Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Skkn một vài kinh nghiệm dạy học văn từ góc độ tiếp cận văn hóa học tại trung tâm gdnn gdtx như thanh (qua ví dụ nghiên cứu, giảng dạy truyện kiều của nguyễn du)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.01 KB, 11 trang )

MỘT VÀI KINH NGHIỆM DẠY HỌC VĂN TỪ GÓC ĐỘ TIẾP CẬN
VĂN HÓA HỌC TẠI TRUNG TÂM GDNN-GDTX NHƯ THANH
(QUA VÍ DỤ NGHIÊN CỨU, GIẢNG DẠY TRUYỆN KIỀU
CỦA NGUYỄN DU)
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Mọi phương pháp dạy học văn học xét cho cùng đều liên quan đến việc sáng
tác văn học và đọc văn bản nghệ thuật. Có nhiều cách đọc văn bản, tùy theo lý
thuyết được người đọc lựa chọn. Trước đây, ở nước ta xu hướng nghiên cứu, tiếp
cận văn học theo lập trường xã hội học một thời gian dài được chú trọng. Nhà
nghiên cứu hình thức học lại quan tâm đến cấu trúc hình thức của tác phẩm. Xem
văn bản nghệ thuật như một hệ thống có giá trị nội tại, khép kín. Người ta gọi
những người nghiên cứu theo xu hướng này là nhà Thi pháp học. Tuy nhiên, trong
quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm nghệ thuật, giữa các lý thuyết nghiên cứu
vẫn có mối quan hệ gắn bó với nhau, khơng có phương pháp nào là độc tơn, khơng
có sự phân tách tuyệt đối khi nghiên cứu văn bản nghệ thuật.
Trong phạm vi bài này, người viết có một vài kinh nghiệm khi nghiên cứu,
giảng dạy tác phẩm văn chương từ góc độ tiếp cận Văn hóa học. Đây là phương
pháp tiếp cận văn bản nghệ thuật ưu tiên cho việc phục ngun khơng gian văn hóa
mà tác phẩm văn học đã ra đời. Xác lập sự chi phối của các quan điểm triết học, tơn
giáo, đạo đức, chính trị, luật pháp, thuần phong mỹ tục…cũng như quan niệm về
con người và sự chi phối của các phương diện khác nhau trong đời sống, sinh hoạt
xã hội từng tồn tại trong một khơng gian văn hóa xác định đối với tác phẩm, về các
mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, hình tượng nghệ thuật, cảm xúc nghệ thuật, sử
dụng ngơn ngữ…Phương pháp nghiên cứu giảng dạy từ góc độ văn hóa học mang
tính tổng hợp, trung gian giữa các phương pháp đọc văn bản khác nhau, nhưng vẫn
có những đặc trưng riêng, phù hợp với xu hướng tìm hiểu tác phẩm nghệ thuật.
Mặt khác,trong nhà trường THPT và các Trung tâm GDNN_ GDTX hiện
nay, một thực tế khách quan là học sinh khơng thích học văn, đọc văn. Tại sao như
vậy? Có nhiều nguyên nhân khác nhau:
Một là, xu thế chọn trường, chọn nghề sau khi tốt nghiệp THPT của học sinh


thường là khối A,B, các em thi vào các trường thuộc khối kỹ thuật, kinh tế, thương
mại hơn là các nghề thuộc khối xã hội
Hai là, trong xu thế hiện đại, các tài liệu thông tin phong phú, tài liệu nghiên
cứu tác phẩm văn học phổ biến, nhiều em không biết nội dung tác phẩm như thế
nào nhưng lại đọc các bài viết phê bình, đánh giá tác phẩm ấy trước. Các loại sách,
tài liệu: Để học tốt môn văn, bài văn mẫu, bài văn chọn lọc, bài gợi ý tìm hiểu vv…
1

