Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Skkn một số giải pháp phát triển năng lực nói cho học sinh lớp 6 tại trường thcs nga giáp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1007.29 KB, 21 trang )

0

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NÓI
CHO HỌC SINH LỚP 6 TRONG GIỜ NGỮ VĂN
TRƯỜNG THCS NGA GIÁP

Người thực hiện: Phạm Thị Thủy
Chức vụ: giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Nga Giáp
SKKN thuộc mơn: Ngữ văn

THANH HĨA, NĂM 2022

skkn


1
MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lí do chọn đề tài.
1
1.2. Mục đích nghiên cứu.


1
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
3
nghiệm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
5
5
2.3.1. Giúp học sinh hiểu yêu cầu về năng lực nói đối với học sinh
lớp 6.
2.3.2. Một số giải pháp khắc phục nhược điểm khi nói của học sinh
5
lớp 6.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
15
3. Kết luận, kiến nghị
16
3.1. Kết luận.
16
3.2. Kiến nghị.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SKKN

NGÀNH GIÁO DỤC XẾP LOẠI

skkn


2
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Đối với ngành giáo dục nước nhà, năm 2018 là một dấu mốc quan trọng
trong hành trình cải cách, đổi mới tồn diện và mạnh mẽ của ngành. Theo đó,
chương trình giáo dục phổ thông sẽ đổi mới từ sách giáo khoa, đến phương pháp
giảng dạy và phương pháp tiếp nhận của người học. Mục tiêu chương trình được
xây dựng theo định hướng phát triển năng lực học sinh, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại góp phần tạo ra những chuyển biến căn bản, toàn diện về chất
lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông: kết hợp dạy chữ, dạy người, định hướng
nghề nghiệp, phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Nói cách khác, giáo
dục góp phần đào tạo ra những con người tích cực, chủ động, sáng tạo trong
hoạt động chiếm lĩnh tri thức, là những con người học để làm, học để sống tốt
hơn. Xã hội hiện nay cần những con người năng động, có nhiều kỹ năng để bắt
nhịp được với cuộc sông hiện đại chứ không cần những “mọt sách”, hay những
chú “gà cơng nghiệp” được cho ăn bằng những món ăn chế biến sẵn.
Đối với môn Ngữ văn lớp 6, mỗi bài học trong chương trình được thiết kế
theo bốn hoạt động: Đọc, viết, nói và nghe nhằm phát triển ngơn ngữ và năng
lực văn học cho học sinh. Tất cả những yêu cầu này trong môn Ngữ văn lớp 6
đều yêu cầu thực hiện theo tinh thần của cải cách giáo dục, nghĩa là thực hiện
bằng phương pháp dạy học mới gắn với phát triển năng lực học sinh. So sánh
việc thực hiện chương trình cũ và mới có thể nhận thấy, yêu cầu về năng lực nói
và nghe được đặt ra cụ thể, rõ ràng, thường nhật trong mỗi bài học chứ khơng
chỉ nằm trong tiết luyện nói như chương trình và sách giáo khoa trước đây. Nhận
thấy yêu cầu cần thiết này và để đáp ứng được yêu cầu thực hiện chương trình

và sách giáo khoa mới, tơi đã chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển năng lực
nói cho học sinh lớp 6 trong giờ Ngữ văn Trường THCS Nga Giáp”. Đây là
một trong những đề tài đáng quan tâm nhưng chưa được nhiều giáo viên thực
hiện nghiên cứu, nhất là đối với chương trình Ngữ văn 6 năm nay. Vì vậy, tơi
mong muốn mình có sự tìm hiểu, nghiên cứu kĩ lưỡng để nâng cao năng lực nói
cho học sinh lớp 6 trong giờ Ngữ văn tại trường THCS Nga Giáp nói riêng và
nâng cao chất lượng dạy và học bộ mơn nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm này nhằm tổng hợp những giải pháp phát triển năng
lực nói cho học sinh lớp 6 tại trường THCS Nga Giáp với mục đích sau:
Hoạt động nói của học sinh là hoạt động quan trọng trong giờ học hiện
nay, bởi giờ học được thực hiện bằng các phương pháp dạy học phát triển năng
lực học sinh đồng nghĩa với việc học sinh chủ động tiếp nhận và trình bày các
vấn đề đặt ra trong bài học. Nếu học sinh yếu năng lực nói, q trình học tập sẽ
không đạt yêu cầu về đổi mới phương pháp, giờ học không đảm bảo được về
thời gian cho tất cả các hoạt động. Đồng thời, giờ học cũng vì thế mà thiếu đi

skkn


3
phần sinh động, hấp dẫn, khơng khí học tập sẽ kém phần sôi nổi. Nên mỗi giáo
viên cần quan tâm đến các hoạt động nói của học sinh
Phát triển năng lực nói cho học sinh là góp phần hình thành và phát triển
kĩ năng sống hữu ích trong cuộc sống thường ngày.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1. Học sinh lớp 6A trường THCS Nga Giáp: Nghiên cứu năng lực nói của
học sinh nói chung và năng lực nói trong giờ Ngữ văn nói riêng
2. Các hoạt động học tập sử dụng năng lực nói của học sinh.
3. Các giải pháp phát triển năng lực nói cho học sinh đạt hiệu quả.

