Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Skkn một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng tự học môn lịch sử giai đoạn 1919 1945 cho hs lớp 12 tại trường thpt cầm bá thước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.12 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT CẦM BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC MÔN LỊCH SỬ
GIAI ĐOẠN 1919 - 1945 CHO HỌC SINH LỚP 12 TẠI
TRƯỜNG THPT CẦM BÁ THƯỚC

Người thực hiện: Lê Thị Tuấn
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc mơn: Lịch sử

THANH HĨA NĂM 2022

skkn


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. Mở đầu……………………………………………………………….

1

1.1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………


1

1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………

1

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………….

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………...

2

2. Nội dung.……………………………………………………………

2

2.1. Cơ sở lí luận………………………………………………………

2

2.1.1. Cơ sở pháp lí …………………………………………………….

2

2.1.2. Khái niệm tự học……….………………………………………...

3


2.1.3. Một số kĩ năng tự học cần rèn cho HS trong khi dạy……………

3

2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.................................................................

3

2.2.1. Thực trạng việc tự học của học sinh trong trường THPT Cầm Bá Thước..

3

2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng……………………………………..

5

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề……………………

6

2.3.1. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến……………………

6

2.3.2. Biện pháp rèn một số kĩ năng tự học cho HS…………………….

7

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm………………………………


11

2.5. Đánh giá kết quả thu được…………………………………….

12

3. Kết luận – Kiến nghị……………………………………………........

18

3.1. Kết luận……………………………………………………………

18

3.2. Kiến nghị …………………………………………………………

19

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………

skkn


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Diễn giải

HS


Học sinh

GV

Giáo viên

THPT

Trung học phổ thông

SGK

Sách giáo khoa

skkn


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Nội dung của bài học lịch sử thường gắn với các mốc thời gian, sự kiện,
…, do đó học sinh thường khó nhớ, khó hiểu. Phương pháp và cách dạy lịch sử
của giáo viên chưa thực sự khơi dậy hứng thú tìm tịi kiến thức trong học
sinh. Hầu hết học sinh khi học môn lịch sử đều học thuộc lòng, đọc từ đầu đến
cuối bài, ghi nhớ theo từng mục, từng nội dung và nhớ từng sự kiện mà khơng
có khả năng phân tích, khái qt, nhìn nhận sự kiện lịch sử trong bối cảnh thời
đại. Phần lớn tâm lí các em đều thấy bộ môn lịch sử nhiều sự kiện, kiến thức dài
khó nhớ nên dễ có tâm lí học đối phó. Từ đó, khơng thấy rõ bản chất, ngun
nhân và mối liên hệ của các sự kiện để hệ thống hóa vấn đề cho dễ nhớ mà
thường sa đà vào những chi tiết vụn vặt.

Do phải chạy theo tiến độ chương trình, cả giáo viên và học sinh trong giờ
học phải tăng tốc mới có thể đi hết kiến thức theo yêu cầu, ít có thời gian mở
rộng và nâng cao kiến thức cho các em. Thầy-trị ít có khả năng thảo luận, trao
đổi, mở rộng kiến thức. Thầy cô quan tâm đến việc hoàn thành kế hoạch bài
giảng trên lớp, chưa chú ý đúng mực trong việc rèn luyện cho HS kĩ năng tự
học, tự nghiên cứu, tự khám phá.
Học sinh thường gặp nhiều khó khăn khi tự học, nhất là học ở nhà, như:
khơng biết học như thế nào cho có hiệu quả? Ghi chép bài như thế nào? Khối
lượng kiến thức quá nhiều mà thời gian tự học lại ít, làm thế nào để nắm vững
kiến thức bài học? Nguồn tài liệu nhiều nhưng không biết chọn lọc phân loại,
không biết dựa vào các tiêu chí nào để tự đánh giá...
Tâm lí học sinh vẫn xem nhẹ bộ mơn lịch sử và coi lịch sử là môn phụ,
các em chưa thực sự tập trung tìm hiểu sâu bài học mà chỉ dừng lại ở mức độ
học thuộc những gì thầy cơ cho ghi.
Từ thực tế, tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng mơn học,
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập, giúp học sinh tiếp
thu kiến thức, vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Một trong những cách
mà tôi nghĩ đến đó là tăng cường rèn luyện cho HS kĩ năng tự học.
Qua dự giờ đồng nghiệp và thực tế giảng dạy của bản thân, tôi xin chọn
đề tài “Một số kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng tự học môn lịch sử
giai đoạn 1919-1945 cho HS lớp 12 tại trường THPT Cầm Bá Thước”. Mục
đích, nhằm phát huy tính tự giác, tính tích cực, chủ động của HS, thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả trong việc dạy học. Đồng thời,
giáo viên sẽ nâng cao hơn nữa trình độ chun mơn của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu

skkn


2

- Thực hiện có hiệu quả chủ trương đổi mới trong dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động của HS.
- Giúp học sinh có hứng thú hơn, tự giác hơn trong học tập bộ lịch sử, nắm
vững kiến thức bài học, biết so sánh, rút ra bài học cho bản thân. Đặc biệt giúp HS biết
các tự học môn lịch sử hiệu quả hơn; cũng như biết cách lựa chọn kiến thức đúng đắn,
phù hợp trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
- Đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu dạy học, nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo
dục của môn học trong nhà trường.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tìm hiểu việc tự học của HS lớp 12 hiện nay tại trường THPT Cầm Bá
Thước huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa
- Đề xuất một số giải pháp rèn luyện kĩ năng tự học nội dung lịch sử Việt
Nam từ 1919 đến 1945 cho học sinh lớp 12 THPT
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, Phương pháp quan sát , Phương pháp phân tích,
tổng hợp, phương pháp thống kê
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Cơ sở pháp lí
Trong những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo
Thanh Hóa đã có nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các nhà trường đổi mới
phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá nhằm phát huy năng lực của người học.
Bộ giáo dục, Sở Giáo dục Thanh Hóa đã ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn
thực hiện nội dung này. Tháng 10/2017, Công văn số 4612/BGDĐT-GDTrH
ngày 03/10/2017 về việc hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thơng
hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất HS từ năm học
2017-2018, đã chỉ rõ phải đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học với
các nội dung: chú trọng hình thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực; xây
dựng kế hoạch bài học theo hướng tăng cường, phát huy tính chủ động, tích cực,
tự học của học sinh thơng qua việc thiết kế tiến trình dạy học thành các hoạt

động học để thực hiện cả ở trên lớp và ngoài lớp học. Chú trọng rèn luyện cho
học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu sách giáo khoa để tiếp nhận và vận
dụng kiến thức mới thông qua giải quyết nhiệm vụ học tập đặt ra trong bài học;
dành nhiều thời gian trên lớp cho học sinh luyện tập, thực hành, trình bày, thảo
luận, bảo vệ kết quả học tập của mình; giáo viên tổng hợp, nhận xét, đánh giá,
kết luận để học sinh tiếp nhận và vận dụng.