skkn


phổ biến trên những quầy bán sách báo. Vì vậy, không cần nghiên cứu, tiếp cận văn
bản tác phẩm các em vẫn làm bài văn, vẫn “như là hiểu tác phẩm nghệ thuật” dẫn
đến tình trạng nhàm chán khi lên lớp học văn. Gần đây, trên mạng Internet có đăng
một bài thơ “Tóm tắt truyện Kiều” của một học sinh chun tốn đã cho thấy rõ
điều đó. Khồng cần đọc tác phẩm vẫn tóm tắt được tác phẩm văn chương ! ?
Ba là, một số thầy cô giáo dạy văn lên lớp giảng dạy, chưa thật sự tìm tịi,
sáng tạo, vẫn dạy theo lối “sáo mòn”,“như sách” dẫn đến các em nghe giảng đã
“biết rồi, khổ lắm nói mãi” cho nên học sinh khơng hứng thú với mơn học.
Chính vì vậy, phương pháp nghiên cứu giảng dạy tác phẩm văn học từ góc
độ văn hóa học là một trong những phương pháp có thể hấp dẫn, tạo hứng thú cho
học sinh trong giờ học văn mà người viết đề tài này đã thử nghiệm và tương đối
thành công tại đơn vị cơng tác của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Là một giáo viên tâm huyết với nghề, có trách nhiệm và u thương học trị,
bản thân ln trăn trở làm thế nào để học sinh yêu môn học hơn, làm thế nào để
những giá trị, thiên chức cao cả của văn học đến gần hơn với học trò, cuộc sống.
Đúng như đại văn hào M.gorki đã nói: “ Văn học là nhân học”. Từ đó hướng các
em đến chân- thiện – mĩ, sống tốt hơn, đẹp hơn. Đồng thời biết trân trọng, giữ gìn,
phát huy những giá trị, tinh hoa văn hố tốt đẹp của cha ơng, dân tộc trong q khứ

và xây dựng, làm giàu thêm những giá trị đó trong tương lai. Trên cơ sở đó đề tài
hướng đến những mục đích cụ thể sau:
- Tạo hứng thú ban đầu cho học sinh khi tìm hiểu, tiếp cận tác phẩm
- Giúp học sinh tìm hiểu , tiếp cận, có cái nhìn đúng, sâu sắc về giá trị nội
dung, tư tưởng của tác phẩm dưới góc độ văn hố.
- Giúp học sinh hiểu hơn về văn hoá và yêu quý, trân trọng nhũng giá trị
văn hoá, di sản văn hoá mà cha ông để lại như kiệt tác Truyện Kiều.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, sáng kiến tập trung tìm hiểu, làm rõ một số
vấn đề sau: - Tìm hiểu khái qt về văn hố và cách tiếp cận văn hoá.
-Cách tiếp cận văn hoá qua tìm hiểu, giảng dạy Truyện Kiều nói
chung và đoạn trích “ Nỗi thương mình” nói riêng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp tài liệu: Chọn và tổng hợp các ngữ liệu, dẫn chứng
tiêu biểu trong tác phẩm để phục vụ cho việc nghiên cứu.

2

skkn


- Phương pháp phân tích, so sánh : Phân tích ngữ liệu, kết hợp với đối chiếu,
so sánh , nhằm khơi sâu, mở rộng cách nhìn để tiếp cận chính xác nội dung,
giá trị sâu sắc của tác phẩm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến
2.1.1. Văn hóa và cách tiếp cận văn hóa học tác phẩm văn học
Sơ lược về khái niệm văn hóa
Văn hóa là một hệ thống các phạm trù giá trị, hình thành trong các mối quan
hệ xác định của con người, những giá trị hoặc là nội sinh hoặc là ngoại sinh. Chúng

