Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Skkn một số kinh nghiệm giúp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.15 KB, 18 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến giáo dục toàn diện,
với sự cân bằng cả về giáo dục đức lẫn tài và mối quan hệ giữa hai mặt đó trong
sự hồn thiện nhân cách của con người mới – con người xã hội chủ nghĩa.
Người từng dạy: "Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt:
đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và
sản xuất". Đồng thời Người cịn chỉ rõ: “Việc giáo dục gồm có: đức, trí, thể,
mỹ”. Nền giáo dục tồn diện ngày nay chúng ta hướng tới khơng nằm ngồi lời
dạy của Người, thể hiện qua sự vận dụng sáng tạo kết hợp với chắt lọc sự tiên
tiến của các nền giáo dục trong khu vực và trên thế giới.
Tư tưởng giáo dục tồn diện của Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho chúng ta thấy
được mơ hình chung của con người phải đào tạo trên những định hướng chính
về các mặt phẩm chất và tài năng cùng mối liên hệ giữa các mặt đó với nhau để
cùng hồn thiện nhân cách. Đó là cơ sở tư tưởng và lý luận để chúng ta vạch ra
chiến lược con người cho thế kỷ XXI, trước mắt là đến năm 2020, trong đó
Đảng và Nhà nước ta đã xác định nòng cốt thực hiện là ngành Giáo dục và Đào
tạo. Tư tưởng về giáo dục của Bác đã được Đảng ta thể hiện và cụ thể hóa rõ
trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị
quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế.
Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp làm công tác giáo dục đạo đức, hình
thành và hồn thiện nhân cách cho học sinh. Do đó để đạt được mục tiêu của
giáo dục tồn diện thì người GVCN đóng một vai trị rất quan trọng, khơng
những cần một người GVCN có những kinh nghiệm, phương pháp giáo dục tốt,
có trình độ chun mơn giỏi… mà cịn cần một người GVCN có nhân cách đạo
đức tốt vì đây là yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự hình thành, phát triển và hồn
thiện nhân cách của các học sinh.
Chính vì vậy, tơi chọn đề tài “ Một số kinh nghiệm giúp làm tốt công tác chủ
nhiệm lớp ở trường trung học phổ thông ” đẻ nghiên cứu và trao đổi với đồng


nghiệp.
1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về vai trò của GVCN trong công
tác giáo dục học sinh nhằm để đưa ra được kế hoạch cụ thể với các giải pháp sát
thực tế với điều kiện hoàn cảnh của lớp,của trường làm cho chất lượng giáo dục
toàn diện học sinh ở trường phổ thông được năng lên.
1

skkn


- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cưú về vai trò của GVCN ở trường phổ thông qua các văn bản luật,
văn bản giáo dục, các tư liệu và các sách vở...Học hỏi và tham khảo ý kiến của
các đồng chí GVCN có uy tín trong trường;
+ Trên cơ sở đó vạch ra được kế hoạch cụ thể, với các giải pháp và biệp pháp
cụ thể cho lớp mình phụ trách;
+ Thực hiện kế hoạch đã vạch ra đối với lớp mình đang phụ trách chủ nhiệm và
từ đó rút ra những việc đã đạt được, những việc còn tồn tại để điều chỉnh và bổ
sung cho kế hoach hoàn thiện dần.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác chủ nhiệm ở các khối lớp trong trường
THPT, cụ thể là trường THPT Hậu lộc 4.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu công tác chủ nhiệm trên các lớp: 10A 1 (2020
-2021) và 11A1 (2021-2022)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
+ Các tài liệu về đổi mới giáo dục
+ Giáo trình, sách của nhà lí luận viết về cơng tác chủ nhiệm;

+ Tài liệu, Tạp chí...
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Quan sát, đàm thoại, trao đổi, khảo sát...;
+ Điều tra từ thực tiễn và thu thập thông tin;
+ Tổng kết kinh nghiệm, đúc rút bài học giáo dục.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ như: Thống kê, tổng hợp, xử lý số
liệu…
1.5. Những điểm mới của SKKN
Trong phạm vi sáng kiến này tơi trình bày một số kinh nghiệm của bản thân
đúc rút được trong q trình làm cơng tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT. Ở
SKKN này tôi nêu một số điểm mới như: Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng
sang kiến, cụ thể là tình hình nhà trường, hồn cảnh gia đình học sinh và các đặc
điểmcủa học sinh 5 xã vùng biển; Từ đó xây dựng đầy đủ và làm sâu sắc hơn ở
giải pháp và biện pháp thực hiện, đặc biệt là công tác phối hợp giữa Thầ Cô giáp
chủ nhiệm, gia định học sinh, xây dựng đội ngũ cán bộ lớp nhiệt tình, năng động
và sáng tạo trong điều hành công việc để cùng với GVCN lãnh đạo tập thể thật
tốt, đồng thời tạo cơ hội cho học sinh tự tin trước tập thể, trước Thầy Cơ giáo,
khơng cịn tâm lí ngại tiếp xúc, gần gũi với giáo viên.Giáo viên chủ nhiệm lớp
tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong
học tập cũng như trong hoạt động của lớp, của trường.
2

