Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Skkn một số giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh người dân tộc thiểu số thông qua dạy học môn ngữ văn lớp 6 ở trường ptdtbt thcs tam chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 18 trang )

1
MỤC LỤC
1. Mở đầu...................................................................................................................2
1.1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu..........................................................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...........................................................................4
2.1. Cơ sở lí luận........................................................................................................4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm............................5
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..................................................6
2.3.1 Giải pháp 1: Gần gũi, tạo niềm tin để rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh...........6
2.3.2. Giải pháp 2: Phân hóa, phân loại học sinh để phụ đạo, kèm cặp luyện nói
ngay từ đầu năm học..................................................................................................7
2.3.3. Giải pháp 3: Chia nhóm để rèn luyện kĩ năng nói...........................................9
2.3.3. Giải pháp 4: Tổ chức những buổi thuyết trình ngoại khóa liên mơn để rèn
luyện kĩ năng nói.....................................................................................................12
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.............................................................................14
3. Kết luận, kiến nghị..............................................................................................15
3.1. Kết luận............................................................................................................15
3.2. Kiến nghị......................................................................................................... 16

skkn


2
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Ngữ văn là mơn học mang tính cơng cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn giúp
học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập, thực hiện tất cả các môn


học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường, đồng thời cũng là công cụ
quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và
ngơn ngữ dân tộc, phát triển cho học sinh những tình cảm, cảm xúc lành mạnh,
nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha[1],...
Thông qua các văn bản ngơn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động
trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động nghe, nói, đọc, viết, mơn Ngữ văn
có vai trị to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm
chất tốt đẹp[1]. Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng
chủ đạo của chiến lược dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông. Hiện nay các
nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao tiếp là một
căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngơn ngữ mà cụ thể là năng lực
nghe, nói, đọc, viết cho người học. Trong đó, nói là hoạt động sử dụng ngôn ngữ
cùng các yếu tố kèm theo nhằm truyền đạt một thơng tin nào đó tới người nghe
và năng lực nói trong giao tiếp là vơ cùng quan trọng, được đặc biệt coi trọng từ
xưa tới nay.
Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Trung học cơ sở Tam Chung (Sau đây
xin gọi tắt là Trường PTDT BT THCS Tam Chung) là một trường miền núi giáp
biên giới, hầu hết học sinh trong trường là con em các dân tộc thiểu số H’Mơng,
Thái, Mường. Mỗi một dân tộc lại có phong tục, tập qn, hồn cảnh sống và
tiếng nói khác nhau. Vì sự khác nhau đó, cộng thêm mơi trường giao tiếp sử
dụng tiếng phổ thông không nhiều nên việc học và nói tiếng phổ thơng đối với
các em vơ cùng khó khăn, vất vả.
Là một giáo viên được nhà trường giao nhiệm vụ giảng dạy môn Ngữ văn
lớp 6 theo chương trình Giáo dục phổ thơng mới 2018, tơi nhận thấy kĩ năng nói
của học sinh trong nhà trường nói chung và học sinh khối lớp 6 nói riêng cịn rất
nhiều hạn chế. Việc rèn luyện kĩ năng nói cho các em thông qua tiết học môn
Ngữ Văn lớp 6 vẫn còn chưa được chú trọng. Những tiết học Ngữ văn đáng lẽ là
cơ hội tốt để các em bày tỏ quan điểm, tình cảm, sự hiểu bài và khả năng giao
tiếp của mình với bạn bè, nhưng mỗi khi giáo viên giao câu hỏi trong các tiết
học, đặc biệt là tiết thực hành luyện nói, thì các em lại cúi đầu xuống bàn, thể

hiện sự lo lắng, sợ sệt, tự ti. Một số em vốn đã có sự chuẩn bị bài khá tốt, nhưng
vì sự hạn chế khi trình bày nên lại không tự tin giơ tay, chỉ ngồi im lặng đợi cơ
giáo gọi đến mình. Sự tự tin, hoạt bát thường ngày của các em biến mất, các em
khơng khơng dám nói to, giờ học trở nên nặng nề, thụ động. Vì sự hạn chế đó,
các em ngại giao tiếp với bạn bè, thầy cơ; có trị chuyện, giao tiếp thì nói năng

skkn


3
cộc lốc, chưa biết cách sử dụng đại từ nhân xưng đúng trong mỗi ngữ cảnh hoặc
không biết cách diễn đạt hết ý của mình, dẫn đến kĩ năng giao tiếp hầu như
không tiến bộ. Hệ quả là các em ngại học mơn Ngữ văn, sợ đến tiết luyện nói.
Và khi các em khơng có hứng thú trong giờ luyện nói thì làm sao có thể rèn
luyện kỹ năng nói cho học sinh? Thiết nghĩ, đây không chỉ là sự trăn trở của
riêng tơi mà cịn là của tất cả các giáo viên dạy Ngữ văn ở các trường miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Năm học 2021 - 2022 là năm học lớp 6 khối Trung học cơ sở bắt đầu được
học chương trình mới theo phương pháp phát huy tính chủ động, tích cực, sáng
tạo của học sinh, khác với cách học thụ động, phụ thuộc vào sự hướng dẫn của
thầy cô lâu nay. Các tiết luyện nói cũng được tăng thêm, sau mỗi chủ đề sẽ có ít
nhất một đến hai tiết luyện nói. Đó là một điều kiện thuận lợi để rèn luyện kĩ
năng nói cho học sinh, giúp các em nói tốt, hiểu được nghĩa của Tiếng Việt, từ
đó học tốt chương trình sách giáo khoa mới. Xuất phát từ những lý do trên, tơi
đã suy nghĩ tìm tịi để tìm ra những giải pháp giảng dạy phù hợp nhằm góp phần
nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường. Vì vậy tôi xin đưa ra sáng kiến:
“Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh người dân tộc thiểu số
thông qua dạy học môn Ngữ Văn lớp 6 ở Trường Phổ thông Dân tộc bán trú
Trung học cơ sở Tam Chung”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.