1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1. Phương pháp thống kê và tổng hợp: Dùng để thống kê, tổng hợp các
vấn đề cần nghiên cứu.
2. Phương pháp phân tích, phân loại : Dùng để trình bày các thao tác, các
giải pháp thực hiện trong đề tài.
3. Phương pháp so sánh, đối chiếu: Dùng để so sánh, đối chứng các nội
dung, các kết quả thực hiện được khi áp dụng đề tài.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Một số khái niệm có liên quan đến đề tài sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Năng lực.
- Nghĩa rộng: Năng lực là khả năng tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để
thực hiện thành công một loại công việc.
- Nghĩa hẹp: Năng lực là khả năng để thực hiện một hoạt động nào
đó. Chương trình giáo dục phổ thơng năm 2018 xác định các nhóm năng lực cần
hình thành và phát triển cho học sinh gồm: Các năng lực chung là năng lực tự
chủ, tự học; năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
và 7 năng lực chuyên môn (năng lực tìm hiểu tự nhiên xã hội, năng lực cơng
nghệ, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất, năng lực tin học, năng lực tính tốn
và năng lực ngơn ngữ). Trong đó, năng lực nói thuộc nhóm năng lực chung
trong giao tiếp. Đó cũng là năng lực đặc thù của mơn Ngữ văn hiện nay.
2.1.2. Năng lực nói.
Nói là kỹ năng dùng âm thanh để diễn tả ý kiến của mình khi trị chuyện,
giao tiếp để người nghe hiểu được điều mình muốn nói. Một người được đánh
giá có năng lực nói tốt, nói hay là người có khả năng nói lưu lốt, dễ hiểu, phong
thái nói tự tin, giọng nói truyền cảm, tác động mạnh tới cảm xúc của người
nghe. Năng lực nói được hình thành và phát triển qua việc rèn luyện từng kĩ
năng nói như: Sử dụng âm lượng giọng nói, điệu bộ, cử chỉ khi nói, sử dụng
ngơn ngữ nói, cách sắp xếp ý để trình bày nội dung cần nói v.v...


skkn


4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Khảo sát về các nội dung liên quan đến hoạt động nói của học
sinh theo chương trình Ngữ văn lớp 6 cũ (chương trình năm 2002) và sách
giáo khoa Ngữ văn mới lớp 6 (Chương trình năm 2018 - Bộ sách “Kết nối
tri thức với cuộc sống”)
Chương
Chủ đề nói
trình
Năm 2002 Luyện nói kể chuyện
Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét
Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong
văn miêu tả
Năm 2018 Kể về một trải nghiệm của bản thân (2 bài)
(Bộ sách Trình bày ý kiến vể một vấn để trong đời sống gia đình
“ Kết nối Trình bày suy nghĩ về tình cảm của con người với quê hương
tri thức
Chia sẻ một trải nghiệm về nơi em sống hoặc từng đến
với cuộc Kể lại một truyền thuyết
sống”)
Kể lại truyện cổ tích bằng lời một nhân vật
Trình bày ý kiến về một hiện tượng (vấn để) đời sống
Thảo luận về giải pháp khắc phục nạn ô nhiễm môi trường
Giới thiệu sản phẩm minh hoạ sách, trình bày ý kiến về một vấn
đề trong đời sống được gợi ra từ cuốn sách đã đọc
Qua bảng tổng hợp trên có thể thấy: Việc rèn kĩ năng nói cho học sinh trong
mơn Ngữ văn thực tế đã có trong chương trình Ngữ văn. Đối với chương trình

Ngữ văn năm 2002 ở các khối lớp nói chung, rèn kĩ năng nói cho học sinh được
thực hành qua tiết luyện nói thuộc phân mơn Tập làm văn. Khi đó, số tiết luyện
nói trong mỗi học kì khơng nhiều, chỉ từ 2 - 3 tiết. Cụ thể ở lớp 6 trước đây, như
đã tổng hợp ở trên, cả năm học gồm có 3 bài luyện nói thuộc các bài: Luyện nói
kể chuyện (Học kì I) và “Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận
xét trong văn miêu tả”, “Luyện nói văn miêu tả” (Học kì II). Như vậy, số tiết
luyện nói trong một năm học khơng nhiều. Và kĩ năng nói trong môn Ngữ văn
cũng chưa được quan tâm, trau dồi so với việc rèn kĩ năng viết cho học sinh. Vì
vậy, một thực trạng cần phải thay đổi trong quá trình thực hiện tiết luyện nói là
tâm lí coi nhẹ tiết học này của cả giáo viên và học sinh dẫn đến tiết học chưa
thực hiện đúng bản chất của giờ luyện nói. Nhiều giáo viên biến giờ luyện nói
thành giờ hướng dẫn lập dàn ý mà công việc chủ yếu trong giờ học đó là do giáo
viên đảm nhiệm. Đến lúc cần cho học sinh hoạt động thì đã hết giờ. Đó là một
sự bất cập mà các nhà nghiên cứu chương trình và sách giáo hoa đã nhìn nhận,
đánh giá và thực hiện thay đổi khi ban hành chương trình giáo dục phổ thơng
mới năm 2018.