skkn


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện theo tinh thần của Nghị quyết số 29NQ/TW của Đảng ta, trong những năm gần đây cùng với vịêc đổi mới chương
trình giảng dạy các mơn học, triển khai và vận dụng nhiều phương pháp mới vào
giảng dạy...thì việc giáo dục học sinh cũng đang được chú trọng và quan tâm

nhiều hơn.
Vai trò của GVCN trong công tác giáo dục học sinh, đặc biệt là đối với học
sinh lứa tuổi THPT lại càng quan trong. Vì đây là lứa tuổi vủa phải thay đổi môi
trường giáo dục (từ THCS lên THPT), lứa tuổi mà ở đó đặc điểm sinh lí đang
phát triển, trí tuệ biến đổi cả về chất và lượng, nhân cách đạo đức đang tiếp tục
phát triển và hồn thiện.
Các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của con người nói chung, học sinh
nói riêng được hình thành và phát triển trong các mơi trường: gia đình, nhà
trường và xã hội. Trong đó thì nhà trường được xem là trọng tâm, chủ động,
định hướng trong việc giáo dục. Nhà trường chính là mơi trường giáo dục toàn
diện nhất là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục một cách hệ thống
nhất, là nơi hội tụ đủ những yếu tố về giáo dục tồn diện, đặc biệt là nơi có
những người Cha, người Mẹ thứ hai của các em học sinh - đó là người Thầy
người Cơ làm cơng tác chủ nhiệm lớp.
Trước hết, chúng ta cần hiểu và nắm rõ vai trò và nhiệm vụ của người giáo
viên chủ nhiệm (GVCN) lớp: GVCN phải là giáo viên dạy bộ môn ở lớp;
GVCN phải cùng với giáo viên bộ môn và các lực lượng giáo dục khác chịu
trách nhiệm chính trong việc hình thành nhân cách cho học sinh; GVCN phải là
người biết tổ chức, quản lý, điều phối các hoạt động trong lớp; GVCN phải cố
vấn cho tập thể học sinh và Ban chấp hành Đoàn trong lớp; GVCN phải dạy và
tổ chức các hoạt động trong học tập và ngoài giờ của học sinh; Phải nắm vững
kế hoạch giảng dạy, giáo dục lao động hướng nghiệp của nhà trường và xã hội
qua các giờ hoạt động ngoài giờ lên lớp; Làm trung tâm, hạt nhân trong việc xây
dựng quan hệ thầy trò; Cố vấn cho học sinh xây dựng lớp học thành một đơn vị
tập thể mang tính chất giáo dục toàn diện, phát huy khả năng tự giác tự quản của
học sinh; Hiểu rõ từng đối tượng học sinh trong lớp và có phương pháp giáo dục
thích hợp, nhất là với những em đặc biệt hoặc có hồn cảnh đặc biệt; Chủ đạo
trong việc phối kết hợp các lực lượng giáo dục; Nhận định, đánh giá chính xác
học sinh; Chịu sự chỉ đạo thống nhất về công tác chủ nhiệm của nhà trường.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

Tuy nhiên, trong thực tế vẫn cịn ở một số trường TH nói chung và trường
THPT nói riêng thì vai trị của người GVCN chưa được nhà trường quan tâm,
3

skkn


chăm lo một cách tương xứng, chưa thật chú tâm nhiều đến việc lựa chọn, bồi
dưỡng...chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ GVCN. Nhưng nguy hiểm hơn là
vẫn cịn có nhiều GVCN chưa nắm rõ vai trò, chức năng, quyền hạn...của mình
nên dẫn đến có nhiều quan niệm sai lầm trong nhận thức về vai trò của GVCN
chưa đúng với các văn bản luật cũng như các văn bản quản lí giáo dục quy định
và thậm chí có cả có những phương pháp giáo dục lỗi thời chưa theo kịp với
mục tiêu của giáo dục toàn diện hiện nay...Dẫn đến vẫn cịn tồn tại chuyện các
giáo viên chủ nhiệm nóng nảy mất bình tĩnh, thậm chí có những lời nói xúc
phạm học sinh, những hành động sai lầm lớn như: chửi học sinh, đánh học sinh,
đuổi các em ra khỏi giờ học, vứt và xé sách vở của các em... Rồi vẫn tồn tại
những cách giáo dục quá sai lầm như: bắt học sinh viết nhiều lần một bản kiểm
điểm, bắt học sinh quỳ trước lớp, bắt học sinh hít đất nhiều lần ngoài sân thể
dục... khi học sinh vi phạm. Điều đó đã làm học sinh bị xúc phạm quá, làm xuất
hiện tình trạng học sinh chán học rồi bỏ học, có em bi quan dẫn đến làm những
điều dại dột, tồi tệ hơn là có những GVCN bị học sinh chặn đường đánh, bị gia
đình học sinh đánh hoặc nhờ người khác vào trường gây gỗ và đánh giáo viên...
Ngược lại, có những Thầy Cơ giáo chủ nhiệm quá dễ dãi với học sinh, buông
lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm với học sinh, với tập thể lớp để cho một số học
sinh hư hỏng và kéo theo nhiều học sinh khác theo đà...Bên cạnh đó cũng cịn có
một số khơng nhỏ GVCN cịn thiếu kinh nghiệm và phương pháp chủ nhiệm,
đặc biệt là phương pháp giáo dục học sinh dẫn đến việc vận dụng thiếu linh
hoạt, cứng nhắc hoặc không phù hợp cho từng đối tượng học sinh nên cũng làm
cho việc giáo dục không đem lại hiệu quả, thậm chí làm cho tình hình nền nếp