Nhận thức được tầm quan trọng, tính cấp thiết của việc rèn luyện kĩ năng
nói cho học sinh thơng qua mơn Ngữ văn, tơi đã nghiên cứu dề tài này nhằm
mục đích
rèn luyện cho học sinh dân tộc thiểu số trong trường có thể nói được Tiếng Việt
một cách lưu lốt, tự tin, chuẩn Tiếng Việt, đúng ngữ pháp, giúp học sinh tăng
cường khả năng giao tiếp của mình trong nhà trường và ngồi xã hội; góp phần
nâng cao chất lượng bộ mơn cũng như chất lượng chung của toàn trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài này nghiên cứu thực trạng của nhà trường; đưa ra một số giải pháp
để rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh người dân tộc thiểu số trong tình hình hiện
tại và hiệu quả của các giải pháp đó trong năm học vừa qua.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đọc sách, đọc các tài liệu tham khảo về
giáo dục kĩ năng dạy nghe - nói - đọc - viết… để xây dựng cơ sở lí luận của vấn
đề, khẳng định tầm quan trọng của việc rèn luyện nói cho học sinh trong q
trình dạy học mơn Ngữ văn.
Phương pháp quan sát: Quan sát thực tế việc giao tiếp của học sinh, rèn
luyện kĩ năng nói của học sinh trong nhà trường và ngoài xã hội.

skkn


4
Phương pháp điều tra, thống kê, phân tích kết quả: Nghiên cứu các tài liệu
lưu trữ như các báo cáo tổng kết năm học của trường, các số liệu khảo sát đầu
năm học…
Phương pháp đàm thoại: Nói chuyện với cán bộ giáo viên, với cha mẹ học
sinh, với các em học sinh.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận.
Nói là một hành động tạo ra âm thanh, hành lời để diễn đạt một nội dung
nhất định trong giao tiếp[2]. Chúng ta có thể nói rằng “Nói” có nghĩa là trị
chuyện, hoặc thể hiện suy nghĩ và cảm xúc của một người bằng ngơn ngữ nói và
để nói truyền đạt một thơng tin nào đó đến người nghe.
Cha ơng ta có câu “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa
lịng nhau” hay “ Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Câu nói cho ta thấy tầm
quan trọng của lời nói. Trong lời nói phải có sự lựa chọn, suy nghĩ trước khi nói,
khơng nói thiếu suy nghĩ, nói vịng vo, nói khơng diễn đạt hết được ý muốn nói,
nói thiếu ngữ pháp làm cho người nghe hiểu nhầm…
Rèn kĩ năng nói cho học sinh khơng chỉ là cơng việc ngày một ngày hai,
cũng không phải chỉ cần giáo viên dạy mơn Ngữ văn rèn luyện là có thể thành
cơng, mà sự thành cơng đó đến từ q trình nỗ lực tự bản thân học sinh cố gắng
rèn luyện với sự hướng dẫn từ giáo viên dạy môn Ngữ văn, phối hợp với các
thầy cô giáo bộ môn và cha mẹ học sinh giám sát nhắc nhở.
Việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là một nhiệm vụ khơng thể thiếu
đối với mỗi thầy cô giáo bộ môn Ngữ văn. Trọng tâm của việc rèn luyện kỹ
năng nói trong chương trình Ngữ văn THCS là giúp cho học sinh có được kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt tương đối thành thạo. Đây cũng là sự cụ thể
hoá tư tưởng dạy học theo lý thuyết giao tiếp và thực tiễn dạy học môn phân
môn Tập làm văn ở trường phổ thông. Điểm mới mẻ và cần lưu ý là chú trọng
hơn tới cách tổ chức cho học sinh hoạt động để phát triển kỹ năng nói trong giờ
Tập làm văn. Luyện nói tốt sẽ giúp học sinh biết bộc lộ tư tưởng, truyền đạt
thơng tin trong hồn cảnh giao tiếp khác nhau.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Trong giờ luyện
nói hiệu quả lao động của học sinh được cảm nhận trực tiếp qua ngôn ngữ. Giờ
luyện nói có thế mạnh của một sinh hoạt giao tiếp tập thể, không như giờ làm
văn viết là một hoạt động tĩnh, cá nhân. Khơng khí giờ làm văn dễ kích thích
hứng thú hoạt động của học sinh hơn, nếu giáo viên ý thức được vấn đề này. Về

tâm lý, con người trong hoạt động tập thể bao giờ cũng năng động hơn. Có thấy
rõ đặc thù của hoạt động luyện nói và đặc điểm tâm lý học sinh thì giáo viên
mới tiến hành có hiệu quả giờ học vốn rất sinh động, hấp dẫn và hướng dẫn
được những học sinh có tâm lý ngại ngùng phát biểu trước tập thể lớp. Giờ
luyện nói là cơ hội tốt nhất để giáo viên hiểu về con người, tư tưởng tình cảm
học sinh qua cách nói năng, trình bày, diễn đạt...
Nếu người thầy đóng vai trị chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám
phá chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, thì người học (học sinh) phải tự mình bộc

skkn


5
lộ sự hiểu biết, phải biết phát triển tư duy thành lời - ngôn bản. Muốn cho người
nghe hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là nói phải mạch lạc,
logic, phải bảo đảm các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm
lượng.
Vì thế, luyện nói là việc rất quan trọng trong q trình dạy học Văn, là giải
pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Luyện
nói tốt sẽ giúp người học sẽ có được một cơng cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc
sống xã hội. Là vấn đề không chỉ ở học đường mà cịn của tồn xã hội khi tình
trạng các em nói chưa lưu lốt, phát âm chưa chuẩn,… dẫn đến sự lệch lạc về lời
ăn tiếng nói trong học tập cũng như trong giao tiếp hàng ngày.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường PTDT BT THCS Tam Chung nằm trên địa bàn xã Tam Chung, nơi
sinh sống chủ yếu của ba dân tộc Thái, H’Mơng, Mường, trong đó người H’Mơng
chiếm trên 50% dân số trong xã. Người dân sống chủ yếu bằng nghề làm nương
rẫy, kinh tế xã hội nghèo nàn, trình độ văn hóa thấp, phong tục tập qn cịn lạc
hậu, giao thơng đi lại khó khăn. Do vậy phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng
mức đến việc học tập của con em mình, cịn giao phó hồn tồn việc giáo dục học

