật so sánh.
+ Lá tràm màu xanh, cong cong như một vành trăng khuyết.
+ Lá tràm như vầng trăng đầu tháng treo lơ lửng trên cành cây.
+ Mỗi chiếc lá tràm xanh là một chiếc lưỡi liềm bé xíu.
+ Những chiếc lá tràm như những chiếc thuyền màu xanh bé tí.
Đối với dạng bài tập này tôi thường cho các em thảo luận nhóm đơi để
cùng tìm từ so sánh trong câu văn cho phù hợp.
Cứ như vậy, với cách làm trên thì trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày
một phong phú, khả năng diễn đạt câu văn của học sinh cũng ngày một nâng
cao. Trong các bài viết đưa biện pháp mô tả vào để so sánh là một việc làm dễ
dàng đối với học sinh.
* Hướng dẫn học sinh cách dùng biện pháp nhân hóa
Một bài văn hay khơng những phải biết tìm ra các hình ảnh so sánh đặc
sắc mà còn cần người viết phải biết sử dụng các biện pháp tu từ khác như nhân
hóa để có thể khiến sự vật, hiện tượng được miêu tả trong bài văn trở nên sống
động và có tình cảm hơn, dễ đi sâu vào lòng người hơn. Đây là biện pháp thuộc
thói quen của các em. Các em được tiếp xúc từ khi còn trong vòng tay bế bồng
của mẹ qua những lời ru cái cò, cái vạc, cái nơng… Rồi những câu chuyện cổ
tích của bà, của mẹ, cô giáo, các em được tiếp xúc với cả một thế giới nghệ thuật
nhân hóa. Khơng cần phải dạy nhiều ta chỉ cần giới thiệu qua là học sinh có thể
nắm bắt được bằng các cách sau:
Cách 1: Có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người. Để cho học sinh thấy
được tính ưu việt của biện pháp nghệ thuật này tôi đã cho các em so sánh các
cặp ví dụ cụ thể:

Thân chuối màu đen khơ ráp vì nắng.

skkn


16
Chị chuối thật giản dị trong bộ áo đen khô ráp vì nắng gió.
Gà mái mơ ni con rất khéo.
Chị gà mái mơ dịu hiền chăm sóc con thật khéo léo.
Bông hồng nhung vươn cao.
Cô hồng nhung kiêu hảnh vươn cao, hình như nó rất tự hào với sắc đẹp
của mình…
Qua đây học sinh sẽ rõ ràng nhận thấy câu văn thứ 2 hay hơn câu văn thứ
nhất vì sự vật đã được nhân hóa . Chúng ta có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên
người: Cô trăng, chị gió, bác mặt trời, anh gà trống, chị mái mơ, bác mèo mướp,
chị chuối tiêu,… để câu văn giàu biểu cảm, gần gũi và sinh động hơn.
Cách 2: Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật.
Xu xi hồn nhiên
Hoa quỳnh trầm tư
Đào bích cười tươi roi rói
Phong lan yểu điệu
Chị mái mơ hiền lành…
Khi miêu tả sự vật gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự
vật đó làm cho bài văn thêm sinh động, hấp dẫn hơn. Bên cạnh đó, tơi thường
dành thời gian đọc cho các em nghe những câu chuyện có sử dụng nhiều biện
pháp nhân hóa như: Dế mèn phiêu lưu kí, Võ sĩ bọ ngựa, Hai con ngỗng… của
nhà văn Tơ Hồi (tiến hành vào tiết sinh hoạt tập thể, kể chuyện).
Nhắc học sinh liên tưởng đến các câu chuyện cổ tích có các con vật đáng
u thơng minh, tinh nghịch. Đó là những câu mẫu giúp cho học sinh tập để nắm
được cách sử dụng biện pháp nghệ thuật này.