và đạo đực học sinh của lớp ngày càng xấu đi.
Bản thân tôi đã làm công tác chủ nhiệm nhiều năm và hiện tại đang đang trực
tiếp giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm tại trường THPT Hậu lộc 4, ngôi
trường đóng trên địa bàn 5 xã vùng ven biển của Huyện Hậu lộc, Tỉnh Thanh
hóa. Gia đình học sinh 5 xã vùng biển có điều kiện kinh tế rất khó khăn, chủ yếu
sống dựa vào đánh bắt các nguồn thủy sản từ biển, trong đó cịn xã Ngư lộc là xã
đảo có điều kiện sống của người dân rất khó khăn. Đặc biệt trong hai năm nay
đời sống người dân càng khó khăn trước diễn biến phức tạp của dịch Covid 19,
tình hình giá dầu tăng cao do ảnh hưởng của cuộc xung đột vũ trang (NgaUkraine) làm cho nghề đánh bắt trên biển lại càng khó khăn. Trước những khó
khăn đó, Bố Mẹ phải lo kiếm tiền ni sống gia đình nên ít có thời gian quan
tâm đến con cái, lại có nhiều Bố Mẹ phải bỏ quê ra Tỉnh ngoài, ra nước ngoài để
làm ăn, các em học sinh ở nhà một mình hoặc với ơng bà. Bên cạnh đó một số
đơng học sinh ở đây lối sống rất tự do về lời ăn tiếng nói, về trang phục, về đạo
đức lối sống, ý thức chấp hành kỷ luật đều chưa tốt, có nhiều em có cuộc sống
4

skkn


tự do, bng thả khơng coi ai ra gì...Với những đặc điểm đó đã làm ảnh hưởng
rất lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, dẫn đến có
nhiều học sinh hư cá biệt, nề nếp của lớp rất yếu.
Chính vì vậy, tơi chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm mục đích trao đổi với
đồng nghiệp một số kinh nghiệm giúp làm tốt công tác chủ nhiệm và học hỏi
thêm một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm với các đồng nghiệp, giúp
bản thân mình được hồn thiện hơn trong cơng tác chủ nhiệm, đặc biệt là giáo
dục học sinh.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm và các giải pháp đã sử dụng:
2.3.1. Những yêu cầu sư phạm cần có ở người GVCN để thành công trong
công tác chủ nhiệm lớp: Theo tôi người GVCN cần có ít nhất 4 u cầu sư

phạm sau:
- Người GVCN lớp phải là người có lí tưởng nghề nghiệp đúng đắn.
Điều này, giúp người GVCN có niềm tin hơn vào nghề nghiệp và đó chính là
động lực giúp họ dám nghĩ, giám làm một cách chủ động sáng tạo trong quá
trình tổ chức và giáo dục học sinh.Đặc biệt là chúng ta cần có niềm tin nhất định
vào học sinh của mình, điều đó sẽ tạo cho chúng ta một sức mạnh cảm hoá học
sinh, đặc biệt là đối với những học sinh cá biệt.
- Người GVCN cần có chun mơn vững vàng, có “ tay nghề “ cao.
Có thể nói đây là một những yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại
của công tác chủ nhiệm. Vì có kiến thức chun mơn vững vàng để giảng dạy
tốt thì học sinh mới phục và nghe theo sự giáo dục của chúng ta. Đồng thời trình
độ chuyên mơn càng vững vàng bao nhiêu thì càng làm cho chúng ta tự tin hơn
để chủ động và sáng suốt tìm tịi được các biện pháp giáo dục học sinh có hiệu
quả nhất. Hơn nữa xã hội ngày càng phát triển, học sinh ngày càng thơng minh
hơn nên địi hỏi nhiều hơn ở người Thầy, người Cơ của mình.
Chính vì thế, người GVCN cần tự học tập, nghiên cứu để nắm vững hệ thống
tri thức khoa học liên quan đến mơn học mình dạy, các tri thức về chính trị xã
hội....Và địi hỏi ở người GVCN cần có được các kỹ năng nền tảng và chun
biệt khơng, đó là: Kỹ năng thiết kế, kỹ năng tổ chức, kỹ năng giao tiếp ứng xử,
kỹ năng hoạt động xã hội...Điều này đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm phải
không ngừng trau dồi, kiểm nghiệm chúng trong thực tiễn giáo dục để từ đó rút
kinh nghiệm, điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh cụ thể.
- Người GVCN cần có sự khéo léo trong ứng xử sư phạm, phải có uy tín đối với
học sinh và với cha mẹ học sinh.
Sự khéo léo trong ứng xử sư phạm đòi hỏi người GVCN cần hiểu rõ tâm lý
học lứa tuổi học sinh, đặc biệt nắm chắc tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT
hiện nay, hiểu được những điều đang diễn ra trong tâm hồn các em lúc này, phải
5