skkn


5
Nhìn vào chương trình Ngữ văn mới, chúng ta thấy chương trình bố trí đều
đặn các tiết nói và nghe trong từng bài. Tương đương với 10 đơn vị bài học là ít
nhất 10 tiết luyện nói (Nhiều trường xây dựng kế hoạch bài dạy cho mỗi phần
luyện nói trong từng bài gồm 2 tiết, tương đương 20 tiết luyện nói và nghe).
Về chủ đề nói, chương trình năm 2002 tập trung vào các chủ đề gắn với bài
viết Tập làm văn là văn tự sự và văn miêu tả. Cịn chương trình năm 2018 quan
tâm đến các chủ đề của từng bài học nên phần chủ đề nói gắn với cả phần đọc,
viết và các vấn đề thiết thực của đời sống. Như vậy, phần nói trong chương trình
Ngữ văn mới đa dạng hơn rất nhiều về chủ đề, mang tính tích hợp tốt hơn, gắn

việc học văn với rèn kĩ năng sống nhiều hơn.
Qua thống kê như vậy có thể thấy được tầm quan trọng của việc phát triển
năng lực nói cho học sinh và việc làm của giáo viên dạy Ngữ văn hiện nay trong
tiết nói và nghe cũng cần có sự thay đổi để đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay.
2.2.2. Thực trạng học sinh lớp 6 trường THCS Nga Giáp và vấn đề năng lực
nói.
Số liệu khảo sát về một số hạn chế về năng lực nói của học sinh lớp 6A
Trường THCS Nga Giáp trước khi thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
Hạn chế về năng lực nói
Lớp/sĩ
số
6A (29)

Phát âm sai
(Sai phụ âm,
sai dấu thanh)
3 (10,4%)

Nói lắp

Thiếu tự tin
khi nói

Nói nhỏ

3 (10,4%)

10 (34,5%)

5 (17,2%)


Học sinh lớp 6A do tôi trực tiếp giảng dạy đa phần là học sinh có hồn
cảnh khó khăn. Gia đình các em thường gửi gắm con cho ơng bà ni dưỡng và
chăm sóc để bố mẹ đi làm ăn kinh tế. Do vậy, việc học của các em ít được bố mẹ
quan tâm.
Một thực trạng cần quan tâm nữa là do đặc điểm ngôn ngữ địa phương, các
em còn bị phát âm sai như l/n, ng/n...thêm nữa các em chưa tự tin khi nói trước
đám đơng. Vì vậy, mỗi khi cần trình bày vấn đề trong bài học hay ý kiến thảo
luận các em thường nói nhỏ, hoặc nói vội. Chính vì vậy trong tiết nói và nghe là
tiết chủ yếu để thực hành luyện nói thì các em chưa đủ mạnh dạn để trình bày
vấn đề theo yêu cầu của bài nói. Cũng do kĩ năng nói chưa tốt mà nhiều em học
sinh không hào hứng trong giờ thực hành nói và nghe. Các em có tâm lí ngại bị
thầy cơ gọi trình bày vấn đề.
Mặt khác, nhiều em học sinh chưa có nhiều vốn sống và vốn từ ngữ để diễn
đạt, chưa có điều kiện để thực hành giao tiếp nhiều nên khi nói cịn có nhiều lỗi
về dùng từ, về sắp xếp trình tự nội dung nói...
Với những thực trạng được đề cập ở trên, nhiệm vụ của giáo viên là phải
khắc phục dần dần từng hạn chế, rèn từng kĩ năng nói cho học sinh thì mới có
thể hình thành và phát triển thành năng lực nói thực sự ở các em, giúp các em có

skkn


6
thể sử dụng năng lực đó khơng chỉ trong giờ Ngữ văn mà cịn sử dụng năng lực
đó trong các giờ học ở những bộ môn khác hay trong giao tiếp hàng ngày.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Giúp học sinh hiểu yêu cầu về năng lực nói đối với học sinh lớp 6.
Trước hết là yêu cầu nói đúng, nói trúng vấn đề mà giáo viên yêu cầu. Đây
là yêu cầu về nội dung nói có ý nghĩa thuyết phục người nghe đầu tiên. Yêu cầu

nói đúng vấn đề gắn với sự hiểu biết đúng đắn của học sinh về vấn đề đó. Yêu
cầu nói trúng ở đây là trúng trọng tâm vấn đề cần nói, khơng lan man, dài dịng
tới các vấn đề khác, vừa làm mất thời gian, vừa làm tản mạn nội dung nói khiến
các học sinh khác khó nắm bắt nội dung vấn đề.
Tiếp đến yêu cầu nói mạch lạc, rõ ràng và lưu lốt vấn đề cần trình bày:
Yêu cầu này được khá quan trọng bởi nó quyết định phần lớn hiệu quả trong
hoạt động nói trước lớp của học sinh. Học sinh nói trước lớp có trình bày rõ ràng
mạch lạc vấn đề, các học sinh khác mới tiếp thu được vấn đề, mới lắng nghe với
thái độ tích cực. Để nói rõ ràng, mạch lạc thì yêu cầu về cách dùng từ hay diễn
đạt thành câu văn cũng cần chính xác, dễ hiểu, gần gũi với cách nói của người
địa phương.
Để lời nói có sức truyền cảm cần có âm lượng phù hợp, ngữ điệu phù hợp.
Học sinh cần phân biệt được giữa bài nói và bài đọc để khơng biến hoạt động
nói thành hoạt động đọc lại phần nội dung đã chuẩn bị. Đặc biệt, phần nói trong
các tiết nói và nghe cần có sự kết hợp giữa biểu cảm của khuôn mặt và các cử
chỉ phi ngơn ngữ khác để tăng tính thuyết phục cho bài nói.
2.3.2. Một số giải pháp khắc phục nhược điểm khi nói của học sinh lớp 6.
Qua thực tế giảng dạy và tiếp xúc với các em học sinh lớp 6A và qua bảng
tổng hợp các hạn chế của học sinh liên quan đến hoạt động nói đã trình bày ở
trên, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau đây:
* Về nhược điểm học sinh nói ngọng, phát âm sai, nói lắp:
Tìm hiểu ngun nhân: Một số nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là do:
Tiếng địa phương (sai phụ âm l/n; sai dấu thanh ngã/hỏi/sắc), do bẩm sinh.
Lỗi phát âm sai do tiếng địa phương không phải dễ khắc phục được ngay
do thường ngày các em và mọi người xung quanh vẫn nói như vậy, lại tiếp xúc
với những người địa phương nên để sửa được cần cho các em nghe giọng nói
chuẩn phát âm từ toàn dân và yêu cầu các em luyện nhiều lần. Sau đây là một số
bài tập luyện phát âm đúng phụ âm “l- n” như ví dụ dưới đây:
Nói năng nên luyện ln ln,
Lời nói lưu lốt luyện ln lúc này