skkn


3
Do vậy, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh tự tìm ra kiến thức, chú ý tới
việc đối thoại, hợp tác giáo viên- học sinh, học sinh- học sinh để học sinh tự
chiếm lĩnh tri thức. Thầy giáo là chuyên gia về việc học, dạy cách học cho học
sinh theo tinh thần: Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để
làm người. Giáo viên tạo điều kiện để học sinh tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau để
khuyến khích học sinh tự học; qua đó cung cấp và liên hệ ngược cho giáo viên
đánh giá.
2.1.2. Khái niệm tự học
Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh
nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào
tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn
đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học.
Khái niệm tự học ln đi cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân, tự
thân tiếp nhận tri thức; Tự thân rèn luyện các kĩ năng;…
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học.
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để
khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến; tự học, mỗi cá nhân sẽ không
cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc.Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho học
sinh là một cơng việc có vị trí cực kì quan trọng trong các nhà trường. Chỉ có tự

học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi
HS mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết về tri thức khoa học, về đời sống
xã hội. Từ đó có được sự tự tin trong học tập, trong cuộc sống.
2.1 3. Một số kĩ năng tự học cần rèn cho HS trong khi dạy phần lịch
sửViệt Nam lớp 12, giai đoạn từ 1919-1945
Kĩ năng nghe giảng, ghi bài theo nguyên tắc tự học: Kĩ năng xác định
những kiến thức cơ bản, trọng tâm, nhất là kiến thức cơ bản của từng giai đoạn;
không nên trong sách giáo khoa có gì là học nấy; kĩ năng ghi chép bài trên lớp
nhanh chóng, đầy đủ qua các kí hiệu riêng, gạch chân dưới các từ khóa, các nội
dung quan trọng…
Kĩ năng học bài (cách học): Kĩ năng lập đề cương, kĩ năng sơ đồ hoá kiến thức
một cách ngắn gọn cho dễ nhớ, kĩ năng học liên môn, kĩ năng so sánh, liên hệ,…
Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá kiến thức mà mình đã học.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực trạng việc tự học của học sinh trong trường THPT Cầm Bá Thước
HS chưa biết cách ghi nhớ, học bài ở trên lớp. Vì thế, số HS nắm được
kiến thức cơ bản của bài học trên lớp, hiểu bài trên lớp chiếm tỉ lệ chưa cao, nhất
là những nội dung liên quan đến liên hệ thực tế hoặc rút ra bài học kinh nghiệm.

skkn


4
Qua khảo sát HS ở trường THPT Cầm Bá Thước, lớp 12a2, 12a5, thơng thường
ở các tiết dạy chưa có sự hướng dẫn tự học cụ thể, chỉ có khoảng 40 % HS nắm
được kiến thức cơ bản tại lớp, 30% HS hiểu bài trên lớp. Nhưng với các tiết học
mà HS được hướng dẫn tự học tỉ lệ này thường cao hơn, khoảng 60% HS hiểu
bài trên lớp và có thể tái hiện lại rõ ràng trong bài làm của mình. Chẳng hạn khi
tìm hiểu về Phong trào cơng nhân từ 1919-1925, GV ln giải thích cho HS rõ
vì sao đấu tranh của công nhân Ba Son đã đánh dấu phong trào công nhân

chuyển từ tự phát sang tự giác (vì mục tiêu đấu tranh có cả kinh tế, chính trị…).
Thế nhưng với HS lớp 12a5, khi yêu cầu HS giải thích lí do vì sao đấu tranh của
cơng nhân Ba Son đã đánh dấu phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tực
giác thì đa phần các em trả lời lại toàn bộ nội dung liên quan đế đấu tranh của
cơng nhân Ba Son; cịn với lớp 12a2, cùng câu hỏi trên, HS cơ bản giải thích
được lí do, biết nêu lí do chính là xuất phát từ mục tiêu đấu tranh…
HS có tâm lí khơng thích học môn học, không hứng thú học tập. Hầu hết học
sinh khi học mơn lịch sử đều học thuộc lịng, đọc từ đầu đến cuối bài, ghi nhớ theo
từng mục, từng nội dung và nhớ từng sự kiện mà khơng có khả năng phân
tích, khái qt, nhìn nhận sự kiện lịch sử trong bối cảnh thời đại. Mặt khác, phần
lớn các em đều thấy bộ mơn lịch sử nhiều sự kiện, kiến thức dài khó nhớ nên dễ có
tâm lí học đối phó. Từ đó, khơng thấy rõ bản chất, nguyên nhân và mối liên hệ
của các sự kiện để hệ thống hóa vấn đề cho dễ nhớ những sự kiện điển hình, tiêu
biểu của mỗi giai đoạn lịch sử mà thường sa đà vào những chi tiết vụn vặt.
Học sinh thường gặp nhiều khó khăn khi tự học, nhất là học ở nhà, như:
không biết học như thế nào cho có hiệu quả? Ghi chép bài như thế nào? Khối
lượng kiến thức quá nhiều mà thời gian tự học lại ít, làm thế nào để nắm vững
kiến thức bài học? Ôn bài như thế nào? Nguồn tài liệu nhiều nhưng không biết
chọn lọc phân loại, không biết dựa vào các tiêu chí nào để tự đánh giá...
Thầy cơ quan tâm đến việc hoàn thành kế hoạch bài giảng trên lớp, chưa
chú ý đúng mực trong việc rèn luyện cho HS kĩ năng tự học, tự nghiên cứu, tự
khám phá. Thầy trị cũng ít có khả năng thảo luận, trao đổi, mở rộng kiến thức
do phải chạy theo tiến độ chương trình.
GV, đơi lúc cịn quan niệm tự học là cơng việc HS học ở nhà, nên chưa có
sự chú ý đúng mực đến việc tự học của HS, chưa chú ý hướng dẫn, khích lệ,
khai thác khả năng của HS.
GV dạy sử trường THPT Cầm Bá Thước nói riêng đã có nhiều cố gắng để
nâng cao chất lượng dạy học bộ môn: hướng dẫn HS tự học, thực hiện một số trò
chơi trong giờ học (“tam sao thất bản”, ghép hình,...),... nhằm thu hút HS, phát


skkn


5
huy tính tích cực, chủ động của HS trong giờ học. Nhưng hiệu quả học tập bộ
môn vẫn chưa được như mong muốn.
Vì vậy tự học ln là cần thiết, thiết thực với mỗi HS, nhất là trong khi
học môn lịch sử, môn học với đặc trưng luôn gắn với con số, với các niên đại xa
xưa. Tự học giúp HS chiếm lĩnh tri thức trong “xã hội học tập”, nâng cao hơn
nữa trình độ bản thân. Đồng thời, góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới dạy học,
góp phần thực hiện hiệu quả hơn mục tiêu giáo dục ở trường phổ thông.
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng
Thứ nhất, xuất phát từ nhận thức của học sinh, phụ huynh và của mọi cá
nhân trong xã hội, coi môn sử chỉ là môn phụ, nhiều phụ huynh chỉ mong muốn
và đầu tư cho con em mình học tốt các mơn tự nhiên cịn các mơn như sử, địa thì
có tâm lí coi thường. Đây là yếu tố tác động không nhỏ đến ý thức học tập của
HS trong giờ học. 
 