skkn



hiểu rằng học sinh ở lứa tuổi này thích hoạt động. Điều này có được khơng chỉ
nhờ việc học tập trên sách vở mà cần xuất phát từ lòng yêu nghề mến trẻ, yêu
thương và tôn trọng học sinh thực sự, từ đó giáo viên mới gần gũi học sinh để
tìm hiểu, để hồ đồng và chia sẻ với các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân
thiện, sự cởi mở trong giao tiếp. Song để thực hiện tốt cơng việc này cần địi hỏi
ở người GVCN những đức tính quý báu như sự kiềm chế, chur động và kiên
nhẫn trong mọi tình huống. Giống như A.X Macarenco đã nói “ uy tín của người
giáo viên khơng phải nhờ các thủ thuật giả tạo nào đó, mà nó là toàn bộ cuộc
sống của người Thầy, là hành vi hàng ngày của họ ”
- Người GVCN nói riêng và mọi người giáo viên nói chung cần phải thực sự
gương mẫu, thực sự là tấm gương cho học sinh noi theo: Yêu cầu này thật sự
phù hợp với câu nói “ Nghề dạy học là nghề lấy nhân cách để giáo dục nhân
cách ”. Do đó địi hỏi người GVCN phải thể hiện mình như một nhân cách tồn
diện và thể hiện từ trong nhận thức đến hành động thực tiễn, từ lời nói, cử chỉ,
điệu bộ, trang phục đến thái độ ứng xử hàng ngày.
Người GVCN thật sự gương mẫu, có uy tín và được học sinh kính trọng là một
tấm gương để các em học tập noi theo và đó là chỗ dựa vững chắc để các em có
thể tâm sự, trình bày ngyện vọng cũng như bày tỏ những điều riêng tư của bản
thân.
Đối với một người GVCN trong một trường bán công như chúng tôi lài càng
rất cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ học sinh của chúng tôi là những đối tượng rất
yếu về cả kiến thức các môn học, cả về ý thức đạo đức, chỉ thích ăn chơi, đua
địi, có nhiều em học sinh rất ngang bướng thậm chí rất láo và mất dạy. Dó đó
khi vào cơng tác chủ nhiệm với các đối tượng học sinh như thế này tôi thấy
những yêu cầu sư phạm ở trên là rất cần thiết với người GVCN và phải được
GVCN vận dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt. Đặc biệt là những yêu cầu sư
phạm: Người GVCN cần có những đức tính như kiềm chế, nhẹ nhàng và sự kiên
trì bền bỉ trong giáo dục, tránh sự nơn nóng trong giáo dục và nóng tính mất

bình tĩnh trong giao tiếp với học sinh; Người GVCN thật sự gương mẫu trên tất
cả mọi mặt để học sinh học tập noi theo, theo tôi chúng ta không nên nói nhiều,
khơng nên giải thích giảng giải cho học sinh nhiều mà chúng ta nên thể hiện
trước học sinh bằng hành động cụ thể.
2.3.2. Những nội dung và phương pháp cơng tác chủ nhiệm
a. Phải biết tìm hiểu, phân loại và vạch kế hoạch giáo dục với từng loại đối
tượng học sinh
- Trước hết: Người GVCN cần xác định được nội dung cần tìm hiểu

6

skkn


+ Hoàn cảnh sống của học sinh: lý lịch học sinh, điều kiện kinh tế gia đình,
đặc điểm và quan niệm giáo dục của gia đình, tình hình trật tự trị an ở địa
phương...
+ Đặc điểm phát triển về thể chất và sinh lý lứa tuổi như: Sức khoẻ (Chiều
cao, cân nặng, có bệnh gì khơng...); đặc điểm giới tính (những biểu hiện bên
ngoài, thái độ, cử chỉ, những sở thích...).
+ Đặc điểm tâm lý, khí chất: khả năng tư duy, nhận thức, trí thơng minh, sự
nhạy bén trong cơng việc, ngơn ngữ, tình cảm...thuộc đối tượng nhanh nhẹn hoạt
bát hay trầm tĩnh...
+ Những phẩm chất đạo đức chủ yếu: trung thực hay gian dối, cần cù chăm chỉ
hay lười biếng...
+ Những phẩm chất khác như: Tinh thần trách nhiệm, ý thức xây dựng tập thể,
ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức và thái độ lao động...
+ Thiên hướng hoặc năng khiếu: thể thao, múa hát, văn thơ, ngoại ngữ...
- Phải dùng tốt các phương tiện giúp ta tìm hiểu.
+ Các loại sổ sách, hồ sơ liên quan đến học sinh như: hồ sơ lý lịch, học bạ, sổ