Lẽ nào nao núng lung lay
Lên lớp lú lẫn lại hay nói lầm"
Đọc phương châm luyện nói: Nói lẫn lần này nên nói lại, nói lẫn lần nữa lại
nói lại, nói lúc nào lưu lốt hết lầm lẫn là lên lớp nói tự tin.
(sưu tầm: nguồn Internet)

skkn


7
Dạng bài tập luyện phát âm đúng hai phụ âm “L - N” trên Internet có rất
nhiều bài tập khác nhau, giáo viên có thể giới thiệu để học sinh tự tìm và tự tập
luyện.
Bài tập có thể tổ chức thành trị chơi khởi động trong giờ “Nói và nghe”
hoặc lúc kết thúc giờ học hoặc yêu cầu luyện tập ở nhà đối với riêng học sinh
mắc lỗi (Có thể phân cặp đơi cùng luyện sẽ có hiệu quả hơn). Giáo viên có thể ra
quy định chấm điểm như sau:
- Đọc đúng và nhanh:
3 điểm
- Đọc đúng và chậm:
2 điểm
- Đọc sai 1 lỗi:
1 điểm
- Đọc sai nhiều hơn 1 lỗi: 0 điểm
Để thực hiện nghiêm túc việc luyện tập, giáo viên cho học sinh lập nhật kí
và tự theo dõi sự tiến bộ thông qua bảng chấm điểm như trên.
Đối với lỗi nói lắp, lỗi này khiến học sinh cảm thấy thiếu tự tin vì gặp khó
khăn khi nói từ ngữ bị lặp lại khiến người nói khó diễn đạt đúng ý định của
mình. Trong mơi trường lớp học, học sinh nào mắc lỗi này thường gây cười cho
các học sinh khác khiến người nói xấu hổ và mất tự tin. Giải pháp khắc phục là

yêu cầu học sinh giữ tâm lí thoải mái khi nói, nói chậm rãi và động viên, khích
lệ học sinh. Đối với các học sinh khác, nhắc nhở học sinh khơng nên có thái độ
nhạo báng, khiếm nhã mà cần lắng nghe và giúp bạn sửa lỗi. Theo các bác sĩ tại
các khoa trị liệu, người nói lắp có thể tự điều trị tại nhà bằng các bài tập thư giãn
cơ, thư giãn tinh thần, đừng nghĩ rằng nói lắp là một tình trạng tồi tệ, làm mình
phiền muộn. Và tập trung mọi sự chú ý vào đầu, thở đều, giống như đang thiền.
Hoặc cách tập khác là đứng trước gương và hình dung người trong gương là một
người khác và bắt đầu nói bất cứ điều gì mình thích trong khoảng 30 phút. Với
những học sinh có tật nói lắp, giáo viên cần liên hệ với phụ huynh để phối hợp
trong việc tập luyện.
* Về nhược điểm thiếu tự tin khi nói và nói nhỏ.
Nguyên nhân của thái độ thiếu tự tin khi nói có rất nhiều. Song, đối với các
em học sinh lớp 6A do tôi trực tiếp giảng dạy, nguyên nhân chủ yếu là do các
em ít giao tiếp với người ngồi, bản tính nhút nhát nên thiếu thiếu tự tin. Vì thế,
các em khơng dám nói to và ln nghĩ rằng điều mình nói chưa chắc đã đúng.
Hậu quả của những điều này là làm cho giờ học thiếu sôi nổi, khó có thể thực
hiện dạy học phát triển năng lực học sinh. Cách giải quyết vấn đề là giáo viên
ln khích lệ những học sinh có biểu hiện thiếu tự tin và nói nhỏ bằng cách đưa
ra những lời khen trước khi đưa ra yêu cầu sửa lỗi. Ví dụ: Em nói đúng rồi,
nhưng em nói hơi nhỏ, em nói to hơn chút nữa các bạn sẽ đồng tình với quan
điểm của em. Hoặc: Hôm nay cô thấy em nói đã tự tin hơn rồi, em cố gắng phát
huy nhé, đừng lo mình nói sai ... Rồi cho các học sinh trong lớp cổ vũ, động viên
bạn.