Thứ hai, chương trình sách giáo khoa còn quá nặng nề về kiến thức, sự
kiện, cách thể hiện kiến thức hình ảnh chưa thực sự sinh động nên không thu
hút được sự quan tâm của các em, hơn thế nữa khối lượng kiến thức trong
chương trình nhiều nên thường thì cả giáo viên và học sinh trong giờ học phải
tăng tốc mới có thể đi hết kiến thức theo yêu cầu, ít có thời gian mở rộng và
nâng cao kiến thức cũng như hướng dẫn cho các em cách tự học hiệu quả.
Thứ ba, phương pháp giảng dạy của một số giáo viên lịch sử vẫn còn
thiếu chiều sâu, chưa hấp dẫn đối với học sinh trong cách truyền tải kiến thức,
vẫn còn mang tính nhồi nhét. Người thầy chưa chú ý đầu tư nhiều cho tiết dạy
nên cũng dễ làm cho học sinh có tâm lí chán nản, coi thường mơn học.
Thứ tư, giáo viên dạy lịch sử chưa phát huy được thế mạnh của bộ môn,
chưa chỉ cho các em hiểu đây là một bộ mơn khoa học cần phải có sự  học tập

nghiêm túc, chưa tái hiện được khơng khí sinh động của các sự kiện lịch sử
trong giờ học. GV cũng chưa biết cách khơi gợi sự chú ý của HS đối với những
“thăng trầm” của lịch sử... Do đó, học sinh rơi vào tình trạng thụ động trong học
tập, khơng khí học tập mệt mỏi, giờ học trở nên khô khan, nặng nề....Việc tự
học, vì vậy cũng được HS tự động bỏ qua.
Đặc biệt, việc hướng dẫn HS tự học, giao bài tập cho HS thường chỉ mang
tính qua loa, hình thức. Nhiều HS không biết cách tự học, chỉ thụ động tiếp thu
kiến thức bài học, ghi nhớ máy móc kiến thức. Do đó, khi HS làm bài, chuẩn bị
bài,... cũng chỉ mang tính hình thức, đại khái; sự chú ý của HS đối với nội dung
bài học không cao. Điều này làm cho HS quên ngay kiến thức sau các tiết học,
các em khơng có hứng thú ở những tiết học tiếp theo và GV cũng thấy mệt mỏi,
bế tắc trong dạy học.

skkn


6
Vì vậy, việc rèn cho HS ý thức tự học là cần thiết nhằm làm cho HS hiểu
biết hơn về lịch sử; nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học của bộ môn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
*Về phía học sinh
Học sinh nhiệt tình, có trách nhiệm, nhất là trong việc thực hiện các
cơng việc được giáo viên giao phó. Có trách nhiệm, HS mới hứng thú, mới nỗ
lực cố gắng tìm hiểu nội dung mơn học, hồn thành được u cầu của GV. Điều
này sẽ giúp HS thấy được vai trị của mình, khẳng định được vai trị của mình
trong giờ học, làm cho HS thực sự là chủ thể của hoạt động dạy học.
Học sinh sẵn sàng hợp tác. Khi giao nhiệm vụ chuẩn bị cho HS ở nhà, trên
lớp, GV giao nhiệm vụ cho từng cá nhân hoặc theo nhóm, tất nhiên GV đã có sự
lựa chọn, phân cơng sao cho phù hợp nhất, vì vậy HS cần sẵng sàng hợp tác, học

hỏi, giúp đỡ lẫn nhau, hợp tác với GV để hồn thành cơng việc được giao.
* Về phía giáo viên
GV cần có sự hiểu biết nhất định về HS lớp mình dạy (kiến thức của HS,
các kĩ năng nổi trội ở HS,...). GV tìm hiểu điều này qua quan sát HS trong giờ
học, qua sự giao lưu với HS... Điều này giúp GV lựa chọn và đề ra được cách tự
học phù hợp cho HS; giao bài tập "đúng người, đúng việc", phát huy được thế
mạnh của HS; tránh được việc gây ra tâm lí lo sợ mơn học ở HS. Qua hiểu biết
của GV về HS, GV có những chia sẻ, uốn nắn kịp thời những biểu hiện lệch lạc
ở HS; có những định hướng hiệu quả cho HS, giúp HS ngày càng hồn thiện
mình hơn. Sự hiểu biết của GV về HS còn giúp cho mối quan hệ thầy - trò ngày
càng tốt đẹp hơn; giúp học sinh cởi mở, thân thiện, đoàn kết hơn và thêm tin
tưởng vào GV.
GV cần đầu tư, lựa chọn chu đáo nội dung, hình thức tự học cho phù
hợp đối tượng HS. Việc chuẩn bị này giúp GV có được phương pháp dạy học
phù hợp, hướng dẫn HS lĩnh hội kiến thức chính xác, vừa sức với HS, làm cho
HS thêm hiểu mình, nhất là kiến thức, phương pháp học tập môn học... Việc
chuẩn bị chu đáo còn giúp GV tạo được uy tín đối với HS, đồng thời, có những
định hướng hợp lí giúp HS hiểu biết kiến thức của bản thân, củng cố vốn kiến
thức mà mình có. GV cần tránh tình trạng thiếu sự chuẩn bị hoặc chưa chuẩn
bị chu đáo, làm cho giờ học trở nên tẻ nhạt, hoặc vội đưa ra những định hướng,
những lí giải chưa phù hợp, hoặc giao bài tập không vừa sức HS làm cho HS
khó tiếp thu, hoặc hồn thành việc học một cách khiên cưỡng,… 
GV cần động viên, tạo điều kiện, giúp HS tự tin vào bản thân.
Thông qua sự động viên, gợi mở của mình, GV động viên, khuyến khích
HS mạnh dạn trao đổi, trình bày sự hiểu biết, quan điểm của mình, nhất là trong