liên lạc, sổ điểm, sổ đầu bài, sổ công tác chủ nhiệm...
+ Các sản phẩm do các em tự làm như: các bài làm, các bài sáng tác của các
em trên báo tường, tập san lớp...
+ Kết quả của các bài tìm hiểu thăm dị do giáo viên đưa ra bằng hệ thống câu
hỏi.
- Phải có và sử dụng tốt các phương pháp tiến hành
+ Phương pháp nghiên cứu hồ sơ học sinh: Cần phân loại hồ sơ và xác định
được mục đích cần tìm hiểu.
+ Phương pháp đàm thoại: Sử dụng cách trị chuyện trực tiếp với học sinh, có
thể thông qua GVCN cũ, với cha mẹ học sinh, với bạn bè, với ban cán sự lớp...
+ Phương pháp quan sát: Phải sử dụng thường xuyên đối với những học sinh
cần tìm hiểu. Quan sát các em thơng qua việc học tập, lao động, các hành vi thể
hiện ra ngoài như hành động, lời nói, cử chỉ và các hoạt động vui chơi...
b. Phải biết tổ chức, xây dựng tập thể
- Nội dung và phương tiện:
+ Phải xây dựng được sơ đồ tập thể lớp
+ Phải xây dựng được sơ đồ chỗ ngồi của tập thể lớp (cho từng học sinh cụ
thể)
+ Phải xây dựng được quy định về chức năng, nhiệm vụ cho từng cán bộ lớp.
+ Các loại sổ sách ghi chép của cán bộ lớp, cán bộ tổ.
+ Phải xây dựng đuợc kế hoạch năm học của lớp.
+ Những số liệu cần thiết qua kết quả tìm hiểu học sinh.
7

skkn


- Các phương pháp tiến hành: Để xây dựng và phát triển được một tập thể lớp
tự quản, có chất lượng về mọi mặt thì người GVCN có thể sử dụng một số
phương pháp sau đây:

Phương pháp thuyết phục, giảng giải; Phương pháp giao nhiệm vụ cụ thể.
Phương pháp thuyết phục, giảng giải. Phương pháp bồi dưỡng huấn luyện
Phương pháp tạo tình huống giáo dục.
Ngồi ra, Chúng ta cịn có thể vận dụng thêm: phương pháp đàm thoại, tranh
luận, phương pháp nêu gương, phương pháp thi đua khen thưởng
Tuy nhiên người GVCN cần phải biết vận dụng các phương pháp một cách đơn
lẻ hoặc phối hợp nhiều phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh của tập thể
lớp mình phụ trách sau khi đã tìm hiểu được.
c. Tổ chức hoạt động giáo dục: Các hoạt động giáo dục thường có nhiều nội
dung phong phú, hình thức đa dạng nhưng chúng ta thường tổ chức dưới hai
hình thức sau đây:
- Hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục thơng qua tiết sinh hoạt tập thể hàng
tuần
Tiết sinh hoạt tập thể hàng tuần: Là tiết sinh hoạt mồi tuần một lần do học sinh
tự tổ chức dưới sự giúp đỡ và cố vấn của GVCN, với các hoạt động giáo dục
như:
+ Hoạt động sơ kết, tổng kết và đánh giá thi đua hàng tuần, hàng tháng. Trên
cơ sở đó để bình xét những cá nhân và tập thể (tổ) có thành tích xuất sắc trong
tuần, trong tháng; đồng thời cũng tổng hợp được danh sách những học sinh vi
phạm.
+ Tổ chức sinh hoạt theo chủ đề nhằm hưởng ứng các hoạt động theo chủ
điểm tuần, tháng của trường hoặc theo nhu cầu của lớp. Sinh hoạt theo chủ đề do
chi đoàn, Đoàn trường, ban nữ sinh tổ chức...
+ Tổ chức các loại hình sinh hoạt văn hố, văn nghệ, giao lưu, vui chơi giải
trí...
- Các hoạt động giáo dục ngồi lớp ở trường, ở ngồi trường
+ Có thể là các loại hình giáo dục do nhà trường tổ chức tồn trường như: Lễ
khai giảng, bế giảng, mít tinh kỷ niệm các ngày lễ lớn...
+ Có thể là các hoạt động do GVCN chủ động tổ chức hoặc giúp học sinh tổ
chức như: thăm quan các di tích lịch sử, các khu công nghiệp, làng nghề; đi du

lịch; đi xem phim; tổ chức hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao...
d. Đánh giá, xếp loại học sinh của GVCN
- Trước hết, người GVCN cần nắm được mục đích và tầm quan trọng của việc
đánh giá, xếp loại học sinh: Là nhằm thúc đẩy sự cố gắng vươn lên của học sinh,
kích thích ở các em động cơ phấn đấu đúng đắn, hình thành ở các em niềm tin
8