hình thành bằng hai con đường, trước hết được con người đúc kết thông qua hoạt
động thực tiễn của mình, thứ hai là hình thành trong quá trình giao lưu giữa các nền
văn hóa. Hai q trình này đều quan trọng như nhau. Trên thế giới, không có một
nền văn hóa nào đứng biệt lập, tách biệt mà khơng có giao lưu. Việt Nam là một
dân tộc điển hình của sự giao lưu giữa các nền văn hóa trên thế giới!
2.1.2. Cách tiếp cận văn hóa học
Trong lịch sử nghiên cứu văn học ở nước ta, chưa có một cơng trình nghiên
cứu văn học nào nghiên cứu một cách hệ thống văn hóa Việt Nam truyền thống để
áp dụng vào nghiên cứu văn học. Do đó, dù nhiều vấn đề văn học đã được nhìn từ
góc độ văn hóa học, nhưng vẫn cịn một số phương diện văn hóa tiềm ẩn hệ thống
đề tài, hình tượng, ngơn từ của tác phẩm văn học vẫn chưa được “chạm” tới. Ta
thường hay nói “Văn học là nhân học”. Nói văn hóa học chính là nói đến con
người “nhân học”. Bất cứ tác phẩm văn chương nào cũng thể hiện con người và
hoạt động của con người trong một không gian thời gian nhất định. Con người
trong văn học ở mỗi thời kỳ lại có những cách thể hiện riêng, diện mạo riêng. Con
người Trung đại khác con người Hiện đại. Con người là sản phẩm của xã hội đã và
khơng ngừng được văn hóa . Tức là thành những “Khn”, “Mẫu” riêng để ngày
càng hồn thiện, phát triển đi lên.
Với tư cách là một thực thể văn hóa, con người bao giờ cũng tồn tại trong ba
mối quan hệ: quan hệ với môi trường tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với
chính bản thân mình. Mọi ứng xử của con người đều nằm trong ba mối quan hệ đó.
Điểm khác biệt của cách tiếp cận văn hóa học so với Thi pháp học là ở chỗ: tiếp
cận văn hóa học khơng chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của tác phẩm như là
một thế giới khép kín, có giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đối chiếu, so sánh các
quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm được sản sinh để tìm nguồn gốc của
các dạng thức quan niệm về con người, về không gian, thời gian trong tác phẩm.
Tiếp cận văn hóa học là tiếp cận khoa học liên ngành. Vận dụng tri thức tổng hợp
3

skkn



về lịch sử, địa lý, tôn giáo, triết học, khảo cổ học, nhân loại học…để giải mã các
hiện tượng thi pháp tác phẩm văn học
Phương pháp này không phải là một cái gì tuyệt đối so với các phương pháp
khác. Cách tiếp cận văn hóa học chú trọng phân tích văn hóa từ phương diện lịch
sử nên nó gần với xã hội học – lịch sử. Cách tiếp cận này nhằm tái hiện lại đời sống
văn hóa trong một thời đại nhất định, do đó có nhiều trường hợp giống với công
việc của chú giải học, giải mã các hiện tượng văn hóa khơng cịn tồn tại trong hiện
tại.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
Sau gần 17 năm công tác tại đơn vị, tôi nhận thấy học sinh càng ngày càng
xem nhẹ các môn học xã hội, trong đó có mơn Ngữ Văn mà tơi đang trực tiếp giảng
dạy, khơng có hứng thú với mơn học, mà nguyên nhân cơ bản như đã nói ở trên.
Mặt khác, đối tượng học viên tại Trung tâm GDNN-GDTX Như Thanh từ khi
thành lập đến nay chủ yếu là học sinh có hồn cảnh khó khăn, hồn cảnh đặc biệt.
Bản thân các em lại là những người có khả năng nhận thức hạn chế, các em khơng
có điều kiện để được tham gia, được trải nghiệm những hoạt động văn hố, khơng
được quan tâm bồi dưỡng, cung cấp những kiến thức, hiểu biết về văn hoá. Điều
này dẫn đến các em có đời sống văn hố nghèo nàn, và thật khó để các em có thể
tiếp cận, hiểu được một cách sâu sắc những giá trị nhân văn, giá trị văn hố trong
các tác phẩm văn học nói chung và trong kiệt tác Truyện Kiều nói riêng. Cũng như
khơng thấy được mối quan hệ mật thiết giữa tác phẩm văn học và văn hoá; thái độ,
hành vi ứng xử của các em trước những vấn đề trong cuộc sống nói chung và trong
học văn nói riêng nhiều khi cịn lệch lạc, chưa phù hợp .
Nhận thức được vấn đề này, tôi mạnh dạn đưa ra và lựa chọn đề tài :
“MỘT VÀI KINH NGHIỆM DẠY HỌC VĂN TỪ GÓC ĐỘ TIẾP CẬN VĂN
HÓA HỌC TẠI TRUNG TÂM GDNN-GDTX NHƯ THANH”
( QUA VÍ DỤ NGHIÊN CỨU, GIẢNG DẠY TRUYỆN KIỀU CỦA
NGUYỄN DU)