skkn


7

việc trình bày các nội dung, trả lời câu hỏi, làm bài tập,… theo yêu cầu của GV
GV tích cực bám sát, động viên, khen thưởng ngay sự tích cực, tiến bộ của HS,
đặc biệt là những HS còn hay nhút nhát, ngại giao tiếp. Đồng thời, cũng chỉ
ngay cho HS những khiếm khuyết cụ thể của mình để HS sửa chữa kịp thời.
Điều này giúp học trò trau dồi, củng cố thêm vốn hiểu biết của bản thân, hoàn
thiện hơn vốn hiểu biết của mình, phát huy đến mức cao nhất thế mạnh mà mình
có. Từ đó, HS có hứng thú hơn trong giờ học, tích cực hơn trong việc tham gia
các hoạt động tập thể.
Các GV trong trường sẵn sàng trợ giúp khi HS cần sự giúp đỡ. Để học
tốt một môn học, HS chỉ dựa vào kiến thức sách giáo khoa, vào hiểu biết của
mình nhiều khi chưa đủ, nhất là với những cách dạy học tích cực như hiện nay,
nhiều môn học đã thực hiện dạy học liên môn. Môn lịch sử cũng không ngoại lệ,
nội dung các mơn học liên quan (văn học, địa lí, giáo dục công dân,…) đã được
sử dụng trong dạy học nhằm làm cho bài học lịch sử thêm sinh động, cuốn hút
và dễ tiếp thu đối với HS. Việc liên hệ thực tế, rút ra bài học kinh nghiệm, nhận
xét, đánh giá... là công việc mà HS cần thực hiện trong khi học lịch sử nhưng
do kinh nghiệm sống còn hạn chế, nên các em rất cần sự tư vấn, định hướng
kiến thức, bổ sung kiến thức từ phía GV. Vì vậy, GV, hãy sẵn sàng tư vấn, giải
đáp những thắc mắc của HS, bổ sung và hoàn thiện vốn hiểu biết cho HS khi
HS cần.
2. 3.2. Biện pháp rèn một số kĩ năng tự học cho HS trong dạyhọc phần
lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn từ 1919-1945
2.3.2.1. Một số yêu cầu khi cho học sinh tự học
* Giáo viên:
- Soạn bài đầy đủ trước khi đến lớp. Giáo án phải đảm bảo yêu cầu chất
lượng, xác định rõ được mục tiêu bài học. Dạy học bám sát chuẩn kiến thức, kĩ
năng , làm rõ trọng tâm và ln làm chủ được bài giảng cuả mình.
- Vận dụng các phương pháp dạy học linh hoạt, đảm bảo phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, khơi dậy niềm đam mê hứng thú, yêu
thích của học sinh đối với bộ môn.

- Nhấn mạnh, gạch chân các từ quan trọng, các mốc thời gian quan trọng
ở mỗi bài mỗi nội dung cho HS. - Trước khi thực hiện bài giảng, GV cần tìm
hiểu kĩ về đối tượng HS lớp mình, cụ thể là tìm hiểu về những khả năng nổi trội
của các HS: khả năng về văn học, khả năng về hội họa,.... Mục đích của việc
làm này là nhằm giúp GV có sự phân cơng hợp lí hơn trong việc giao nhiệm vụ
chuẩn bị, tìm hiểu nội dung bài học, giao bài tập đến từng HS, nhóm HS, phát
huy tính tích cực, chủ động ở HS trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; tránh
giao việc khơng phù hợp, q sức, dễ gây ra tâm lí lo sợ ở HS.
- Trong quá trình thực hiện bài giảng, GV chú ý đến mọi đối tượng HS,
chú ý hơn đến những HS “đặc biệt”, giúp HS có sự tiến bộ đồng đều, không kiêu
ngạo, không mặc cảm...
* Học sinh:

skkn


8
- Tích cực phấn đấu vươn lên trong học tập, học bài và làm bài đầy đủ
trước khi đến lớp, trong lớp chú ý nghe giảng, hăng hái phát biểu xây dựng bài.
- Cần phải đọc kỹ, đọc nhiều lần để ghi nhớ. Trong quá trình học cần phải
biết phân tích tổng hợp, nhìn nhận một vấn đề, các sự kiện lịch sử trong một
chỉnh thể, học sự kiện này thì ta cần phải liên tưởng đến sự kiện trước và sau nó.
- Học bài nào dù cho có khó đến mấy cũng phải học cho xong, không
được bỏ cuộc, xong bài nào là dứt điểm bài đó.
- Học các con số ngày tháng thì chỉ cần nhớ những ngày tháng năm quan
trọng, cịn các thời điểm khác thì nhớ "tương đối", tối thiểu là cuối hoặc giữa
hoặc đầu tháng là được rồi.
- Hãy tạo cho mình tâm lý thoải mái khi học, tuyệt đối không nên học bài
khi đang stress, bực tức; lúc cảm thấy mệt, không thể tập trung thì hãy giành
thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Tuy nhiên sau khi giải lao phải học một cách

nghiêm túc.
- Cần phải có thời gian học hợp lý, nên chọn thời gian là buổi sáng, buổi
trưa và tối (trước 22h).
- Xác định dạng bài: Kinh tế, chiến tranh,… để học theo “công thức”
- Chú ý đến những sự kiện lớn của thế giới trong cùng thời gian, liên hệ,
đối chiếu, tìm ra mối quan hệ, ảnh hưởng … giữa chúng.
2.3.2.2. Một số kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh.
* Kĩ năng nghe giảng, ghi bài theo nguyên tắc tự học
- Kĩ năng xác định những kiến thức cơ bản, trọng tâm, nhất là kiến
thức cơ bản của từng giai đoạn; khơng nên trong SGK có gì là học nấy.
HS chú ý tên chương, tên bài, tên mục … đây là những dấu hiệu cơ bản
để xác định kiến thức của bài, của chương.
Chẳng hạn, khi dạy Bài 12. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ
năm 1919 đến năm 1925, mục I- Những chuyển biến mới về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Với đề mục này
thì kiến thức cơ bản chính là sự chuyển biến mới về kinh tế, xã hội
Kiến thức cơ bản cịn được thể hiện thơng qua câu hỏi của GV đặt ra cho
HS, qua sự nhấn mạnh của GV. Khi dạy mục I, Bài 12 trên, để giúp HS thấy
được rõ hơn sự chuyển biến về kinh tế, GV có thể đặt câu hỏi, yêu cầu HS so
sánh: trước chiến tranh thế giới thứ nhất, kinh tế Việt Nam chủ yếu có những
ngành nào? Với cuộc khai thác của Pháp, Việt Nam có những ngành kinh tế
nào?
Dựa vào câu hỏi của GV, qua nội dung trả lời, HS xác định được ngay sự
thay đổi, chuyển biến của kinh tế VN- đây chính là một nội dung HS cần ghi
nhớ.
GV gạch chân dưới những “từ khóa”, các nội dung quan trọng
Khi dạy Bài 12. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến
năm 1925, mục I-1.Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân
Pháp. Với nội dung cuộc khai thác, GV gạch chân dưới các từ
- Nội dung khai thác: đầu tư với tốc độ nhanh, qui mô lớn vào các ngành kinh tế