skkn


vào bản thân, có niềm tin vào tập thể lớp và vào Thầy Cơ giáo chủ nhiệm của
mình
- u cầu của việc đánh giá xếp loại: Trên cơ sở mục đích và tầm quan trọng
như trên thì việc đánh giá, xếp loại cần đảm bảo một số yêu cầu sau đây:
+ Phải đảm bảo tính khách quan, cơng bằng và trung thực.
+ Phải có tính hệ thống và tồn diện, tức là phải xem xét hiện tượng, sự việc
trong tính tổng thể, khơng thiên lệch vì một lí do nào cả.
+ Phải căn cứ vào năng lực, sự phấn đấu và hồn cảnh cự thể của từng em học
sinh khơng có bất kỳ định kiến hay mâu thuẫn cá nhân nào xen vào.
- Nội dung đánh giá: GVCN cần nhìn nhận học sinh trên các mặt: các em biết tự
trọng chưa (biểu hiện ở ăn mặc, nói năng, tác phong cư xử...); biết tơn trọng
người khác chưa; có chấp hành tốt các nội quy của nhà trường, của lớp và của
đồn trường; có chun cần
trong học tập khơng; có tích cực hồ mình vào các hoạt động, các cơng việc
chung của tập thể lớp không ?
Cụ thể: Đánh giá học sinh đối với công việc; Đánh giá học sinh đối với mọi
người; Đánh giá học sinh đối với gia đình; Đánh giá học sinh đối với tập thể, với
nhà trường, với cộng đồng và xã hội.
- GVCN cần thực hiện tốt quy trình đánh giá
+ Học sinh tự đánh giá theo các tiêu chuẩn và thang đánh giá mà nhà trường

và lớp đã quy dịnh trong năm học.
+ Tập thể lớp đánh giá
Đầu tiên là tập thể tổ xem xét tự đánh giá của từng thành viên trong tổ, thảo
luận góp ý và đi đến kết luận, phân loại kết quả của tổ mình.
Sau đó, hội nghị lớp sẽ tiến hành xem xét kết quả đánh giá và phân loại của
từng tổ. Có thể thảo luận, cân nhắc trước lớp những trường hợp đặc biệt rồi đi
đến quyết định cuối cùng và tiến hành báo cáo với GVCN.
GVCN nghiên cứu kết quả đánh giá của học sinh, còn những trường hợp nào
băn khoăn thì có thể tham khảo ý kiến của giáo viên bộ mơn... hoặc nếu cần
thiết có thể triệu tập cuộc họp với đội ngũ cán bộ chi đoàn, cán bộ lớp để thảo
luận
2.3.3. GVCN phải biết phối hợp và phối hợp tốt với các lực lượng giáo dục
trong nhà trường và ngồi nhà trường.
Với vai trị và nhiệm vụ của mình, GVCN cần có kế hoạch lựa chọn hình thức
và nội dung phối hợp hoạt động với các lực luợng giáo dục trong và ngoài nhà
trường một cách hợp lý, khoa học và có hiệu quả với tình hình cụ thể của lớp.
Kế hoạch phối hợp hoạt động của GVCN nên tập trung vào các lực lượng giáo
dục có tính nịng cốt, chủ đạo như:
9

skkn


a. Phối hợp với Ban giám hiệu (BGH) và hội đồng giáo dục (HĐGD ) nhà
trường
- Nhận kế hoạch và triển khai hoạt động, đồng thời phản ảnh với BGH những
thuận lợi, khó khăn hoặc những vấn đề trong kế hoạch chưa thật phù hợp với
tình hình, đặc điểm của lớp mình giúp BGH kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
- GVCN thường xuyên báo cáo với BGH về kết quả giáo dục từng tuần, từng
tháng để giúp BGH thu thập được thông tin của từng lớp một cách kịp thời,

chính xác.
- GVCN đề đạt với BGH về những nhu cầu, nguyện vọng của học sinh, của phụ
huynh về các lĩnh vực dạy học, giáo dục và các quyền lợi chính đáng khác.
b. Phối hợp với tổ chức Đồn Thanh Niên
- Với chi đồn lớp mình phụ trách: GVCN là cố vấn chi đoàn, thể hiện:
GVCN cần phải dự các buổi sinh hoạt, các cuộc họp của chi đoàn để góp ý
cho các em về nội dụng và phương pháp tổ chức. GVCN cần có sự tham mưu và
định hướng trong việc lựa chọn đội ngũ BCH chi đoàn và ban cán sự lớp. Khi tổ
chức các hoạt động giáo dục cho lớp cần lấy chi đồn làm nịng cốt. Cần có ý
kiến định hướng với chi đồn trong việc phát triển đoàn viên mới.
- Với Đoàn trường: GVCN cần nắm vững chủ trương, kế hoạch và nội dung
công tác đoàn của đoàn trường trong tháng, kỳ và từng năm học để phối hợp và
theo dõi hoạt động của chi đồn mình.
c. Phối hợp với các giáo viên bộ mơn (GVBM) trong lớp
Sự phối hợp công tác giữa GVCN và giáo viên bộ môn một cách đều, liên tục
và đồng bộ sẽ vừa nâng cao được chất lượng học tập, vừa nâng cao được chất
lượng giáo dục của lớp mình phụ trách. Theo tôi, chúng ta cần phối hợp tốt với
GV bộ môn một số vấn đề sau đây:
- Phối hợp để nâng cao chất lượng học tập
+ GVCN thường xun trao đổi, thơng báo cho các GVBM biết tình hình học
tập của lớp, một số đặc điểm đặc biệt của học sinh, những nhu cầu nguyện vọng
và các yêu cầu của các em về môn học của Thầy Cô giúp các GVBM kịp thời
điều chỉnh, bổ sung về nội dung, phương pháp cho phù hợp.
+ GVCN phản ánh với các GVBM về các học sinh yếu kém, cũng như các học
sinh khá giỏi để các thầy cơ có phương pháp giảng dạy, kèm cặp và kiểm tra phù
hợp cho từng đối tượng trong quá trình giảng dạy.
+ Trong các hoạt động giáo dục có liên quan đến kiến thức (các buổi thi
tìmhiểu, hỏi đáp về kiến thức, các trị chơi trí tuệ, thăm quan bảo tàng di tích
lịch sư...) GVCN có thể mời các GVBM có liên quan đi cùng để các GVBM
giúp các em học sinh trong việc củng cố, bổ sung và mở mang thêm kiến thức