sinh cho nhà trường.
Thêm vào đó, học sinh là người dân tộc thiếu số nên tiếng Việt chỉ là ngôn
ngữ thứ hai của các em. Việc sử dụng không thành thạo ngôn ngữ thứ hai này
làm các em không hiểu bài, khó tiếp thu, gây ra cho các em sự tự ti, mặc cảm
lớn. Chính vì vậy các em sợ đến trường, sợ học, hay vắng học, nghỉ học vơ lí do,
ngại giao tiếp. Do trở ngại về ngơn ngữ, khơng hiểu về nhau, một số em cịn
mang nặng tư tưởng phân biệt dân tộc. Hầu hết các em học tiếng phổ thơng rất
khó khăn, tiếng phổ thơng giống như một “ngoại ngữ” đối với các em. Trong khi
đó, Tiếng Việt vốn rất phong phú và đa dạng nên càng làm cho các em khó khăn
hơn trong học nghe - nói - đọc - viết.
Thêm nữa, mơi trường sử dụng tiếng phổ thơng của các em cịn rất hạn chế
do đặc điểm cư trú của vùng đồng bào dân tộc là sống trên núi cao, các chòm
bản cách xa nhau và thường mang tính bó hẹp trong một dân tộc, không sinh
sống xen lẫn giữa các dân tộc với nhau và đặc trưng kinh tế chủ yếu là tự cung
tự cấp. Học sinh ít được đi ra ngồi địa phương, cơ hội giao lưu tiếp xúc, học hỏi
vô cùng ít ỏi. Trong quá trình giảng dạy và tiếp xúc với các em, tôi nhận thấy
các em thường xuyên sử dụng tiếng mẹ đẻ, kể cả khi học tập. Do khơng thường
xun học nói, luyện tập phát âm chuẩn tiếng phổ thơng nên giọng nói của các
em có sự lẫn lộn âm của tiếng dân tộc và âm phổ thông. Từ việc phát âm chưa
chuẩn dẫn đến hiện tượng các em viết sai lỗi chính tả rất nhiều. Mặc dù các thầy
cô luôn ý thức giúp đỡ, uốn nắn, sửa chữa, giúp các em nói tiếng phổ thơng
nhưng do thời gian có hạn, học sinh đơng, giáo viên thiếu nhiều, mơi trường để
rèn luyện nói cho các em hạn chế, đặc biệt là chưa có giải pháp đúng đắn nên kết
quả chưa được như mong đợi.
Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, trong những năm gần đâycả nước
thực hiện các giải pháp phòng chống dịch, việc cách li xã hội phải thực hiện

skkn



6
nhiều lần dẫn đến việc học tập của học sinh trong nhà trường bị gián đoạn, thời
gian học kéo dài. Những giải pháp phòng chống dịch được thực hiện nghiêm
trong nhà trường ít nhiều đã làm học sinh càng ít có cơ hội giao tiếp với nhau,
thầy cơ cũng khơng có nhiều thời gian để giúp đỡ học sinh luyện nói trong các
tiết học dẫn tới kĩ năng nói của các em vẫn cịn nhiều hạn chế.
Với những khó khăn kể trên, sau một số tiết học đầu năm, tôi tiến hành đánh
giá, phân loại đối tượng học sinh các lớp theo khả năng nói và kết quả thu được
như sau:
Lớp

Sĩ số

Kĩ năng nói tốt
Số lượng

6A
6B
6C
Tổng

30
29
30
89

3
2
2
7


Tỉ lệ

10%
7%
7%
7,9%

Kĩ năng nói khá
Số lượng

2
4
2
8

Tỉ lệ

7%
14%
7%
9%

Kĩ năng nói chưa
tốt
Số lượng Tỉ lệ

25
23
26

74

83%
79%
86%
83,1%

Những số liệu trên cho thấy, thực trạng hết sức đáng quan ngại về tỉ lệ học
sinh có kĩ năng nói chưa tốt 83,1% so với 15,9% số học sinh có thể trình bày tốt
và khá tốt những mong muốn, nguyện vọng, suy nghĩ… của mình. Với thực tế
này, việc đưa ra các giải pháp giúp học sinh nâng cao kĩ năng nói nói riêng và
năng lực giao tiếp nói chung là vơ cùng cấp bách.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1 Giải pháp 1: Gần gũi, tạo niềm tin để rèn luyện kĩ năng nói cho học
sinh.
Đây là một giải pháp rất quan trọng đối với học sinh vùng dân tộc thiểu số
như trường PTDTBT THCS Tam Chung. Số học sinh bán trú trong nhà trường
chiếm trên 67% tổng số học sinh nhà trường. Mới 11 tuổi các em đã phải xa gia
đình, thiếu thốn tình cảm, sự dạy dỗ bảo ban của cha mẹ. Từ chỗ đang sống
trong vịng tay u thương của gia đình, các em phải làm quen với một môi
trường khác, nếp sống khác: ở tập thể, ăn uống, ngủ nghỉ, học tập, giải trí, vệ
sinh…theo quy định. Vốn đã nhút nhát, rụt rè, nếp sống mới lại càng làm các em
hoang mang, sợ sệt. Đến lớp các em ít nói, khơng giơ tay phát biểu, thu mình và
thụ động.
Nắm được hồn cảnh, tâm lí của các em, tơi đã khơng ngừng tìm hiểu, nâng
cao hiểu biết của mình về phong tục, tập quán của dân tộc các em, đồng thời cố
gắng học thêm tiếng dân tộc thiểu số. Thông qua việc hiểu về văn hóa, ngơn
ngữ, phong tục, tập qn này, tơi đã từng bước gần gũi, động viên, giúp đỡ các
em vượt qua những giai đoạn khó khăn kể từ khi các em bắt đầu nhập học tại
trường. Lúc này, bản thân tơi ln tâm niệm mình là người mẹ thứ hai của các