skkn


9
+ Nông nghiệp: được đầu tư nhiều nhất, chủ yếu đầu tư vào đồn điền cao su.
+ Công nghiệp: Chú trọng khai mỏ, nhất là mỏ than. Mở một số ngành công
nghiệp chế biến: dệt, muối, xay xát…
+ Thương nghiệp: ngoại thương có bước phát triển mới, nội thương được đẩy
mạnh. Pháp độc quyền
+ ….
Lưu ý HS cách chép bài qua những kí hiệu riêng, qua viết tắt các từ quen
thuộc.. đảm bảo ghi chép bài đầy đủ, chính xác. Đây chính là bước quan trọng
để HS tự học hiệu quả, khơng bỏ sót nội dung bài học.
* Kĩ năng học bài (cách học)
- Kĩ năng lập đề cương: sau một nội dung trong bài, sau một tiết học, GV
hướng dẫn HS lập đề cương cho nội dung đã học. Khi thực hiện nội dung này,
HS cần vận dụng “công thức” cho các dạng bài để lập đề cương. Nếu là dạng bài
kinh tế thì sẽ có: kinh tế nơng nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp,… Dạng bài
chiến tranh chắc chắn ln có các nội dung: ngun nhân, diễn biến, kết quả, ý
nghĩa,…
- Kĩ năng liên hệ, kĩ năng học liên môn
Lịch sử luôn diễn ra trong những bối cảnh lịch sử cụ thể, gắn với những
địa danh, nhân vật cụ thể. Do vậy, khi dạy, GV cần hướng dẫn HS khai thác bối
cảnh lịch sử, ảnh hưởng của tự nhiên, thời đại đến các nhân vật, đến tính chất
của sự kiện lịch sử… Chẳng hạn khi dạy về thời cơ của cách mạng tháng Tám
năm 1945, cần cho HS khai thác kĩ sự kiện Nhật đầu hàng Đồng minh. Đặt trong
bối cảnh Việt Nam đang bị Nhật thống trị, việc Nhật Bản tuyên bố đầu hàng, đã
tác động đến chính quyền tay sai, đến tình hình qn Nhật ở Đơng Dương như
thế nào? Từ đó HS hiểu được việc chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng, việc chính

quyền tay sai hoang mang, lo sợ; quân Nhật ở Đông Dương rệu rã,… chính là
điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc Tổng khởi nghĩa, thời cơ cách mạng đã
xuất hiện.
- Kĩ năng so sánh, liên hệ,…Học xong một nội dung, HS hãy giành chút
thời gian để đối chiếu lại những gì đã ghi với những nội dung trong sách . So
sánh, đối chiếu những nội dung đã được học với nhau (với những câu hỏi, kiểu
như: Vì sao lại như vậy? Kết quả ra sao? Ý nghĩa là gì? Nó có gì đặc biệt so với
những kiến thức mình đã được học?...Khi đã có câu trả lời cho những vấn đề
này thì chắc chắn sẽ nhớ bài rất lâu). VD: Khi tìm hiểu nội dung của Luận
cương và Cương lĩnh, HS lập bảng thống kê
Nội dung
Cương lĩnh
Luận cương
Đường lối - Tiến hành “Tư sản dân quyền - Cách mạng tư sản dân quyền
chiến lược cách mạng và thổ địa cách và cách mạng xã hội chủ
cách mạng
mạng để đi tới xã hội cộng nghĩa, bỏ qua thời kỳ tư bản
sản”
chủ nghĩa
Nhiệm
vụ - Đánh đổ đế quốc Pháp, - Đánh đổ phong kiến, đánh
cách mạng
phong kiến và tư sản phản đổ đế quốc …
cách mạng…

skkn


10
Lực lượng - Cơng nhân và nơng dân, trí - Công nhân, nông dân

cách mạng
thức, tiểu tư sản …
Lãnh
đạo - Đảng Cộng sản
- Đảng Cộng sản
cách mạng
Vị trí của - Là một bộ phận của cách - Quan hệ mật thiết với cách
cách mạng
mạng thế giới,…
mạng thế giới



Qua thống kê, HS chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa Luận cương và
Cương lĩnh, từ đó hiểu được hạn chế của Luận cương so với Cương lĩnh.
- Kĩ năng sơ đồ hoá kiến thức một cách ngắn gọn cho dễ nhớ bằng cách
viết ra trên giấy. Sau khi viết cần so sánh với các tài liệu để bổ sung những chỗ
sai sót. Nếu sai sót nhiều thi cần học lại và viết lại.Việc làm này vừa giúp các
em rèn luyện kỹ năng làm bài, vừa giúp khắc sâu kiến thức.
Ví dụ, về sự kiện thành lập Đảng, nên sơ đồ hoá ngắn gọn: Ba tổ chức
cộng sản xuất hiện từ năm 1929 -> tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời. Nhưng khi trình bày em phải viết đầy đủ: Ba tổ chức Cộng sản xuất hiện
cuối năm 1929, chứng tỏ sự phát triển của cách mạng, nhưng cũng gây ảnh
hưởng không tốt đến phong trào … Yêu cầu đặt ra là phải thống nhất các tổ
chức cộng sản lại. Xuất phát từ yêu cầu đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản vào 06/01/1930. Hội nghị đã nhất trí hợp
nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Học bằng cách sơ đồ hoá kiến thức như vậy, HS vừa dễ nhớ vừa rèn
luyện được kỹ năng làm bài, từ tổng hợp đến khái quát và triển khai các ý…
Các em cũng có thể lập sơ đồ tư duy (sơ đồ “cây”, sơ đồ hình hoa,…) theo

ý thích. Khi lập sơ đồ chú ý chọn các từ khóa, lập sơ đồ ngắn gọn. Chẳng hạn,
khi dạy về Bài Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến
trước ngày 19/12/1946, GV hướng dẫn HS lập sơ đồ để củng cố kiến thức.

skkn


11
- Kĩ năng tự học ở nhà: Nội dung này cần sự chú ý, đầu tư lớn của GV.
Để HS tự học ở nhà tốt, GV cần có sự định hướng ngay trong giờ học , đặt ra
những yêu cầu HS cần hoàn thành ở nhà. GV yêu cầu HS lập bảng tóm tắt, bảng
so sánh, vẽ sơ đồ, điền trống... các nội dung đã học. GV cũng có thể yêu cầu HS
sinh chuẩn bị bài mới với những yêu cầu cụ thể hoặc giới thiệu tư liệu tham
khảo và yêu cầu học sinh tìm hiểu nội dung liên quan đến bài học mới (tóm tắt
những nội dung chính, chỉ ra điểm mới trong bài so với nội dung đã học…). GV
cần hướng dẫn để HS có thể làm tốt bài tập; hướng dẫn HS xác định được yêu
cầu cụ thể của bài tập, đọc sách giáo khoa hoặc tìm tài liệu tham khảo, lập đề
cương ... Hoàn thành các bài tập về nhà sẽ giúp học sinh nắm vững các kiến thức
đã học và rèn luyện được các kỹ năng.
Tự học ở nhà, học sinh cũng có thể thực hiện qua trả lời câu hỏi trong
sách giáo khoa ở cuối mỗi mục, mỗi bài. Làm tốt điều này, HS sẽ rèn luyện cho
mình khả năng trình bày, ghi nhớ, khả năng tư duy và trình bày một vấn đề lịch
sử. Trả lời câu hỏi cuối bài cũng là cách rất tốt để HS tự kiểm tra, đánh giá việc
học của bản thân.
GV có thể đưa ra cho HS một số dạng bài tập về nhà như: Bài tập dưới
dạng câu hỏi nhận xét, đánh giá, so sánh (bài tập này giúp cho HS làm sâu sắc
them vốn kiến thức đã biết của bản thân ), bài tập lập niên biểu,…
* Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá kiến thức mà mình đã học.
HS tự kiểm tra thơng qua hình thức viết ra giấy những gì mình đã học,
qua lập sơ đồ tư duy, làm đề cương,…