đã học.
10

skkn


- Phối hợp để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức.
+ GVCN luôn nhắc nhở các em về vai trị của các Thầy Cơ giáo bộ mơn, bảo
ban các em ln biết kính trọng các Thầy Cơ, biết chia sẻ những khó khăn trong
học tập với các Thầy Cơ; Đồng thời phải biết quan tâm đến những khó khăn và
hồn cảnh của các Thầy Cơ tạo cho các em có được một sự đồng cảm, một tình
cảm gắn bó với các Thầy Cô giáo.
+ GVCN thường xuyên thông tin một cách hai chiều với GVBM về những học
sinh chậm tiến về đạo đức, những học sinh hay vi phạm trong giờ học và bàn
phương pháp giáo dục.
+ Có thể mời GVBM dự một số tiết sinh hoạt cuối tuần, các buổi sơ kết, tổng
kết để giúp GVBM hiểu thêm về lớp; đồng thời để các GVBM trao đổi góp ý về
phương pháp học tập của môn học.
- Trong quá trình đánh giá xếp loại học sinh, GVCN cần trao đổi thêm về quá
trình học tập và tu dưỡng của học sinh với GVBM để việc đánh giá và xếp loại
thêm chính xác, khách quan và cơng bằng.
d. Phối hợp với gia đình học sinh, với chi hội cha mẹ học sinh của lớp
Gia đình là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. Vấn
đề đặt ra là GVCN phải phối hợp như thế nào với gia đình học sinh để đạt được
hiệu quả cao. Chúng ta cần tập trung vào những vấn đề sau:
- GVCN có kế hoạch định kỳ thơng báo cho gia đình học sinh biết về kết quả
học tập, tu dưỡng, lao động ... của con em họ.
- Thông qua các cuộc họp phụ huynh học sinh để GVCN:
+ Triển khai cho phu huynh nắm được chủ trương, kế hoạch giáo dục của nhà
trường, chỉ tiêu phấn đấu của lớp của từng em học sinh trong học kỳ, trong năm

học.
+ Đánh giá kết quả học tập, đạo đức, sự tiến bộ của lớp, của từng học sinh.
Cho phụ huynh biết những tồn tại và khó khăn trong q trình giáo dục học
sinh.
+ Nêu và thống nhất nội dung, kế hoạch và nhiệm vụ của nhà trường và gia
đình trong việc phối hợp giáo dục ( GVCN làm gì ? Gia đình làm gì ?).
+ Tư vấn, bồi dưỡng cho các bậc phụ huynh một số kiến thức tâm lí lứa tuổi
học sinh, một số phương pháp giáo dục. Đồng thời giúp phụ huynh nhận thức
đầy đủ trách nhiệm giáo dục con cái như: chủ động liên lạc với nhà trường, với
GVCN; Tham gia đầy đủ các cuộc họp phụ huynh; tạo mọi điều kiện tốt nhất
cho con em học tập ...
- GVCN cần quan tâm làm sao chọn được một ban chấp hành chi hội phụ
huynh, các tổ trưởng tổ phụ huynh có năng lực, có tinh thần trách nhiệm và thực
sự những bậc phụ huynh thật sự gương mẫu.
11

skkn


2.3.4. Một số biện pháp tôi đã triển khai và kinh nghiệm rút ra sau một số
năm làm chủ nhiệm vừa qua.
a. Đặc điểm của học sinh các lớp tôi chủ nhiệm: 10A1 và 11A1
Lớp 10A1 năm học 2020-2021 là lớp có điểm đầu vào thấp nhất của chất lượng
học tập và đặc biệt là nền nếp của học sinh rất yếu, có nhiều học sinh thường
xuyên vi phạm, thậm chí là học sinh cá biệt.
+ Lớp 10A1 có: Tổng số học sinh là 43, có 19 học sinh nữ
Có: 100% học sinh xếp học lực loại TB, khơng có học sinh xếp học lực loại
khá
Có một số học sinh cá biệt như: Em Thắng, Em Long, Em Hoàng Quốc Việt...
+ Lớp 11A1 có: 41 em học sinh, có 19 học sinh nữ