skkn


8
* Rèn kĩ năng nói qua mỗi giờ học Ngữ văn.
Có quan điểm cho rằng, việc rèn kĩ năng nói cho học sinh sẽ được thực

hiện qua giờ luyện nói. Tơi khơng hồn tồn đồng ý với quan điểm đó. Theo tơi,
kĩ năng nói cần được gọt giũa qua từng giờ học. Thậm chí khơng nhất thiết là
giờ Ngữ văn, giáo viên vẫn nên quan tâm đến kĩ năng nói của học sinh. Bởi giờ
học hiện nay được tổ chức bằng các hoạt động học tập hướng đến việc phát triển
năng lực cho học sinh và các em chính là chủ thể trong việc trình bày các vấn đề
đặt ra trong giờ học. Do vậy, sứ mệnh rèn luyện kĩ năng nói của giờ Ngữ văn
khơng chỉ bó hẹp trong các tiết nói và nghe. Vậy, giáo viên Ngữ văn cần rèn
luyện kĩ năng nói cho học sinh bằng cách thường xuyên nêu vấn đề để học sinh
thảo luận nhóm và trình bày ý kiến và trong đó có sử dụng các kĩ thuật dạy học
tích cực. Đó là cách tổ chức hoạt động nhóm bằng các kĩ thuật dạy học tích cực
như dùng kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật bể cá hay trạm, kĩ thuật 3-2-1 v.v... rất
hữu hiệu trong việc phát huy năng lực của học sinh. Trong đó, kĩ thuật dạy học
theo trạm phát huy được năng lực nói tốt nhất. Chẳng hạn, khi dạy bài “Thạch
Sanh” (Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”), trong phần hình thành kiến
thức tìm hiểu về các thử thách và chiến cơng của Thạch Sanh, giáo viên có thể
sử dụng kĩ thuật trạm theo sơ đồ sau :

Ở vòng 1 (Vòng chuyên gia), mỗi học sinh được chọn làm chun gia sẽ
làm việc với nhóm mình bằng cách trình bày các nội dung được phân cơng
nghiên cứu, chuẩn bị cho các thành viên trong nhóm theo nhiệm vụ giao cho
từng nhóm (Nhóm 1: Thử thách diệt chằn tinh, nhóm 2 thử thách diệt đại bàng,
nhóm 3 thử thách trước 18 nước chư hầu). Sau thời gian 5 phút, giáo viên cho

skkn


9
lập nhóm các mảnh ghép bằng cách cho các chuyên gia di chuyển theo sơ đồ tạo
thành một nhóm mới. Tại đây, chun gia của các nhóm tiếp tục cơng việc như
trên. Sau ba vịng, các nhóm hồn thành cả ba nội dung, sẽ là lúc giáo viên yêu

cầu một thành viên bất kì lên trình bày từng nội dung của bài học (Có thể chỉ
định bằng vịng quay kì diệu, bằng thẻ tên v.v...). Như vậy, tiết học hoàn thành
nhiệm vụ hình thành kiến thức qua các hoạt động nói là chủ yếu. Khi học sinh
trình bày, giáo viên sẽ có các phiếu nhận xét đánh giá phần trình bày của bạn,
của nhóm bạn theo hình thức đánh giá đồng đẳng. Để đánh giá được khách quan
và công bằng vào phiếu, học sinh cũng cần thảo luận để nêu ý kiến. Như vậy,
qua một ví dụ về bài dạy như trên, học sinh sẽ có nhiều cơ hội để thảo luận và
trình bày ý kiến trong một tiết học để phát triển năng lực nói chứ khơng nhất
thiết phải qua tiết luyện nói như trước đây.
* Rèn kĩ năng nói qua các bài dạy “ Nói và nghe”
Nói và nghe là một trong những điểm nhấn nổi bật của chương trình Ngữ
văn năm 2018. Với quan điểm dạy học bộ môn gắn với giao tiếp và phát triển
năng lực học sinh nên chương trình biên soạn giờ thực hành nói và nghe cần tạo
cơ hội cho học sinh được trình bày, chia sẻ, trao đổi. Để học sinh có thể thực
hành kĩ năng nói và nghe tốt nhất, giáo viên cần giúp học sinh xác định được
vấn đề liên quan đến kĩ năng và nội dung bài nói bằng cách đưa ra những câu
hỏi gợi ý cụ thể. Cho nên giờ dạy nói và nghe đầu tiên tơi đã đưa ra bảng hướng
dẫn kĩ năng nói và nghe như sau :
Bảng 1 : Chuẩn bị trước khi nói
Trình tự thực
Gợi ý
Tự trả lời
hiện nói và nghe
Xác định mục - Em muốn làm rõ vấn đề gì
đích
nhất?
- Em mong muốn người
nghe nắm bắt được điều
gì?
Xác định đối - Người nghe và sẽ phản

tượng nghe
hồi nội dung là ai?
- Em cần dùng ngôn ngữ
như thế nào cho phù hợp?
Xác định đề tài - Đề tài nói của em là gì?
và nội dung nói
Có những nội dung nào?
- Sắp xếp trình tự nội dung
đó ra sao?
Hình thức nói