Học sinh có được sự hiểu biết rõ ràng về biện pháp nghệ thuật này tôi cho
các em luyện tập ngay một số dạng bài tập:
+ Tập nhân cách hóa các con vật, cây cối, đồ vật xung quanh bằng cách 1
hoặc cách 2?
+ Nêu tâm trạng của các loài vật vào mùa xuân?
+ Tưởng tượng ra cuộc trị chuyện của bầy chim, những chú chó, mèo…?
+ Chị mái mơ rất giống một người mẹ hiền. Em hãy tưởng tượng những
cử chỉ, lời nói, việc làm của chị chứng tỏ điều đó?
Dựa vào những câu chuyện đã được nghe, những bộ phim hoạt hình đã
được xem thì những bài tập trên khơng khó lắm đối với học sinh. Tuy nhiên giáo
viên cần lưu ý chủ đề viết. Có thể gợi ý học sinh như sau:
Bác mặt trời tỏa tia nắng ban mai hồng tươi.
Chị gió tinh nghịch nơ đùa cùng đám lá.
Mèo mướp lười biếng nằm sưởi nắng ở dưới sân.
Chị chim sâu chăm chỉ lách cách truyền cành.
Hồng nhung lộng lẫy trong chiếc áo đỏ thắm mịn màng.
Cúc vàng ủ rũ nhìn các bạn đi hội xuân. Nó khơng cịn bộ quần áo nào lành
lặn cả.
Hễ kiếm được miếng mồi nào chị mái mơ cũng lục tục gọi bầy con đến
nhường cho chúng.

skkn


17
Khi các em đã hiểu rõ nội dung bài học tơi khích lệ tinh thần các em bằng
các cuộc thi nhỏ giữa các nhóm trong lớp. Các em tìm từ thay thế trong câu để
luyện tập, củng cố, khắc sâu vốn từ.
Qua các dạng bài tập làm văn trên, các em đã bộc lộ được vốn sống thực
tế của mình để viết được câu văn, đoạn văn hoặc bài văn hay, từ đó tạo điều

kiện cho các em cảm nhận được vẻ đẹp của thơ văn một cách tinh tế và sâu sắc.
2.3.6. Giúp HS biết cách thể hiện tình cảm, cảm xúc khi làm văn tả
cảnh
 Khi làm văn miêu tả, người viết cần bộc lộ tình cảm, cảm xúc, có như
vậy bài văn mới có hồn, sinh động. Nhờ vậy mà hình ảnh miêu tả trở nên sống
động, dễ để lại ấn tượng cho người đọc. Tuy nhiên tình cảm, cảm xúc trong văn
miêu tả phải chân thành, thật thà khơng sáo rỗng, gượng ép thì mới dễ đi vào
tâm trí người đọc. Bài văn hay khơng thể thiếu được cảm xúc của người nói,
người viết, cảm xúc khơng chỉ bộc lộ ở phần kết luận mà còn thể hiện trong từng
câu, từng đoạn của bài văn, giáo viên cần tạo cho các em có thói quen bộc lộ cảm
xúc khi đang tả hoặc đang kể một sự việc gì, tránh tình trạng khi đến cuối bài văn
mới phát biểu suy nghĩ như một công thức cho bài văn.
Bởi vậy ta khơng nên địi hỏi các em một cách chung chung. Để các em
lồng được tình cảm của mình vào từng ý văn, và để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt,
học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện viết như: với các từ cho sẵn, viết
thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi dùng từ; từ ý đã cho viết thành câu
gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu từ theo yêu cầu, làm các bài tập mở
rộng thành phần câu... để cách diễn đạt được sinh động, gợi tả, gợi cảm hơn.
Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh
đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu hoặc viết đoạn văn có sử dụng
biện pháp so sánh, nhân hố, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm
thanh hay những từ biểu lộ tình cảm, giáo viên nên gợi ý cho học sinh từng bước
cụ thể như sau:
Ví dụ 1:
Từ câu học sinh viết: “Em nhìn những cánh diều đang bay trên bầu trời”.
Tôi gợi ý để học sinh viết lại sao cho khi đọc lên người ta thấy rõ những
cánh diều ấy rất đẹp và em rất thích chúng.
Học sinh viết lại:
+ Em say sưa ngắm nhìn những cánh diều đang bay lượn trên bầu trời
xanh thẳm.

+ Em thích thú ngắm nhìn những cánh diều đang chao lượn trên nền trời
xanh biếc.
+ Em mải mê ngắm nhìn những cánh diều đang đùa vui với gió trên
khoảng trời xanh vơ tận.
+ Ngắm nhìn những cánh diều tự do bay lượn trên trời, hè lại ùa về trong
em.
Từ đó học sinh viết những câu cảm xúc theo một đề tài định sẵn.
Ví dụ 2: Hãy viết một câu thể hiện cảm xúc, tình cảm của em về quê
hương.

skkn



×