Kiểm tra đánh giá còn được thực hiện qua việc nhận xét, đánh giá câu trả
lời, nội dung chuẩn bị của bạn
HS kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của mình
qua việc hồn thành các bài tập mà GV giao cho. Khi hoàn thành bài tập, chữa
bài tập, học sinh sẽ tự nhận thấy những thiếu sót của mình , biết khả năng của
bản thân để có cách học phù hợp hơn trong thời gian tới.
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
Qua việc hướng dẫn HS một số kĩ năng tự học, tôi nhận thấy kết quả thu
được rất khả quan.
Đa số HS đã hình thành thói quen tự học, tính tích cực, chủ động của HS
được nâng lên.
HS phát huy được khả năng, được sở trường của mình; hình thành nên các
kĩ năng cần thiết ở HS: kĩ năng trao đổi, kĩ năng hợp tác, kĩ năng trình bày trước
đám đông. Khả năng ngôn ngữ, tư duy, hiểu biết của HS được nâng lên. HS tích
cực, chủ động, tự tin lĩnh hội kiến thức, giúp các em hứng thú hơn trong giờ

skkn


12
học… Bản thân tôi dạy thực nghiệm ở lớp 12A2; đồng thời, tôi nhờ đồng
nghiệp thể nghiệm ở lớp 12A5. Qua khảo sát trước và sau thực hiện ở lớp 12A2,
kết quả thu được trên một số tiêu chí như sau:
Nội dung
Sau khi thực
Trước khi
nghiệm
thực nghiệm
Biết sắp xếp thời gian học
84%

67%
Ghi chép ngắn gọn
70%
50%
Chủ động trong học tập
61,6%
40%
Khám phá được thế mạnh của bản thân
67.2%
50%
Biết chọn cách học phù hợp
70%
52.8%
Có hứng thú trong học tập
70%
50%
Rõ ràng với việc hướng dẫn HS một cách cụ thể, HS đã có ý thức hơn
trong việc tự học, hứng thú học tập của HS đối với bộ môn được nâng lên. Điều
này được minh chứng rõ hơn qua kết quả thi học kì I của 2 lớp 12a2 và 12a5.
Lớp12a5 GV có hướng dẫn HS tự học nhưng chỉ thực hiện theo cách thông
thường (yêu cầu đọc bài mới, học bài theo câu hỏi SGK; ít có sự phân cơng, u
cầu chuẩn bị với hướng dẫn cụ thể, chi tiết). Kết quả điểm thi học kì I: lớp 12a2,
50% HS đạt điểm thi học kì I từ trung bình trở lên; lớp 12a5, tỉ lệ HS đạt điểm từ
5 trở lên chỉ đạt 35.3%
Với kết quả bước đầu như trên, có thể thấy, tự học, làm cho HS có hứng
thú hơn trong giờ học. HS tích cực, chủ động xây dựng bài, nắm vững kiến thức.
Số HS ngại học lịch sử, khơng thích học lịch sử đã giảm bớt.
2. 5. Đánh giá kết quả thu được
2.5.1. Tính mới, tính sáng tạo
* Tăng cường tính tích cực, chủ động của học sinh.

Với việc dạy học lấy HS làm trung tâm như hiện nay, thầy giáo chính là
người hướng dẫn, định hướng cho HS trong việc tìm hiểu, nắm vững tri thức;
hướng dẫn HS đi tìm chân lí. Việc học của HS được diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi.
Do đó, HS cần phát huy tính tích cực, chủ động của mình trong việc lĩnh hội tri
thức. Với tự học, HS xác định lại một lần nữa động cơ học tập của mình, xây
dựng kế hoạch học tập cho phù hợp hơn. Do đó, GV chỉ cần có định hướng phù
hợp, khéo léo phát huy thế mạnh của từng HS, khích lệ HS tìm hiểu các kiến
thức liên quan đến bài học ở trên lớp, ở nhà, qua tài liệu tham khảo... thì chắc
chắn hiệu quả bài học sẽ đạt được như mong muốn của GV, HS. Qua nội dung
tự tìm hiểu, tự học các em sẽ hiểu được nội dung bài học lịch sử, hiểu được bản
chất, mối liên hệ trong nội dung lịch sử đã học cũng như với các môn học liên

skkn


13
quan nên học sinh sẽ tích cực, chủ động hơn trong giờ học... Từ đó chủ động
trong mọi hoạt động chung của lớp, học tốt hơn các nội dung tiếp theo.
 
* Tự học giúp học sinh được tham gia trực tiếp vào nội dung bài học,
củng cố được vốn kiến thức của bản thân, phát huy được thế mạnh của mình,
thêm tự tin vào bản thân.
Qua việc lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học phù hợp; với việc đặt
câu hỏi trên lớp và giao bài tập hợp lí, … mọi HS đều được tham gia trực tiếp,
cụ thể vào quá trình dạy học. HS khá, giỏi thì trả lời câu hỏi, bài tập tổng hợp;
HS trung bình trả lời câu hỏi nhận biết, thơng hiểu, HS có năng khiếu hội họa thì
giao cho các em vẽ sơ đồ, lược đồ… Qua đó, HS được trình bày sự hiểu biết
của mình về nội dung liên quan đến bài học, phát huy được thế mạnh của mình;
HS được trực tiếp tham gia vào nội dung bài học; phát huy được đến mức
cao nhất trí tuệ và tình cảm của học sinh, hướng sự chú ý của các em vào nội

dung bài học, khơi gợi lịng u thích của các em đối với môn học. Đây cũng là
dịp để học sinh củng cố lại một lần nữa vốn kiến thức của mình, phát triển các kĩ
năng cơ bản và cần thiết cho bản thân. Đồng thời, giúp học sinh thấy và phát
huy được khả năng của mình, khơng chán nản trong giờ học;... làm cho HS có
trách nhiệm và hứng thú hơn trong học tập, rèn luyện. Chẳng hạn, khi dạy về nội
dung của Luận cương chính trị (10/1930), GV kẻ sẵn bảng với 3 cột, ghi rõ các
nội dung yêu cầu HS hoàn thành các nội dung liên quan đến Luận cương chính
trị và Cương lĩnh chính trị (nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách mạng, …)
(Xem phụ lục). HS trung bình, GV gọi hoàn thành các nội dung của Luận cương,
hoàn thành nội dung bài học, kết hợp kiểm tra bài cũ nội dung của Cương lĩnh
chính trị; HS khá giỏi, GV yêu cầu HS so sánh chỉ ra điểm giống, khác nhau
giữa Luận cương và Cương lĩnh, chỉ ra hạn chế của Luận cương… Rõ ràng, mọi
đối tượng HS được tham gia vào hoạt động này, thu hút được sự chú ý của HS
vào hoạt động học tập, HS trực tiếp tham gia vào việc xây dựng nội dung bài
học qua gợi ý của GV; HS thêm hứng thú, tự tin hơn trong học tập.
* Giáo viên được trực tiếp giao lưu - đối thoại với học sinh.
Khi HS  trình bày quan điểm, hiểu biết, chính kiến của mình, GV cần sẵn
sàng lắng nghe và tiếp nhận, tôn trọng những ý kiến của HS. Nếu HS có nhận
thức chưa đúng đắn, GV cần có những định hướng hiệu quả cho HS giúp HS
hiểu rõ hơn, khắc sâu hơn nội dung bài học. Qua đó, GV được trao đổi, giao lưu
với HS, thêm hiểu biết về HS của mình. Đồng thời cũng giúp học sinh cởi mở,
thân thiện và đoàn kết hơn; giúp học sinh thêm tin tưởng vào bản thân, tin tưởng
vào GV. Từ đó mà GV thực hiện được tốt hơn, hiệu quả hơn cơng việc dạy học
của mình.