em, thay cha mẹ chăm sóc các em ở trường. Từ việc hướng dẫn các em ăn mặc,
chải tóc sao cho gọn gàng, giặt giũ giữ gìn vệ sinh cá nhân… tới việc đôn đốc
các em học hành, đứng ra hịa giải khi có xung đột, xích mích… Những ngày
đầu tơi gặp nhiều khó khăn khi giao tiếp với các em, các em luôn e dè, sợ sệt,

skkn


7
nhiều lúc gần như độc thoại một mình, nhưng tơi vẫn quyết tâm khơng bỏ cuộc.
Từ đó các em dần tin tưởng, gần gũi tâm sự, nói chuyện nhiều hơn. Ngay trong
lúc này tơi bắt đầu q trình luyện nói cho học sinh. Vì biết tiếng nên những câu
các em nói khơng đúng ngữ pháp, khơng diễn đạt hết ý thì tơi chỉnh sửa lại cho
ngắn gọn, đúng ý, đúng ngữ pháp.... Dần dần kĩ năng nói của học sinh được
nâng lên một cách rõ rệt. Trong các tiết học Ngữ văn, tơi chú trọng giúp các em
thể hiện mình, tự bày tỏ những suy nghĩ cảm xúc, những điều cảm thụ, phân
tích, đánh giá một cách tự tin trước tập thể.

Hình 1: Giáo viên gần gũi học sinh ký túc xá

2.3.2. Giải pháp 2: Phân hóa, phân loại học sinh để phụ đạo, kèm cặp
luyện nói ngay từ đầu năm học.
Phân hóa học sinh để phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu không phải là giải
pháp mới nhưng lại mang tới một hiệu quả không hề nhỏ trong trường hợp luyện

skkn


8
nói cho học sinh. Trước hết, bản thân tơi nhận thức được tầm quan trọng của

việc phân hóa các đối tượng học sinh. Mỗi đối tượng học sinh cần những hình
thức, phương pháp rèn luyện khác nhau. Chúng ta khơng thể áp dụng y nguyên
cách thức rèn luyện đối với những học sinh có kỹ năng nói tốt, khá với học sinh
cịn hạn chế về mặt trình bày. Tương tự như vậy, những biện pháp phù hợp với
các em học sinh kĩ năng nói cịn yếu lại khơng mang tới những hiệu quả tốt với
những đối tượng học sinh còn lại.
Chính vì lẽ đó, ngay từ khi mới nhận lớp, tôi đã tham mưu với nhà trường
tiến hành thực hiện một khảo sát kĩ năng nói của học sinh từ đầu năm học, thông
qua việc yêu cầu các em giới thiệu về bản thân và cho các em đọc, nêu ý kiến
cảm nhận về một đoạn thơ, văn. Từ đó tôi thấy rằng, rất nhiều học sinh chưa biết
cách sắp xếp câu từ để giới thiệu bản thân mình một cách ngắn ngọn, đủ ý. Hay
các em đọc còn chậm, nhỏ, ngắt nghỉ chưa đúng chỗ. Đặc biệt là rất ít em có thể
nêu một cách ngắn gọn cảm nhận của bản thân về đoạn văn bản ngắn vừa đọc.
Sau khi khảo sát, tôi đã phân loại học sinh ra ba nhóm khác nhau là: nói tốt, nói
khá và nói chưa tốt.
Để thực hiện tốt mục tiêu luyện nói đã đề ra, sau khi phân loại học sinh, tôi
bắt đầu tiến hành các hình thức phụ đạo. Giáo viên Ngữ văn khó có thể phát
triển kỹ năng nói cho học sinh nếu chỉ trơng chờ vào số tiết luyện nói trong
chương trình sách giáo khoa. Mặc dù sách khoa đã được đổi mới theo khuynh
hướng quan tâm tới việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh, phân phối chương
trình ở mỗi khối lớp đều có tiết luyện nói ở cả hai học kỳ. Tuy nhiên với số
lượng tiết chưa nhiều (Theo Công văn số 4040/BGDDT-GDTH 2021 về hướng
dẫn thực hiện Chương trình giáo dục phổ thơng cấp THCS, THPT, các nhà
trường cắt giảm bớt chương trình để phù hợp với tình hình dịch bệnh Covid-19
nên các tiết luyện nói cũng bị cắt giảm). Nếu khơng có sự chuẩn bị ngay từ đầu
năm học thì chắc chắn giáo viên sẽ gặp khơng ít trở ngại khi tổ chức các giờ
học. Vậy nên tơi chú trọng việc luyện nói cho học sinh mọi lúc, mọi nơi, dành
nhiều thời gian để phụ đạo kèm cặp thêm cho số học sinh nói kém. Thêm vào
đó, khi phụ đạo, tơi đã lưu ý linh hoạt áp dụng các biện pháp khác nhau với các
đối tượng học sinh khác nhau. Ví dụ:

- Với học sinh có kĩ năng nói chưa tốt: Giáo viên nên bắt đầu việc rèn
luyện bằng những câu hỏi đơn giản nhất, có thể trả lời bằng cách nói “Có” hoặc
“Khơng”, “Đồng ý” hoặc “Không đồng ý”,… Sau khi học sinh đã quen với việc
trả lời được các câu hỏi ngắn, giáo viên cần tăng dần độ khó của các câu hỏi.
Lúc này, giáo viên có thể sử dụng loại câu hỏi có vấn ngữ (Ai? Tại sao? Như thế
nào? Ở đâu? Lúc nào? Cái gì?) để các em có thêm cơ hội rèn luyện vốn từ và
bộc lộ cách thức giao tiếp.
- Với học sinh có kĩ năng nói ở mức độ khá: Giáo viên nên tránh hỏi các
em những câu hỏi đơn giản, khơng có tác dụng kích thích phản xạ tư duy. Với
đối tượng học sinh đã có vốn từ Tiếng Việt tương đối phong phú này, giáo viên
cần tạo điều kiện để các em liên tục luyện tập, rèn dũa, nâng cao kĩ năng nói của
mình thơng qua một số hoạt động sẽ được trình bày ở phần sau.
- Với những học sinh có kĩ năng nói tốt: Giáo viên không nên rập khuôn
những biện pháp rèn luyện kĩ năng nói kể trên mà nên thiết kế thêm các hoạt