- Em định mở đầu bài nói

skkn


10
như thế nào?
- Nói ở khơng gian nào?
Thời gian nói bao lâu?
- Có phương tiện hỗ trợ hay
khơng?
- Thái độ cử chỉ như thế
nào là phù hợp?
- Khi kết thúc bài nói, em
sẽ nói gì với người nghe?
Bảng này dành cho người nói (học sinh) tự trả lời các nội dung theo gợi ý.
Bảng có tác dụng định hướng nội dung và hình thức trình bày trước khi nói để
người nói chủ động hơn, phát huy tính tích cực, chủ động và cũng là năng lực
lập kế hoạch của học sinh trước khi tiến hành công việc

Bảng 2: Bảng tự kiểm tra kĩ năng nói và nghe
Kĩ năng nói
Nội dung kiểm tra

Trả lời

- Em tâm đắc với điều gì
trong phần nói của mình?
- Em muốn trao đổi, hay
tiếp thu những ý kiến góp
ý của các bạn và thầy cơ?
- Em muốn cung cấp
thêm thơng tin gì về đề
tài của em?
- Em có muốn nêu thêm
nhận xét hay cảm nhận
về đề tài trên không?

Kĩ năng nghe
Nội dung kiểm tra Đạt/
chưa
đạt
- Nội dung của bạn
trình bày có đầy đủ
khơng?
- Phần trình bày bài
nói của bạn có hấp
dẫn khơng?
- Em đã biết về nội
dung đó chưa?

- Em có bổ sung
điều gì khơng?
- Em có góp ý gì để
bài kể của bạn hấp
dẫn hơn?

Bảng này dùng để người nói, người nghe (khơng đơn thuần là chỉ nghe)
có phản hồi sau khi nói nhằm phát huy năng lực phản biện của học sinh
Bảng 3: Phiếu đánh giá tiêu chí nói
Với mỗi bài nói trong từng chủ đề, phiếu đánh giá tiêu chí này sẽ cụ thể
hóa theo nội dung của bài nói trong chủ đề đó. Ví dụ:

skkn


11
PHIẾU ĐÁNH GIÁ TIÊU CHÍ
Bài: NĨI VÀ NGHE “KỂ LẠI MỘT TRUYỀN THUYẾT”
TIÊU CHÍ
Chưa đạt
Đạt
Tốt
1. Nội dung
truyện kể

Phần đánh giá
2. Hình thức
nói

Phần đánh giá

3. Sử dụng yếu
tố phi ngơn
ngữ (điệu bộ,
cử chỉ, nét mặt,
ánh mắt...) phù
hợp.

Phần đánh giá
4. Mở đầu và
kết thúc hợp lí

Phần đánh giá

Kể chưa đầy đủ
các sự việc chính,
người nghe chưa
hiểu được câu
chuyện
(1 điểm)
.............................
.............................
Nói nhỏ, khó
nghe, nói lặp lại
ngập ngừng nhiều
lần.
(0 điểm)
.............................
.............................
Điệu bộ thiếu tự
tin, mắt chưa

nhìn vào người
nghe, nét mặt
chưa biểu cảm
hoặc biểu cảm
không phù hợp.
(0 điểm)
.............................
.............................
Khơng chào hỏi
và/ hoặc khơng
có lời kết thúc bài
nói.
(0 điểm)
.............................
.............................

Kể đầy đủ, chính
xác câu chuyện
truyền thuyết lựa
chọn, người nghe
hiểu được câu
chuyện
(2 điểm)
.............................
.............................
Nội dung cịn có
chỗ lặp lại hoặc
trình bày cịn
ngập ngừng.
(1 điểm)

.............................
.............................
Điệu bộ tự tin,
mắt chưa nhìn
vào người nghe,
biểu cảm phù hợp
với nội dung vấn
đề.

Kể thu hút người
nghe, có sáng tạo, làm
cho câu chuyện hấp
dẫn

(1 điểm)
.............................
.............................
Chào hỏi và/ có
lời kết thúc bài
nói.

(2 điểm)
....................................
....................................
Chào hỏi và/ có lời
kết thúc bài nói ấn
tượng.

(3- 4 điểm)
....................................

....................................
Nói tốt, truyền cảm
hầu như khơng lặp lại
hay ngập ngừng.
(2 điểm)
....................................
....................................
Điệu bộ tự tin, mắt
nhìn vào người nghe,
nét mặt sinh động.

(1 điểm)
(2 điểm)
............................. ....................................
............................. ....................................
Tổng: ................/10 điểm

skkn


12
Với phiếu đánh giá này, học sinh được phát huy năng lực tự đánh giá q
trình nói và nghe của bạn, của nhóm. Phiếu này được sử dụng sau khi kết thúc
phần nói và nghe.
Như vậy: phần nói và nghe cần tập trung vào mục tiêu phát triển năng lực
nói thông qua các kĩ năng: Lập kế hoạch chuẩn bị cho bài nói, nhận xét đánh giá
kĩ năng nói, và năng lực tranh luận, phản biện.
Sau khi đã hướng dẫn học sinh các nội dung trên, giáo viên thực hiện bài
dạy theo quy trình như sau:
Bước 1: Giới thiệu kiểu bài, yêu cầu.