skkn


14
* Giáo viên động viên, khích lệ học sinh kịp thời, đúng đối tượng

HS tự học nhưng để biết quá trình này có hiệu quả hay khơng cần sự đánh
giá của GV, sự đánh giá của bản thân HS. GV cần cơng nhận, khích lệ và khen
thưởng ngay sự tích cực, tiến bộ của HS, đặc biệt là những HS không hay tham
gia vào các hoạt động học tập. GV nên cố gắng khai thác, nhìn nhận những thế
mạnh của HS, sẵn sàng gọi các em trình bày quan điểm của mình. Đồng thời
cũng chỉ ngay cho HS những khiếm khuyết cụ thể của mình để HS sửa chữa kịp
thời, nhất là những nhận thức chưa thật sự đúng đắn ở HS. Điều này khiến học
trị hứng thú hơn, tích cực hơn trong giờ học,
* Giáo viên thực hiện được mục tiêu đổi mới trong dạy học- GV là
người định hướng cho học sinh, giúp học sinh tự tìm ra "chân lí".
Thơng qua các nội dung dạy học trên lớp, qua giao bài tập cho HS cũng
như đánh giá sản phẩm của HS, GV định hướng những nội dung liên quan đến
bài học, để các em hiểu rõ hơn nội dung bài học. Do đó, HS sẽ tiếp thu kiến
thức một cách nhẹ nhàng, nội dung bài học sẽ được HS thấm nhuần một cách
tự nhiên. HS hiểu rõ hơn, lí giải được bản chất, mối liên hệ giữa các nội dung
trong bài với nhau cũng như với các nội dung đã học, tự rút ra được bài học kinh
nghiệm cho bản thân. Khi dạy về phong trào dân chủ 1936-1939, GV chú ý
hướng dẫn HS khai thác Bối cảnh lịch sử, so sánh với thời kì 1930-1931, để HS
tự lí giải được sự thay đổi trong việc xác định nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng…
của thời kì này vì sao có sự thay đổi so với thời kì trước đó. Việc làm này vừa
giúp HS liên hệ được với các sự kiên đã học trước đó, đồng thời, HS còn hiểu rõ
hơn bản chất của sự kiện.
* Dạy học gắn với việc tự học sẽ giúp cho giáo viên củng cố được vốn
kiến thức của mình, đồng thời, làm phong phú vốn hiểu biết của bản thân
giúp giáo viên ngày càng "hồn thiện" mình hơn.
Khi dạy học trên lớp, để thu hút sự chú ý của HS vào nội dung bài học,
GV, ngồi kiến thức mơn học, cần phải có những hiểu biết về các mơn học liên
quan, nhất là các môn: Văn học, Địa lý, Giáo dục công dân.... GV cần đầu tư
chuẩn bị cho bài học, cho nội dung liên quan, thật sự hiểu biết về nội dung đó.
Việc đầu tư, chuẩn bị này giúp GV hiểu rõ hơn nội dung bài học, nội dung các

môn học khác sẽ được vận dụng để liên môn; hiểu được những kiến thức của
các môn học khác được HS đưa vào trong bài làm, vào trong câu trả lời của
mình,… Việc làm này giúp GV ôn lại, củng cố lại vốn kiến thức của mình; có
thêm hiểu biết về các mơn học khác, làm cho kho tri thức của mình trở nên
phong phú hơn, GV ngày càng hồn thiện mình hơn.

skkn


15
2.5.2. Khả năng áp dụng, nhân rộng.
* Tự học được thực hiện được dễ dàng trong dạy học ở trên lớp, trong
chuẩn bị bài ở nhà với sự chuẩn bị chu đáo của GV; sự tích cực, chủ động của HS.
GV là tấm gương để HS noi theo. Bất kì GV nào cũng hiểu được: muốn
làm tốt công tác dạy học của mình phải hiểu rõ đối tượng HS trong lớp, trau dồi
kĩ năng, nghiệp vụ của bản thân. Vì thế việc tìm hiểu HS (sở thích, thế mạnh,
thói quen, hạn chế,...) thường được GV thực hiện ngay từ đầu năm học, trong
các giờ học, nhất là trong các hoạt động chung... Từ đó, GV có kế hoạch dạy
học, giáo dục HS cho phù hợp với đối tượng HS. GV cịn là người giúp HS "tìm
ra chân lí", thực hiện "dạy học lấy HS làm trung tâm". Mục tiêu này chỉ được
thực hiện tốt khi bản thân GV không ngừng nâng cao trình độ của mình. HS
hồn thành mọi u cầu của GV. Qua việc chuẩn bị, trình bày của HS, GV nhận
xét khéo léo, chỉ ra nội dung chưa phù hợp; khẳng định, cơng nhận những “chân
lí” trong bài làm của HS. Với việc làm này, GV giúp HS thêm tự tin vào bản
thân, tích cực hơn trong học tập, rèn luyện.
Tâm thế sẵn sàng cho việc học, khát khao lĩnh hội tri thức để trở thành
người công dân tốt, có ích cho gia đình, cho xã hội của HS khi đến trường,…
góp phần quan trọng trong việc tự học của HS.
Do đó, chỉ cần mỗi GV chú ý hơn nữa, sát sao hơn nữa đến HS; biết cách
khơi gợi tiềm năng của HS, phát huy thế mạnh của mỗi HS, có kế hoạch cụ thể,

giao nhiệm vụ rõ ràng đến HS trong giờ học, sau mỗi giờ học thì chắc chắn sẽ
thực hiện được dạy học theo phương pháp tích cực, phát huy được khả năng tự
học của HS trong việc lĩnh hội tri thức.
* Tự học còn có thể thực hiện đối với các mơn học khác. Ngồi việc áp
dụng đối với mơn lịch sử, phương pháp này cịn có thể thực hiện đối với các
mơn học khác như ngữ văn, địa lí …
Như vậy, tự học hoàn toàn thực hiện được trong dạy học lịch sử lớp 12 ở
trường phổ thông.
2.5.3. Khả năng mang lại lợi ích thiết thực.
* Học sinh hứng thú hơn với giờ học.
Tự học, HS được tham gia trực tiếp vào quá trình dạy học, làm tăng hứng
thú học tập mơn lịch sử cho các em học sinh. Thông qua tự học, người học nhận
thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên
hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như mối liên hệ giữa Lịch
sử với các môn học khác; khắc phục được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức
và củng cố thêm hiểu biết của mình về các lĩnh vực khác bên cạnh sử học. Từ
đó, HS yêu thích việc học hơn .