skkn


9
động nói để học sinh phát huy tính tích cực, sự sáng tạo của mình. Dần dần, học
sinh khơng chỉ nói tốt mà cịn nói hay, khơng chỉ diễn đạt tốt ý kiến, cảm xúc
của mình mà cịn có thể giúp các bạn kĩ năng nói cịn hạn chế xung quanh.
Ngoài ra, ngay từ khi bắt đầu phụ đạo học sinh, giáo viên cần tạo tâm lí
thoải mái, thể hiện sự gần gũi, chân tình như đã đề cập ở trên để học sinh tin
tưởng. Từ sự tin tưởng đó, học sinh của tôi học các giờ phụ đạo luyện nói rất
hăng say, các em dần bỏ đi tâm lí sợ sai mà bầy tỏ hết tâm tư, suy nghĩ của mình
về thầy cơ, bạn bè, cuộc sống tập thể hằng ngày… Đồng thời việc phụ đạo phải
được lên kế hoạch trước để có thể tiến hành thường xun, khơng gián đoạn. Có
như vậy hiệu quả của việc luyện nói mới được duy trì và nâng cao.


Hình 2: giáo viên phân hóa, phân loại học sinh để phụ đạo

2.3.3. Giải pháp 3: Chia nhóm để rèn luyện kĩ năng nói
Với phương châm “Học thày không tày học bạn”, tôi đã thực hiện việc chia
nhóm phù hợp với trình độ nói của học sinh và khu vực phòng ở mà các em
được nhà trường phân công. Trong môi trường trường học bán trú, bạn bè chính
là những đối tượng tiếp xúc, giao tiếp với các em nhiều nhất chứ không phải là
giáo viên hay phụ huynh học sinh, nên theo tôi đánh giá, việc chia nhóm để giúp
các em luyện nói là một biện pháp đóng vai trị then chốt trong kế hoạch phát
triển kĩ năng nói cho học sinh trường bán trú.
Mặt khác, tôi đã yêu cầu học sinh thực hiện tốt quy định của nhà trường về
việc chỉ nói tiếng phổ thông, không dùng tiếng của dân tộc thiểu số cả trong các
giờ học lẫn ngoài giờ học. Đồng thời khuyến khích các em tăng cường sử dụng
Tiếng Việt khi sinh hoạt với gia đình, cộng đồng dân cư nơi các em sinh sống.
a. Chia nhóm học sinh trong các tiết học chính khóa
Để giúp học sinh rèn luyện kĩ năng nói và phát triển khả năng diễn đạt ý
phong phú, điều trước tiên tôi phải xác định và nắm rõ mục tiêu chính của chủ
đề cần luyện nói là gì. Chính chủ đề là điểm tựa, gợi ý cho phần luyện nói. Giáo

skkn


10
viên gợi ý sao để tất cả học sinh đều được nói, khơng đi q xa với chủ đề. Sau
đó, tơi nắm bắt thực tế về khả năng nói của từng em để đưa ra phương pháp,
hình thức dạy luyện nói phù hợp với đối tượng. Dựa vào kết quả phân loại khả
năng nói của học sinh lớp 6A, 6B, 6C ở đầu năm học 2021 – 2022, tôi chia mỗi
lớp thành 5 nhóm. Mỗi nhóm gồm có cả học sinh nói tốt hoặc khá và học sinh
nói chưa tốt. Mục đích của việc phân nhóm như vậy là để các em nói tốt sẽ cùng
thảo luận đồng thời hướng dẫn và chỉ ra lỗi diễn đạt, sai từ ngữ… khi viết cũng

như nói cho những học sinh nói chưa tốt.

Hình 3: Chia nhóm học sinh thảo luận chính khóa

b. Chia nhóm học sinh luyện nói ở nhà:
- Đối với học sinh kí túc xá:
Cũng như chia nhóm ở trên lớp học chính khóa, tơi chia học sinh ở kí túc
xá thành 3 nhóm nhỏ cũng gồm học sinh nói tốt hoặc khá và nói chưa tốt. Mỗi
tuần, vào tối thứ 4, các em sẽ tập trung học nhóm nhằm tạo khơng khí học tập
sơi nổi trong giờ tự học và cũng để các em phát triển kĩ năng nói qua các buổi
học nhóm như vậy. Đồng thời, cần kết hợp với giáo viên trực ban và giáo viên
quản lí kí túc xá đơn đốc, nhắc nhở, giám sát việc thực hiện học nhóm này.

skkn


11

Hình 3: Chia nhóm học sinh thảo luận ở kí túc xá

- Đối với học sinh tại các thơn bản:
Ngồi những học sinh ở bán trú trong kí túc xá, nhà trường cịn có các em
học sinh ở các thơn bản lân cận đi học về nhà trong ngày. Số học sinh này không
nhiều, chủ yếu ở bản Lát và Bản Pom Khuông nên tôi đã chia các em thành hai
nhóm. Các em được lựa chọn một địa điểm phù hợp để tập trung thảo luận, học
nhóm cùng nhau.
Với mỗi nhóm như vậy, tơi phân cơng nhiệm vụ cụ thể gồm một nhóm
trưởng, một nhóm phó và các thành viên. Nhóm trưởng và nhóm phó giúp giáo
viên điều hành nhóm của mình trong mỗi giờ thảo luận. Sau mỗi một chủ đề sẽ có
hai tiết luyện nói với yêu cầu, đề bài rõ ràng cho các em thảo luận. Giáo viên