Với mong muốn giúp học sinh có hứng thú , yêu môn học hơn, hiểu sâu sắc ,
trân trọng giá trị cao cả của kiệt tác Truyện Kiều, dần hình thành thái độ và hành vi
ứng xử có văn hố trước những di sản văn hoá, giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc
và cả trong đời sống.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm đã được sử dụng để giải quyết vấn đề.
a. Ví dụ, khi phân tích vấn đề “Hồng nhan bạc phận” và “Tài mệnh tương
đố” trong truyện Kiều của Nguyễn Du. Theo quan điểm của người hiện đại “Hồng
nhan bạc phận” có vẻ như là vấn đề duy tâm, siêu hình. Nhưng với thời Trung đại,
triết lý này nó phản ánh số phận của người phụ nữ có sắc đẹp “Hồng nhan” thì
4

skkn


phải chịu nhiều đau khổ, bất hạnh. Dẫn đến quan niệm khinh ghét, xa lánh, thậm
chí ghê sợ những người xinh đẹp, nhìn sắc đẹp như là yêu ma, là nguồn gốc gây
nên tai họa cho triều đại, cho gia đình, cho chính người có sắc đẹp. Từ đó, có chủ
trương trọng đức hơn trọng sắc. Từ quan điểm của xã hội phong kiến soi vào truyện
Kiều ta mới thấy cái nhìn nhân đạo, sự vĩ đại của Nguyễn Du: nhà thơ đã vượt qua
cái nhìn giai cấp, đầy định kiến, khinh miệt người phụ nữ Tài Sắc để cảm thông
chia sẻ, bênh vực cho người phụ nữ hồng nhan! Nguyễn Du là nhà thơ nữ quyền
đầu tiên của văn học Việt Nam. Tuy nhiên, Hồng nhan bạc mệnh đặt vào khơng
gian văn hóa Trung đại sẽ làm nổi bật một vấn đề khác: người phụ nữ tài sắc nói
chung là những làm ra các giá trị văn hóa nhưng lại bị xã hội khinh miệt, rẻ rúng.
Bênh vực người phụ nữ đẹp và người nghệ sỹ, Nhà thơ đã đề cao giá trị tinh thần
và mở ra chân trời mới về quan niệm con người: con người không chỉ có nhu cầu
về vật chất: ăn, mặc, ở mà cịn có đời sống tinh thần phong phú, sâu sắc. Đó mới là
giá trị đích thực của con người. Chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Du cần được xác
định không phải bằng định ngữ kiểu chống phong kiến chung chung mà ở những
giá trị rất đỗi bình thường và hết sức cụ thể, liên quan trực tiếp đến vận mệnh con