skkn


16
Việc tự học giúp học sinh hiểu được sâu sắc hơn các vấn đề lịch sử. Như
khi hoàn thành bảng thống kê ở Phụ lục 1, kết hợp so sánh, học sinh sẽ lí giải
được tính chất dân chủ của phong trào cách mạng 1936.Qua đó, học sinh tích
cực chủ động trong việc học tập. Các em được ôn tập, củng cố, tổng hợp ở mức
cao hơn nội dung đã học.Vì vậy, học sinh có hứng thú hơn với việc tìm hiểu và
say mê hơn với mơn học.
* Học sinh chủ động hơn với việc học.
Tự học, HS chủ động trong việc sắp xếp thời gian học tập, tốc độ học tập

phù hợp với mình nhất, học bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu mình thấy tiện lợi và
hứng thú không phải lo cô giảng nhanh quá, cả lớp hiểu mà mình khơng hiểu,
chẳng lo mình tốn thời gian với những nội dung biết rồi, tự học, HS sẽ bổ sung
được nội dung mình cịn yếu, cịn thiếu, nâng cao nội dung hiểu biết của bản
thân. Tự học, HS có thể học với bất kì ai, có thể kết hợp với cách hoạt động
khác nữa. Cùng học bài và chữa cho nhau, giúp nhau bù đắp những phần còn
yếu của từng người… Tự học, HS có thể đặt ra mục tiêu cần hoàn thành, chia
thành những chặng nhỏ để hồn thành nó. HS sẽ thấy mục tiêu học tập trở nên
dễ dàng được thực hiện. Điều này cũng làm HS hứng thú hơn trong học tập.
 
* Tạo điều kiện để học sinh phát huy thế mạnh của bản thân, phát huy
tính tích cực của HS trong học tập làm cho HS có ý thức hơn trong học tập,
rèn luyện.
HS tham gia sơi nổi, nhiệt tình, tích cực và chú ý hơn tới giờ học. Các em
tìm thấy sự say mê trong môn học, và biến việc học thành niềm vui thích. HS tự
khám phá ra điểm mạnh và sở thích của bản thân, khiến cho việc học trở nên dễ
dàng hơn. Các em được thể hiện mình, phát huy được thế mạnh, sự hiểu biết của
bản thân; từ đó, tích cực hơn trong học tập, rèn luyện.
* Góp phần tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh,
đem lại hiệu quả giáo dục sâu sắc hơn.
Qua kiến thức bài học, nhất là kiến thức HS tự rút ra, hiệu quả giáo dục
trở nên rõ ràng hơn; bài học lịch sử được thấm nhuần nhẹ nhàng, không khiên
cưỡng đến HS.
HS chắc chắn hiểu rõ hơn quy luật: có áp bức, có đấu tranh, qua việc khắc
họa tình cảnh của nhân dân dưới hai tầng áp bức Nhật- Pháp, đặc biệt hình ảnh
hình ảnh đối lập: nhân dân ta chết đói và kho thóc đầy ăm ắp của Nhật, lí giải
được vì sao cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ.
HS cũng thấy được khí thế đánh giặc, khí thế đấu tranh anh dũng của cha
ơng qua những cuộc biểu tình, bãi cơng… trong phong trào cách mạng 19301931, qua Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945… Tất cả đã bổ sung, làm phong


skkn


17
phú thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Truyền thống đó sẽ mãi mãi được
các thế hệ Việt Nam kế thừa và phát huy.
* Khắc phục được một số hạn chế, thiếu sót trong giao tiếp,... ở học sinh.
Qua việc tự học, qua trình bày nội dung học tập của mình mà nhiều em
mạnh dạn hơn trong việc trình bày, trao đổi những lĩnh vực hiểu biết của mình.
Khơng khí lớp học trở nên sôi nổi hơn, HS hứng thú hơn, tích cực hơn trong học
tập. Những hạn chế ở HS trong giờ như ngại giao tiếp, ngại trả lời, không chú ý
đến bài học... đã được khắc phục phần lớn, rất nhiều em HS đã mạnh dạn hơn
trong việc trả lời câu hỏi của GV, có ý thức hơn trong giờ học... Điều này đã
góp phần khơng nhỏ vào việc hoàn thiện nhân cách, mở mang tri thức cho các
em học sinh. Góp phần làm phong phú, hồn thiện vốn tri thức ở HS, đào tạo ra
những con người toàn diện, để các em học sinh có khả năng đối mặt với những
thách thức trong cuộc sống hiện tại cũng như tương lai sau này, đáp ứng được
yêu cầu ngày càng cao của xã hội. 
* Tập dượt cho học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học cho
quá trình học tập tiếp theo. Tự học đã giúp các em hiểu rõ hơn nội dung bài
học, vận dụng được kiến thức đã học cũng như kiến thức các môn học liên quan
để hiểu rõ hơn nội dung bài học. Đây chính là quá trình tập dượt để HSvận dụng
được kiến thức đã học để giải quyết các tình huống thách thức, đặt ra trong nội
dung học tập tiếp theo, thậm chí cả những thách thức trong tương lai. Điều này
rất có ích cho HS trong cuộc sống sau này, giúp HS trở thành người cơng dân,
làm người lao động có năng lực sống tự lập, có chủ kiến ...
* GV thực hiện được yêu cầu đổi mới căn bản mục tiêu đào tạo.
Giáo dục nước ta đang tập trung đào tạo con người phát triển một cách
toàn diện, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Để làm được điều này, tất cả mơn học
nói chung và lịch sử nói riêng phải mang lại sự hiểu biết tri thức một cách tồn

diện. Phương pháp dạy học của GV cần phải có sự đổi mới. Việc dạy học chú
trọng đến lấy HS làm trung tâm, hướng dẫn HS tự học; GV là người ”định
hướng”, ”cố vấn” cho HS. Nhưng với môn lịch sử, mơn học mang tính q khứ,
có rất nhiều sự kiện, khơng lặp lại, khơng thể diễn ra trong phịng thí nghiệm, ...
HS rất khó để hiểu được bản chất của các sự kiện. Ngày nay, có nhiều nguồn tài
liệu tham khảo khác nhau, nhiều môn học cùng đề cập đến một sự kiện lịch sử.
Do vậy,GV cần phát huy tốt vai trị ”cố vấn”, ”định hướng” của mình, giúp HS
biết lựa chọn, vận dụng, sử dụng kiến thức liên môn văn học, địa lý,... vào học
lịch sử. Việc làm này, giúp HS củng cố thêm hiểu biết của bản thân về kiến thức
của các môn học khác; tạo ra sự liên thông và bổ trợ giữa các môn học; khắc
phục được tình trạng khơ cứng, nặng nề, tản mạn, rời rạc trong quá trình học tập;

skkn



×