hướng dẫn các em, giúp các em chuẩn bị tốt nội dung, yêu cầu bài nói để các em
xác định được đề tài (Nói cái gì?); xác định đối tượng giao tiếp (Nói trong hồn
cảnh nào?); xác định mục đích giao tiếp (Nói để làm gì?); cách thức giao tiếp
(Nói sao cho thuyết phục người nghe); nói cho có hiệu quả (Phải thu thập, lựa
chọn điều cần nói). Cụ thể, giáo viên cần hướng học sinh thực hiện theo những
yêu cầu sau:
+ Chuẩn bị tốt dàn bài trước khi nói
+ Tránh nói vịng vo, tránh đọc lại hoặc học thuộc lịng để đọc lại bài văn
mà chi tiết đã có trước.
+ Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe, thể hiện cảm xúc chân thành, khơng gị bó, áp đặt.
+ Khơng nói ra ngồi những gì mà đề bài u cầu người nghe, yêu cầu tập
thể lớp chú ý lắng nghe, theo dõi ghi chép, nhận xét.
+ Tạo tâm thế vững vàng khi nói: Tự tin, mạnh dạn; Tác phong tự nhiên,
phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy.
Giáo viên thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt nhóm, luân phiên mỗi
buổi sẽ tham gia cùng một nhóm. Sau mỗi buổi cần tiến hành thảo luận, đánh

skkn


12
giá, rút kinh nghiệm, góp ý để các em có thể thực hiện tốt hơn ở những buổi sinh
hoạt lần sau.
Từ việc chia các nhóm nhỏ để thảo luận nhóm, tôi đã thống kê được một
số lỗi phát âm mà các em hay mắc phải như sau:
+ Sai phụ âm đầu: ch/tr, s/x, b/v
+ Sai phụ âm cuối: n/ng, t/c, n/t, y/i (Ví dụ: ngày -> ngài, hay -> hai)
+ Sai vần: a /ai, au/ao, ao/ô, uô/u, ư/ơ…
+ Sai dấu thanh: dấu ngã đọc thành dấu hỏi; dấu hỏi thành dấu nặng, một số

em lại sai dấu ngã thành dấu sắc… Ví dụ : “gãy” đọc là “gảy”, “ngã ba” đọc là
“ngả ba”; “vở” đọc là “vợ”, ...
Để dạy cho học sinh phát âm đúng, tôi đánh giá kĩ năng nghe đóng một vai
trị khơng hề nhỏ. Ở đây vai trò giọng đọc của giáo viên rất quan trọng bởi vì
giữa nghe và phát âm có mối quan hệ rất chặt chẽ cho nên rèn luyện kĩ năng
nghe giúp hỗ trợ rất nhiều cho kĩ năng đọc. Cũng là một giáo viên người dân tộc
thiểu số tại địa phương, tôi hiểu rõ lỗi sai và những khó khăn khi phát âm của
các em, vì vậy bản thân tơi hết sức chú trọng việc phát âm sao cho thật chuẩn,
thật diễn cảm khi đọc bài, giảng bài, nói chuyện… để từ đó các em sẽ thấy rằng
việc luyện nói khó nhưng không phải là không thể làm được.
Qua những năm dạy học sinh ở khóa trước và ba lớp 6 tơi đang dạy thì tơi
thấy rằng các em phát âm sai do 2 nguyên nhân:
- Nguyên nhân chủ quan: nói lắp, nói ngắn lưỡi, dài lưỡi, khó đọc do tật
bẩm sinh. Ví dụ: s/x: sung / xung , sâu / xâu, ...
- Nguyên nhân khách quan: ảnh hưởng lớn từ cách phát âm tiếng dân tộc
của các em tới quá trình nói tiếng phổ thơng.
Để sửa lỗi phát âm sai, tơi dùng biện pháp giảng giải trên cơ sở lí thuyết ngữ
âm và ý nghĩa từ. Cho học sinh luyện đọc lại từ ngữ phát âm sai ngay lúc đó nhiều
lần.
Ví dụ: phát âm s/x: Khi phát âm s (sờ): phải uốn lưỡi, hơi thoát ra chân
răng đầu lưỡi. Khi phát âm x (xờ): hơi ra ở mặt lưỡi và chân răng; Phát âm tr/ch:
Phát âm tr (trờ): hơi ra qua động tác bật đầu lưỡi với chân răng. Mặt khác là việc
sửa sai qua giải nghĩa từ. Ví dụ: “rộn rã” phân biệt với “rổn rảng”, “cũ” phân
biệt với “củ; cụ”….
2.3.3. Giải pháp 4: Tổ chức những buổi thuyết trình ngoại khóa liên
mơn để rèn luyện kĩ năng nói
Để các em rèn luyện kĩ năng nói thì việc rèn luyện cho học sinh khơng chỉ bó
hẹp khơng gian trong lớp học mà cịn phải mở rộng khơng gian ra tồn trường giúp
học sinh có thể tự tin nói trước đám đông. Để làm được điều này tôi đã kết hợp với
giáo viên chủ nhiệm, giáo viên Tổng phụ trách đội, giáo viên dạy môn Giáo dục

Địa phương, nhân viên thư viện tổ chức các buổi thuyết trình, hùng biện ngoại
khóa cho các em:
- Kết hợp với bộ môn Hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp:
Hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp là một trong những mơn học mới ở
chương trình lớp 6 với 8 chủ đề. Đây là môn học giúp các em có những kĩ năng
trong thực tế giúp các em khám phá bản thân và thế giới xung quanh, phát triển
tâm hồn, biết rung cảm trước cái đẹp, có quan niệm sống và ứng xử đúng đắn.

skkn


13
Chủ đề đầu tiên trong môn học là “Trường học của em”. Ở tiết học đầu,
các em được thực hành giới thiệu về bản thân và nêu những cảm xúc của các em
khi trở thành học sinh lớp 6; giới thiệu về ngôi trường mới và cảm nhận về tuần
học đầu tiên. Đây là tiết nói đầu tiên của các em khi học ở cấp học mới mà
không phải là tiết luyện nói của bộ mơn Ngữ Văn. Trong tiết học này, tôi đã
phối hợp với giáo viên Tổng phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh, giáo viên chủ
nhiệm tổ chức cho các em một buổi sinh hoạt tập thể, cho các em lần lượt giới
thiệu về bản thân và bày tỏ suy nghĩ, cảm nhận của các em về ngơi trường mới
và tuần học đầu tiên của mình.
Kết thúc buổi sinh hoạt các em đã nhớ được tên, đặc điểm của các bạn
cùng khóa, và đặc biệt các em đã có thể giới thiệu bản thân và trình bày cảm
nghĩ của mình trước bạn bè và thầy cơ. Tơi cho rằng, đây chính là một trong
những cơ hội rất tốt để các em rèn luyện kĩ năng nói trước đám đơng của mình.
- Kết hợp với mơn học Giáo dục địa phương:
Cũng là một trong những môn học mới của chương trình lớp 6 với 3 phân
mơn Lịch sử, Địa lí, Văn hóa (do giáo viên Ngữ Văn phụ trách). Trong phần
Văn hóa có Chủ đề 2: Dưa lê, bánh đúc xứ Thanh. Ở tiết học này tôi đã kết hợp
với giáo viên chủ nhiệm khối 6 tổ chức cho các em thực hành làm bánh đúc và