người.
Tiếp cận văn hóa học cũng có điểm gặp gỡ với thi pháp học. Thi pháp học
mô tả các ngôn ngữ được chính tác giả sử dụng. Văn hóa học cũng quan tâm đến
hàm nghĩa văn hóa của các khái niệm ngôn từ của tác phẩm. Điểm khác biệt của
cách tiếp cận văn hóa học với thi pháp học là ở chỗ, tiếp cận văn hóa học khơng
chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có
giá trị tự thân mà cịn có nhiệm vụ đối chiếu, so sánh các quan niệm văn hóa của
thời đại nơi tác phẩm được sản sinh để tìm nguồn gốc của các dạng thức quan niệm
về con người, về không gian, thời gian trong tác phẩm. Một hình tượng hay một thủ
pháp nghệ thuật sở dĩ hấp dẫn, có sức thuyết phục vì nó tìm được sự chia sẻ, đồng
cảm của những người cùng một nền văn hóa.
b. Tiếp cận văn hóa học qua đoạn trích “Nỗi thương mình” trích trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du
Như đã phân tích ở trên, Truyện Kiều là một tác phẩm thể hiện quan niệm
Tài mệnh tương đố; Hồng nhan bạc phận của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến. Nhiều học sinh không đọc hết một phần của truyện Kiều nhưng vẫn tóm tắt
được tác phẩm, vẫn “Hiểu” tác phẩm, vẫn nói được lịng thương người của cụ
Nguyễn Du. Nhưng để học sinh “Yêu” truyện Kiều, “Say” Truyện Kiều, hiểu tấm
lòng của Cụ Nguyễn Du gửi gắm vào tác phẩm không phải là điều đơn giản. Người
dạy phải chuyển tải được “Tình và Ý” của Nguyễn Du, dụng ý nghệ thuật của tác
giả thì học sinh mới cảm nhận được giá trị đích thực của tác phẩm.

5

skkn


Đoạn trích “Nỗi thương mình” là một ví dụ cụ thể. Đây là một trong những
đoạn hay nhất, sâu sắc nhất, cũng là đoạn thể hiện rõ nhất thân phận của người phụ
nữ hồng nhan chịu nhiều nỗi bất hạnh, khổ đau trong xã hội cũ. Đồng thời, cũng là

đoạn thể hiện rõ nhất nhân phẩm của Thúy Kiều “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn” cũng như tiếng kêu ai oán của Nguyễn Du cho thân phận nàng Kiều.
Trong phạm vi bài viết, người viết không đi vào phân tích lại đoạn trích như
trong sách hướng dẫn giảng dạy cũng như hướng dẫn đọc hiểu văn bản mà cố gắng
tiếp cận từ góc độ văn hóa học nhằm gợi mở một cách hiểu, cách đánh giá nhân vật
trong đoạn trích, qua đó, giúp học sinh hiểu rõ hơn giá trị của đoạn trích cũng như
giá trị tác phẩm Truyện Kiều.
Đoạn trích Nỗi thương mình có thể chia thành ba đoạn nhỏ:
Đoạn 1 (bốn dòng đầu): Nguyễn Du miêu tả cảnh sống của Thúy Kiều giữa
chốn lầu xanh
Đoạn 2 (tám dòng tiếp theo): tâm trạng đau đớn, sự tự giày vò thể hiện vẻ
đẹp tâm hồn cao cả của Thúy Kiều
Đoạn 3 (những dòng còn lại): Thúy Kiều cố gắng tách mình ra khỏi cuộc
sống xơ bồ chốn lầu xanh để giữ phẩm giá của mình.
Đọc đoạn trích và những tài liệu hướng dẫn đọc, hiểu đoạn trích, học sinh
cũng đã thấy được điều này. Vấn đề ở đây là làm sao chuyển tải được các nội dung
đoạn trích cho học sinh hiểu và thấu cảm nhân cách Thúy Kiều và tấm lòng nhân
đạo cao cả của Nguyễn Du gửi gắm vào trong câu chữ. Cách tiếp cận đoạn trích
cũng như tác phẩm Truyện Kiều từ góc độ văn hóa học với hai khái niệm Thân và
Tâm có thể giải quyết được điều này!
Trước hết, chúng ta thấy Nguyễn Du đã mơ tả một cách tài tình thân phận
nàng Kiều ở lầu xanh lần thứ nhất. Một số phận đắng cay, tủi nhục. Nhà thơ bộc lộ
tình cảm thương thân, xót thân. Nguyễn Du đã để cho nàng Kiều Tự thương mình.
Qua tình cảnh của Thúy Kiều, Nhà thơ ca ngợi nhân phẩm của Thúy Kiều. Nguyễn
Du có cái nhìn khác về thân thể con người. Đối với ông, sự tôn trọng con người
trước hết phải là trân trọng thể xác. Nguyễn Du thường công khai phê phán sự đánh
đập, đặc biệt ông chú ý đến bản thân nỗi đớn đau, nhục nhã của việc thân xác con
người bị dày xéo, chà đạp:
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người.