Bước 2: Tổ chức, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài nói và tập luyện.
Bước 3: Tổ chức, hướng dẫn học sinh trình bày bài nói.
Bước 4: Tổ chức, hướng dẫn học sinh nhận xét, trao đổi về bài nói.
Tuỳ theo năng lực của học sinh và yêu cầu của từng kiểu bài mà giáo viên
có thể vận dụng quy trình trên một cách linh hoạt để bảo đảm hoạt động nói và
nghe trên lớp đạt hiệu quả và sinh động, phát huy tốt năng lực nói của học sinh.
* Giải pháp để giờ học “Nói và nghe” thêm sinh động
Trong thực tế, tiết nói và nghe khơng dễ để tổ chức sinh động, hấp dẫn như
các tiết đọc hiểu văn bản hay thực hành Tiếng Việt. Đặc biệt, nếu học sinh
khơng hợp tác tốt giáo viên khó có thể thực hiện dạy học theo định hướng phát
triển năngp lực với các mục tiêu và nội dung như đã đề cập ở trên. Vì vậy, tơi
thấy cần phải làm cho học sinh có tâm thế học tập, hào hứng hợp tác, sơi nổi
tranh luận và phản biện. Vì thế, giải pháp được đưa ra là:
- Cho 1 học sinh trong lớp tự điều khiển tiết học:
Việc này giống như thay đổi khẩu vị trong những bữa ăn hàng ngày.
Thường ngày, học sinh quen nghe và làm theo sự tổ chức và hướng dẫn của
giáo viên nên khi thay việc đó bằng cách cho học sinh khác thực hiện thay giáo
viên tơi nhận thấy học sinh vừa có sự tị mị muốn xem hơm nay bạn đó làm như
thế nào, vừa có sự kích thích mong muốn được thể hiện giống như bạn. Đó là
một tín hiệu tích cực. Thêm nữa, đây cũng là việc để rèn luyện sự tự tin, khả
năng nói trước đám đơng của học sinh.
- Tập trung vào nhiều đối tượng học sinh, nhất là học sinh học yếu
mơn Ngữ văn hoặc học sinh có nhược điểm khi nói theo bảng khảo sát ở
trên.
Tâm lí của nhiều giáo viên khi dạy tiết thực hành nói và nghe là muốn giờ
học đảm bảo về thời gian và nội dung cần đạt được thực hiện đầy đủ trong một
tiết học nên thường dành phần nói cho những học sinh ưu tú trong hoạt động
này. Như thế chúng ta vơ tình coi nhẹ vai trị của các học sinh khác, khơng cho
các em có cơ hội được thể hiện năng lực của bản thân thì từ đó các em không thể
xác định được năng của các em đang ở mức độ nào.


skkn


13
Vậy, để giờ “Nói và nghe” có tác dụng phát triển năng lực cho nhiều học
sinh, giáo viên cần lưu ý: Học sinh được chọn để trình bày vấn đề khơng nhất
thiết phải là những học sinh có năng lực nói tốt, giáo viên có thể chọn ngẫu
nhiên bằng cách bắt thăm hoặc quay vịng quay kì diệu (có ghi tên học sinh)

Việc này khiến học sinh tập trung chú ý cao hơn, có ý thức chuẩn bị bài và
ý thức hợp tác tốt hơn vì như vậy là giáo viên đang tạo tâm thế và định hướng
chú cho học sinh.
- Tổ chức hoạt động nói như một trị chơi hoặc game show hoặc sân
khấu hóa bài học
Đây là giải pháp giúp giờ học trở nên nhẹ nhàng, tránh được tâm lí học bài
căng thẳng, đồng thời tạo hứng thú, kích thích học sinh hào hứng, sơi nổi tham
gia hoạt động
Để thực hiện điều này, giáo viên cần có sự chuẩn bị kì cơng hơn so với
cơng việc soạn bài giảng thơng thường. Đó là phải thiết kế được trị chơi phù
hợp, có kịch bản tổ chức cụ thể, có phân cơng học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng, có q
tặng cho học sinh thực hiện tốt hoạt động nói trong trò chơi hoặc game show.
Khi tổ chức hoạt động theo cách này, có thể cho học sinh trang trí lớp học khác
hơn mọi ngày, gắn với chủ đề nói.
Ví dụ: Có thể sử dụng hình thức phân vai, diễn hoạt cảnh khi tiết nói và
nghe kể chuyện sáng tạo (như bài 6, bài 7: “Kể lại một truyền thuyết” và “Kể lại
một truyện cổ tích bằng lời của một nhân vật”). Có thể kết hợp nhiều câu
chuyện thành một kịch bản hấp dẫn để học sinh tham gia kể và diễn xuất một
cách linh hoạt, tạo hứng thú và cuốn hút được nhiều học sinh tham gia.


skkn


14
Minh chứng
Hình ảnh minh họa khi thực hiện tiết “Nói và nghe” (Bài 7: “Kể lại một
truyện cổ tích bằng lời của một nhân vật”).

Học sinh lớp 6A báo cáo nhiệm vụ thảo luận bằng phiếu học tập

Hai học sinh lớp 6A báo cáo nhiệm vụ thảo luận bằng phiếu học tập

skkn


15

skkn


16

Hoạt động nói bằng hình thức phân vai: Vai Lí Thơng, Thạch Sanh, người
dẫn truyện. (Có thể phân các vai này cho nhiều học sinh, mỗi học sinh sắm vai
trong một phân đoạn của truyện). Hình thức này đảm bảo mục tiêu: Kể lại một
truyện cổ tích bằng lời của nhân vật, tạo được sự sinh động, hấp dẫn hơn hoạt
động một học sinh kể, và huy động được nhiều học sinh tham gia. Cuối giờ có
thể cho học sinh bình chọn xem học sinh nào thể hiện vai diễn hấp dẫn nhất,
sinh động nhất.
Hoặc một hình thức tổ chức tiết luyện nói khác là: Có thể dựng thành hoạt