thuyết trình về sản phẩm của mình.
Tơi đã chia 3 lớp thành 3 đội, mỗi đội sẽ có thời gian làm bánh đúc trong
vòng 45 phút (nguyên liệu do giáo viên đã chuẩn bị sẵn) và 15 phút thuyết trình
với sự hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm. Đội nào có sản phẩm đúng vị và bài
thuyết trình thuyết phục nhất được Ban giám khảo và các đội bạn công nhận sẽ
dành chiến thắng và nhận một phần quà nhỏ cho đội thắng cuộc.
Trước tiết học các em vô cùng hào hứng và chuẩn bị rất chu đáo; khi thực
hành các em đã biết cách phân công công việc cho mỗi thành viên một cách hợp lý.
Tiết học kết thúc, dù thắng hay chưa giành chiến thắng, các em đều rất vui vì được
tham gia hoạt động tập thể, biết đến một món ăn của địa phương và ý nghĩa của
món ăn; một điều khiến các em vui nữa là cuộc thi này đã mang đến cho các em
thêm một cơ hội rèn luyện kĩ năng nói, thêm một trải nghiệm quý giá cho các em.
- Hùng biện tranh vẽ cổ động “Phòng chống dịch covid 19” trong Ngày hội
đọc sách:
Đây là một hoạt động thường niên do nhân viên thư viện kết hợp với Ban
Giám hiệu nhà trường, Đoàn Thanh Niên, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí
Minh và các giáo viên tổ chức cho các em các hoạt động trong Ngày hội đọc
sách. Một trong các hoạt động nổi bật là “Hội thi giới thiệu về cuốn sách em yêu
thích”. Thế nhưng, do tình hình dịch bệnh Covid 19 vẫn còn ảnh hưởng nhiều
đến các hoạt động học tập của các em đặc biệt là các hoạt động tập trung đông
người nên năm học này, nhân viên thư viện đã lên kế hoạch tổ chức một sân
chơi nhỏ cho các em thơng qua cuộc thi “Vẽ tranh cổ động phịng chống dịch
Covid 19”. Mỗi lớp chọn ra 03 bài vẽ đẹp nhất, đúng chủ đề, gửi lên cấp trường
chấm kết hợp với một phần hùng biện tranh của các em.
Sau khi vẽ tranh và chuẩn bị bài thuyết trình ở nhà, các em bốc thăm số
thứ tự và thuyết trình trong 5 phút. Thông qua hoạt động này, các em có thêm

skkn



14
một sân chơi, thêm một cơ hội giao lưu, học hỏi và trau dồi kĩ năng nói của bản
thân.

Hình 4: Học sinh hùng biện về cuộc thi vẽ tranh

skkn


15
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Để đạt hiệu quả trong việc rèn kĩ năng nói cũng như kĩ năng giao tiếp cho
học sinh đặc biệt là học sinh lớp 6, tôi luôn kết hợp hài hịa giữa các biện pháp
và giải pháp trên. Vì vậy, kết quả đạt được sau quá trình áp dụng các biện pháp
trên rất khả quan. Học sinh hứng thú hơn nhiều trong các tiết học, dần dần các
em có ý thức rèn luyện kĩ năng nói nhiều hơn, mạnh dạn và tự tin hơn trong giao
tiếp. Từ đó, các em cũng có nhiều tiến bộ trong học tập ở các môn học khác.
Dưới đây là kết quả tôi khảo sát được sau khi áp dụng những giải pháp kể trên:
Lớp

Sĩ số

Kĩ năng nói tốt
Số lượng Tỉ lệ

Kĩ năng nói khá
Số lượng
Tỉ lệ


Kĩ năng nói chưa tốt
Số lượng
Tỉ lệ

6A
30
11
37%
18
60%
1
3%
6B
29
10
34%
19
66%
0
0%
6C
30
11
37%
18
60%
1
3%
Tổng
89

32
36%
55
61,8%
2
2,2%
Như vậy, ta có thể thấy rằng, việc sử dụng các giải pháp kể trên đã mang
lại hiệu quả cao. Sau năm học vừa qua, số học sinh có kĩ năng nói chưa tốt đã
giảm rõ rệt ở cả 3 lớp 6A, 6B, 6C từ 83%, 79%, 86% xuống lần lượt còn 3%,
0% và 3%. Đây là một tỉ lệ cho thấy tính khả quan rất lớn của những giải pháp
tơi đã trình bày. Chỉ cần sau một thời gian tiếp tục áp dụng, tơi tin rằng tỉ lệ này
sẽ cịn giảm xuống nữa. Đặc biệt, nhóm học sinh có kĩ năng nói tốt và khá tăng
lên rất nhiều, gấp nhiều lần so với trước đó. Nếu như trước đây khi bước vào
lớp, các em rụt rè, im lặng, hầu như khơng có sự cộng hưởng với giáo viên trong
các tiết học, thì hiện tại, sau một năm học, các tiết học Ngữ Văn đã trở nên sôi
nổi, thú vị hơn rất nhiều. Ngồi ra, trong cuộc sống hàng ngày, các em khơng
những đã biết bày tỏ cảm xúc của cá nhân mà cịn biết thể hiện những mong
muốn, suy nghĩ của mình; những ý kiến đề bạt của tập thể một cách thu hút và
hấp dẫn. Từ đó các em đã yêu thích mơn học hơn rất nhiều, chất lượng học mơn
Ngữ văn khối 6 được nâng lên rõ rệt.
Hơn nữa, với bản thân tôi, hiệu quả của những giải pháp nâng cao kĩ năng
nói của học sinh kể trên đã tạo thêm cho bản thân nhiều cảm hứng, từ đó giúp tơi
thêm nhiệt tình hơn trong các tiết dạy nói riêng và trong cơng tác của bản thân
nói chung. Tơi mong muốn tiếp tục nỗ lực, ra sức, tìm tịi thêm nhiều biện pháp,
hình thức thực hiện mới để trong thời gian tới việc rèn luyện kĩ năng nói cho học
sinh đạt được kết quả cao hơn nữa.
Ngoài ra, hiệu quả của những giải pháp đã đề cập đã có những ảnh hưởng
không nhỏ tới đồng nghiệp và nhà trường. Kĩ năng nói của các em tiến bộ đã
giúp việc tiếp thu bài học của các em đạt hiệu quả cao, khơng chỉ ở mơn Ngữ
văn mà cịn ở các mơn học và hoạt động giáo dục khác. Như vậy, tôi cho rằng,