Đây là một nét khác biệt căn bản giữa Nguyễn Du và Thanh Tâm tài nhân.
Với Nguyễn Du, đó là tình cảm của con người “trơng thấu sáu cõi” cịn với Thanh
Tam tài nhân đó là quan niệm của xã hội phương Đông phong kiến: chuyện đòn roi
6

skkn


là “Chuyện thường ngày ở huyện”, chẳng ai mảy may xúc động. Với Nguyễn Du,
ông trân trọng thể xác con người, không tách bạch phần hồn và phần xác, ông coi
thân thể là một phạm trù thuộc nhân cách. Đó là một phương diện quan trọng của
chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nhân đạo không phải tố cáo
chế độ phong kiến chung chung mà quan trọng hơn, chú ý đến thể xác như một
phần của nhân cách. Tôn trọng con người trước hết là tôn trọng thân xác của nó.
Nhà phê bình văn học Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp Truyện Kiều đã viết: “Có
thể nói, Truyện Kiều là tác phẩm thương thân, xót thân bậc nhất trong văn học Việt
Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX…Truyện Kiều đã được xây dựng sao cho nhân vật
tự cảm thấy được cái thân đau đớn, ê chề, nhục nhã của mình …thương thân chứ
khơng phải thương tài, tiếc thương chứ không phải câu chuyện bất hủ” (1).
Đoạn trích Nỗi thương mình đúng như cách lựa chọn tiêu đề của người biên
soạn là đỉnh cao của sự Tự thương của Thúy Kiều.
Truyện Kiều không chỉ cất lên tiếng nói thương thân, xót thân mà cịn là
tiếng hát ngợi ca thân, tơn vinh thân. Thương xót thân và ngợi ca thân là hai mặt
của một quan niệm thống nhất về con người trong Truyện Kiều, quan niệm này
tước bỏ màu sắc thánh nhân, đưa nhân vật trở về cuộc sống thường ngày, con người
tự nhiên. Giữa chốn lầu xanh ô nhục, giữa bao nhiêu cám dỗ của đồng tiền, của
nhục dục, Thúy Kiều vẫn “Vô cảm”. Nguyễn Du đã để cho Kiều Tự thương, tự
nhận ra nỗi ô nhục trong chốn lầu xanh.
Chúng ta ai cũng biết, khi xảy ra cơn gia biến, Kiều đã quyết định “bán mình
chuộc cha”

“Quyết tình nàng mới hạ tình,
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha”
Mình tức là thân mình, là thể xác, hiện hữu vật chất của cá thể trên cuộc đời
này. Bán mình tức là khơng cịn chủ sở hữu thân thể của mình nữa mà trao quyền
sở hữu cho người mua mình. Đó là một thực tế nghiệt ngã trong xã hội cũ. Hy sinh
tình u để giữ trịn chữ hiếu là một phẩm chất cao đẹp của Thúy Kiều, cũng là một
mơ hình ứng xử có tính chất “mơ típ” mang màu sắc Nho giáo. Nguyễn Du là một
nhà Nho, nên ơng chịu sự chi phối của văn hóa Trung đại phương Đông. Tuy nhiên,
một điểm khác biệt giữa nàng Kiều của Nguyễn Du và nàng Kiều của Thanh Tâm
tài nhân mà nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã phát hiện phân tích: Nếu Kiều của
Thanh Tâm tài nhân có ý thức trở thành liệt nữ khơng thua kém các tấm gương kim
cổ hy sinh thân mình vì cha mẹ thì Kiều của Nguyễn Du lại hành động xuất phát từ
tình cảm cha con, một tình cảm nhân bản hơn là một ứng xử theo mẫu hình thánh
nhân.
1

Trần Đình Sử, 1997. Thi pháp Truyện Kiều tr112.