cảnh dựa trên truyện thơ Nôm của dân gian là truyện “Thạch Sanh” . Giáo viên
cung cấp ngữ liệu về truyện thơ “Thạch Sanh” và học sinh diễn các hoạt cảnh:
Thạch Sanh chào đời, Thạch Sanh gặp Lý Thông, Thử thách và chiến công của
Thạch Sanh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến là kết quả của quá trình tìm tòi và thực hiện đổi mới phương
pháp dạy và học mơn Ngữ văn lớp 6 theo chương trình và sách giáo khoa mới.
Nhờ áp dụng sáng kiến mà kĩ năng nói của học sinh có nhiều tiến bộ. Từ đó, có
thể hình thành và phát triển năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực xử lí
tình huống và các kĩ năng mềm khác mà học sinh rất cần thiết cho cuộc sống.
Đặc biệt là học sinh đã có sự tiến bộ nhiều về kĩ năng nói, giờ học “Nói và

skkn


17
nghe” cũng trở nên sôi nổi hơn. Số học sinh đã khắc phục được hạn chế thể hiện
qua bảng số liệu sau:
Hạn chế về năng lực nói
Lớp/sĩ
Phát âm sai
Thiếu tự tin
số
(Sai phụ âm,
Nói lắp
Nói nhỏ
khi nói
sai dấu thanh)
6A (29)
1 (3,4%)

2 (6,9%)
2 (6,9%)
1 (3,4%)
Sáng kiến có thể áp dụng cho bài dạy ở các bộ sách khác (Chân trời sáng
tạo, Kết nối trí thức với cuộc sống), và có thể thực hiện ở nhiều khối khác nhau,
ở các môn học khác nhau để đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng
phát triển năng lực và phẩm chất của học sinh.
Sáng kiến góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn
giáo dục cần đổi mới để bắt nhịp với sự phát triển của xã hội. Đối với trường
THCS Nga Giáp và các em học sinh lớp 6A tại lớp tôi đang trực tiếp giảng dạy,
sáng kiến kinh nghiệm này giúp các em học sinh thêm yêu môn văn hơn, được
hình thành và phát triển những năng lực, phẩm chất tốt đẹp để dễ dàng thích ứng
với cuộc sống hiện tại và tương lai. Đặc biệt là khi thực hiện các giải pháp rèn
luyện và định hướng phát triển năng lực nói cho học sinh, giáo viên có thể phát
hiện ra những học sinh có năng khiếu, có tố chất về năng lực nói để khích lệ,
động viên các em nuôi dưỡng ước mơ sau này lớn lên có thể trở thành MC,
thành nhà báo, người dẫn chương trình chun nghiệp. Đó cũng chính là góp
phần định hướng tương lai cho học sinh.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Muốn vận dụng giải pháp phát triển năng lực nói cho học sinh thực sự có
hiệu quả trong q trình giảng dạy, người giáo viên cần:
- Nghiên cứu kỹ đối tượng học sinh, tình hình giáo dục tại nhà trường, tại
lớp học, khả năng tham gia hoạt động của học sinh để thiết kế các hoạt động
trong giờ học cho phù hợp.
- Có kế hoạch bài dạy cụ thể, chi tiết, hình dung được các tình huống có thể
xảy ra trong giờ học để luôn chủ động điều khiển hoạt động của học sinh mà
khơng bị “cháy giáo án”
- Tìm tịi và thực hiện đa dạng hóa các hoạt động học tập mang tính đặc
trưng của việc phát triển năng lực nói của học sinh.

3.2. Kiến nghị
Nhà trường tăng cường đâu tư thêm trang thiết bị hiện đại như: bảng tương
tác ở các lớp học, máy quét, các tài liệu, sách tham khảo mới xuất bản về đổi
mới phương pháp dạy học để việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy
học tích cực hiệu quả hơn.

skkn


18
Kính mong Hội đồng khoa học cấp trên xem xét, đánh giá để đề tài được
hoàn thiện hơn, chất lượng hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Giáp, ngày 10 tháng 4 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến

Mai Thế Kính

Phạm Thị Thủy

skkn


19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo viên Ngữ văn lớp 6 (Bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống”) - Tác giả
Bùi Mạnh Hùng chủ biên.
2. Dạy học theo định hướng hình thành và phát triển năng lực học sinh - Tác giả
Bùi Đình Trung chủ biên
3. Bài tập phát triển năng lực học sinh (PGS. TS Lê Quang Hưng chủ biên)

skkn


20

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phạm Thị Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THCS Nga Giáp

TT
1.

2.

3.

Cấp đánh giá
xếp loại

Tên đề tài SKKN
Một số kinh nghiệm dạy học

ca dao - dân ca có hiệu quả
trong chương trình Ngữ văn
lớp 7.
Một số giải pháp giảng dạy
các tác phẩm thơ trung đại
Việt Nam lớp 7 ở Trường
THCS Nga Giáp.
Một số giải pháp rèn kỹ
năng viết đoạn văn nghị
luận xã hội cho học sinh lớp
9 Trường THCS Nga Giáp.

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

(A, B, hoặc
C)

Cấp Huyện

B


2010-2011

Cấp Huyện

B

2019-2020

Cấp Huyện

B

2020-2021

skkn



×