những kinh nghiệm, giải pháp kể trên đã góp một phần quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường.

skkn


16
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Như vậy, qua việc thực hiện đề tài này, tôi rút ra được nhiều kinh nghiệm
dạy học cho bản thân mình. Muốn học sinh vùng dân tộc thiểu số thực hiện tốt
nhiệm vụ học tập thì giáo viên phải làm cho em thấy mình là người đáng tin cậy,
luôn gần gũi thăm hỏi động viên các em khi các em cần, cố gắng nỗ lực cùng
học sinh vượt khó, vui trong niềm vui của học sinh, ln trăn trở, tìm tịi sáng
tạo trước mỗi giờ lên lớp, phối hợp hoạt động với giáo viên bộ môn khác tổ
chức các hoạt động để các em thể hiện được bản thân trước đám đơng.
Ngồi ra, muốn giờ luyện nói đạt kết quả tốt, người giáo viên phải có sự
chuẩn bị chu đáo. Trước hết là chuẩn bị giáo án, sau đó là chuẩn bị cụ thể, tỉ mỉ
cho việc hướng dẫn việc chuẩn bị bài của học sinh. Có như vậy cả giáo viên và
học sinh mới thực hiện tốt việc luyện tập nói trên lớp.
Thêm nữa, trong giờ luyện tập, giáo viên phải phát huy trí tuệ của học sinh,
áp dụng những biện pháp tốt nhất để cả lớp tích cực tham gia luyện tập. Từ đó
giúp các em hiểu được yêu cầu của của tiết luyện tập cũng như nâng cao kĩ năng
trình bày nói trước tập thể học sinh.
Tóm lại, thơng qua việc luyện nói, giáo viên giáo dục cho học sinh lịng tự
hào được nói tiếng Việt, biết tơn trọng và giữ gìn sắc thái ngữ âm độc đáo của
tiếng Việt. Lịng tự hào về tiếng Việt của học sinh phải thể hiện trong việc học
tập, giữ gìn cái đẹp, cái hay và chống những cách nói khơng đúng, khơng lành
mạnh, làm cho Tiếng Việt vang lên tất cả sự giàu đẹp và nhạc điệu của nó trong
giờ học Ngữ văn và trong cuộc sống.

3.2. Kiến nghị.
Để thực hiện tốt những giải pháp nêu trên, tôi xin đề xuất những kiến nghị
sau:
3.2.1. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo.
- Đầu tư thêm cơ sở vật chất, các trang thiết bị hỗ trợ thêm trong việc rèn
luyện kĩ năng nói cho học sinh như: Loa đài, tranh ảnh, máy chiếu, micro…
- Tăng cường tập huấn trực tuyến hoặc trực tiếp dể các giáo viên Ngữ văn
được tiếp cận với những kiến thức mới về chuyên môn, nghiệp vụ, những văn
bản luật mới…
3.2.2 Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo.
- Phối hợp với chính quyền địa phương các cấp tăng cường tuyên truyền
tới học sinh, gia đình, làng bản tầm quan trọng của việc sử dụng tiếng phổ thông
trong nhà trường và ngoài cộng đồng.
- Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên mơn liên trường để giáo viên có thể
học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh
vùng dân tộc thiểu số.
3.2.3 Đối với nhà trường.
Hằng năm, Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động ngoại
khóa. Nhất là đối với giáo viên Tổng phụ trách Đội cần có kế hoạch ngay từ đầu

skkn


17
năm tổ chức cho các em các cuộc thi, các hoạt động ngoại khóa… để các em có
cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau, thể hiện bản thân và rèn được kĩ năng nói
trước đơng người.
Nhà trường cần tạo điều kiện thêm về cơ sở vật chất để phục vụ công tác
giảng dạy bộ môn Ngữ văn tại các khối lớp.
Trên đây là một vài kinh nghiệm được rút ra từ thực tế giảng dạy của tôi trong

năm học vừa qua. Rất mong được các đồng nghiệp góp ý, giúp đỡ để tơi có thêm
những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng thành cơng hơn trong các tiết dạy của
mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Mường Lát, ngày 18 tháng 4 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viềt,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Hà Khánh Linh

skkn


18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Chương trình giáo dục phổ thơng mới môn Ngữ Văn – Bộ GD&ĐT
[2] SGK Ngữ Văn lớp 8 tập II, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
[3] SGK Ngữ Văn lớp 6 tập I, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
[4] SGK Ngữ Văn lớp 6 tập II, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
[5] SGV Ngữ Văn lớp 6; Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
[6] Nguyễn Lăng Bình – Đỗ Hương Trà, Dạy và học tích cực – NXB Đại
học Sư phạm
[7] Tài liệu Tập huấn giáo viên môn Ngữ Văn 6 - Bộ sách kết nối tri thức
với cuộc sống _ NXB giáo dục Việt Nam;

[8] Tài liệu từ các nguồn Internet.

skkn



×