7

skkn


Rơi vào lầu xanh, Kiều càng bộc lộ tấm lòng tự thương của mình. Như ta đã
biết, một số nhà Nho như Nguyễn Công Trứ, Tản Đà đã kết tội Kiều là “Tà dâm”
(Đáng đời cho cái kiếp tà dâm), trách nàng khơng chọn cái chết để bảo tồn danh
tiết. Kiều đã sống suốt 15 năm ô nhục chốn thanh lâu mà không tự tử, không chết
như những liệt nữ. Đứng trên quan điểm của Nho gia về trinh tiết như vậy là không
thể chấp nhận được. Nhưng đây lại là cái mới đi trước thời đại của đại thi hào dân
tộc - Nguyễn Du. Con người nhất phiến thường là hình mẫu lí tưởng của văn học

Trung đại khơng hề tồn tại trong nàng Kiều, mặc dù nàng là nhân vật chính diện
của nhà thơ. Nguyễn Du trong đoạn trích đã nhìn nàng Kiều, ca ngợi nàng Kiều
bằng cái nhìn đa chiều. Một mặt, ơng tỏ lịng thương cảm sâu sắc cho tấm thân
trong trắng của nàng bị ô uế, tủi nhục, mặt khác ông ca ngợi nhân phẩm của nàng
“gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi bùn”. Nói như Kim Trọng “Bụi nào cho đục
được mình ấy vay”.
Bên cạnh nỗi thương thân, xót thân đoạn trích cịn thể hiện cái tâm trong
sáng của Thúy Kiều. Chúng ta phải đặt cái Tâm trong văn hóa cổ trung đại với cái
Tâm của Thúy Kiều mới làm cho học sinh hiểu rõ hơn giá trị của tác phẩm, vẻ đẹp
tồn bích của Thúy Kiều.
Trong hoàn cảnh tủi nhục nhất, thân xác bị đọa đày, Thúy Kiều vẫn luôn
hướng về người thân, về cha mẹ, về người yêu. Cho nên Tâm trong Truyện Kiều là
Tấm Lòng. Nguyễn Du đã mượn lời nhân vật Từ Hải để gửi gắm điều đó “Tấm
lịng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”. Giáo sư Trần Đình Sử đã nhận xét: Nhân vật
Truyện Kiều sống bằng thế giới tấm lịng. Chữ Lịng có nghĩa tương đương với chữ
Tâm, được tác giả Trung đại dùng để dịch chữ Tâm. Cái mới của Nguyễn Du chính
là chuyển cảm hứng từ quan niệm con người tỏ lòng sang thế giới tấm lịng. Nói thế
giới vì nó bao qt và bao gồm cả những “lịng riêng” và “tấm riêng” khơng tỏ ra
được mà đoạn trích Nỗi thương mình là một minh chứng cụ thể. Đêm khuy thanh
vắng “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” Kiều mới tỏ được lịng mình “Giật mình, mình
lại, thương mình xót xa”. Lần đầu tiên trong văn học Trung đại Việt Nam ta hiểu
tấm lòng là một hiện tượng tâm lí chứ khơng đơn thuần là một hiện tượng nghĩa lí.
Từ góc độ văn hóa học đây là một sự chuyển biến từ mơ hình con người lí tưởng
Thánh nhân sang con người phàm trần. Mà sự Tỏ lịng của nhân vật Thúy Kiều là
một ví dụ cụ thể. Với Thúy Kiều lịng là tình, là xúc cảm là những phản ứng cảm
xúc trước mọi tác động khác nhau của đời sống tình cảm. Những biểu hiện tâm lí
của Thúy Kiều đều là những dạng thức tự nhiên trước những tình huống cụ thể của
cuộc sống. Giữa cuộc sống xô bồ chốn lầu xanh. Giữa thế giới của đồng tiền, của
trụy lạc, con người Thúy Kiều mới bộc lộ rõ nhân cách của mình. Người ta thương
Kiều, quý Kiều, trân trọng Thúy Kiều cũng nhờ Nguyễn Du đã miêu tả chân thực

tấm lòng của Kiều khi ở chốn lầu xanh mà đoạn trích là đỉnh điểm sự thể hiện nhân
cách cao đẹp của Thúy Kiều.
8

skkn


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào công tác giảng dạy tại đơn vị,
bản thân và đồng nghiệp nhận thấy HS có hứng thú hơn với mơn học, hiểu sâu sắc
hơn những giá trị văn hoá của dân tộc, nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học nói
chung và kiệt tác Truyện Kiều nói riêng.
* Qua khảo sát đầu năm về hứng thú của học sinh đối với bộ mơn Ngữ Văn, hiểu
thế nào về văn hố, mối quan hệ giữa văn hoá và văn học? Kết quả như sau:

Kiểm tra, theo dõi.

Số lượng

- Tổng số được điều tra.

Tỷ lệ

Ghi chú

40 em.

- Số HS có hứng thú, hiểu :


20 em

50%

- Số HS khơng có hứng thú

13 em

32,5%

7 em

17,5%

- Số HS khơng có ý kiến

* Đến giữa học kỳ II, tơi cũng tiến hành điều tra thì ý thức học tập của các em có sự
chuyển biến , kết quả như sau:

Kiểm tra, theo dõi.

Số lượng

Tỷ lệ

- Tổng số được điều tra.

40 em.

- Số Hs có hứng thú, hiểu:


30 em

75%

- Số HS không hứng thú

7 em

17,5%

- Số HS khơng có ý kiến

3 em

7,5%

Ghi chú

Với thái độ học tập như trên, chắc chắn rằng kết quả chất lượng bộ mơn chưa
cao. Song với sự nỗ lực động viên khích lệ và nhất là chú trọng đến việc tạo hứng
thú cho các em, nên chất lượng bộ môn phần nào được cải thiện hơn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận: Ngạn ngữ Italia có câu: “Mọi con đường đều đến thành Rơm”. Hiểu
theo nghĩa văn chương có nghĩa là: tiếp nhận văn học có nhiều phương pháp khác
nhau, cái đích cuối cùng vẫn là đạt được mục đích như mong muốn. Phương pháp
tiếp cận Truyện Kiều và các đoạn trích trong Truyện Kiều ở chương trình THPT
9

skkn



nói chung và tại Trung tâm GDNN- GDTX Như Thanh nói riêng từ góc độ văn hóa
học là một trong những phương pháp để hiểu Truyện Kiều, giúp học sinh được tiếp
nhận tác phẩm một cách sâu sắc nhất. Làm cho các em hiểu Kiều, yêu Kiều, trân
trọng những di sản văn hóa mà cha ơng để lại, giữ gìn cho muôn đời sau.
- Kiến nghị:
+ Các đôn vị chuyên môn cần tăng cường mưở các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ cho GV đểphục vụ cho công tác giảng dạy ngày càng hiệu quả hơn.
+ Trung tâm, tổ chun mơn cần động viên, khuyến khích giáo viên tích cực trau dồi kiến
thức, có nhiều sáng tạo , tìm tịi phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng HS, phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức và hình thành kĩ năng
trong quá trình học tập.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Như Thanh, ngày 15 tháng 5 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Thuỷ

10

skkn


Tài liệu tham khảo
1.
2.

3.
4.
5.

Đào Duy Anh. Từ điển Truyện Kiều. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội, 1974.
Đặng Thanh Lê. Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Giáo dục 1973
Phan Ngọc. Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều, 1985.
Phan Ngọc. Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, 1994
Đào Thái Tôn. Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận. Nxb Hội
nhà văn, 2001.
6. Nhiều tác giả. Truyện Kiều - Tác phẩm và dư luận. Nxb Văn học, 2002.
7. Nguyễn Quảng Tuân. Chữ nghĩa Truyện Kiều. Nxb Văn học, 2004.
8. Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb TP Hồ Chí Minh,
1997
9. Trần Nho Thìn. Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa. Nxb
giáo dục 2007
10.Trần Ngọc Vương. Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam. Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội 1999

11

skkn



×