Đầu năm Có: 20 em xếp học lực Khá, có 21 em xếp học lực TB
Có: 1 em xếp đạo đức loại yếu, 4 em xếp đạo đức loại trung bình
Có nhiều học sinh cá biệt như: Em Long, Em Hoàng Quốc Việt, Em Khang
Việt, Em Huy...
Đa số học sinh con gia đình thuần nơng và gia đình làm nghề đánh bắt thủ sản
trên biển nên có hồn cảnh kinh tế khó khăn. Có nhiều em có Bố Mẹ phải đi làm
ăn xa quê, phải sống ở nhà một mình hoặc với ơng bà hay chú cơ nên thiếu thốn
tình cảm, thiếu thốn cả sự giáo dục, quản lý...Vì vậy đa số các em học sinh này
có ý thức đạo đức và chất lượng học tập rất yếu, nhiều em cả nam và nữ có cuộc
sống bng thả, tự do.
b. Một số phương pháp tôi dùng vào công tác chủ nhiệm trong những năm
qua.
- Điều tra, phân loại học sinh
Thứ nhất: Tơi tìm hiểu qua GVCN cũ, qua cán bộ lớp cũ, qua kết quả học tập
và đạo đức năm trước của các em hoặc tâm sự trực tiếp với các em.
Thứ hai: Tơi tìm hiểu, phân loại theo phiếu điều tra ( Ở phần phụ lục)
- Sau khi đã phân loại được các đối tượng học sinh, tôi tiến hành các công việc
tiếp:
+ Lựa chọn ban cán sự lớp và ban chấp hành chi đoàn
Ban cán sự lớp, gồm: Lớp trưởng; lớp phó học tập; lớp phó lao động; lớp
phó văn thể; Thư ký lớp; bốn tổ trưởng và bốn tổ phó.
Ban chấp hành chi đồn, gồm: Một bí thư chi đồn, một phó bí thư (lớp
trưởng) và một UVBCH chi đoàn.
+ Họp với ban cán sự lớp và BCH chi đoàn để tiến hành một số công việc sau:
Thông báo cho ban cán sự và BCH chi đồn về tình hình cụ thể của lớp, của
từng bạn học sinh, đặc biệt là các bạn học sinh cần quan tâm về: đạo đức yếu,
học tập yếu, sức khoẻ yếu, hồn cảnh gai đình khó khăn...
12

skkn



Quy định chức năng, nhiệm vụ cho từng chức danh.
Phát sổ công tác cho từng chức danh, hướng dẫn các em cách làm việc, cách
theo dõi cơng việc của mình phụ trách và cách báo cáo kết quả trong từng tuần
với lớp trưởng.
Nghe ý kiến và các đề xuất của các em trong cơng việc.
Xây dựng các tiêu chí xếp loại đạo đức của học sinh từng tháng, từng kì
- Tôi tiến hành lập sơ đồ chỗ ngồi và giao ln bàn ghế cho học sinh theo từng
vị trí. Khi lập sơ đồ chỗ ngồi tôi luôn chú ý một số điểm:
+ Đảm bảo vị trí chỗ ngồi của các em học sinh trong một tổ để tiện cho tổ
trưởng dễ quản lí và theo dõi.
+ Vị trí ngồi phải phù hợp với chiều cao và thị lực của một số em.
+ Các cán bộ lớp phải được bố trí thích hợp để theo dõi được tồn diện.
+ Các em học sinh học yếu, hay vi phạm được sắp xếp gần những em học khá,
có ý thức học tập và nghiêm túc trong giờ học.
- Cách tổ chức và nội dung của một tiết sinh hoạt cuối tuần
+ Lớp trưởng đọc báo cáo tổng hợp về việc thực hiện nhiệm vụ của tất cả các
học sinh trong tuần ( báo cáo này là tổng hợp của các báo cáo do các tổ trưởng
gửi lại)
+ Lớp phó lao động báo cáo về các nội dung: Vệ sinh trực nhật, bảo quản tài
sản, lao động tập thể (nếu có).
+ Bí thư chi đồn báo cáo hoạt động của chi đồn (nếu có).
+ GVCN thông báo những vi phạm của những học sinh do GVCN theo dõi.
+ Ý kiến trình bày trước tập thể của các em học sinh ( Có thể là của các học
sinh chăm ngoan, có thể là của các học sinh vi phạm ).
+ Thư ký lớp đọc biên bản tổng hợp của buổi sinh hoạt lớp.
- Cách đánh giá, xếp loại học sinh của tôi
+ Tôi xếp loại đạo đức của học sinh theo từng tháng, tiến hành vào tiết sinh
hoạt cuối tháng

+ Tôi tiến hành xếp loại đạo đức theo trình tự ba bước như trên đã trình bày:
Học sinh tự đánh giá, xếp loại  Lớp đánh giá, xếp loại  GVCN đánh giá,
xếp loại
+ Mẫu đánh giá, xếp loại ( ở phần phụ lục )
- Phương pháp giáo dục học sinh cá biệt
+ Trước hết, GVCN tạo được niềm tin và sự quý mến của học sinh.
Bản thân tơi ln phấn đấu hồn thành tốt mọi nhiệm vụ nhà trường, các tổ
chức đoàn thể giao cho được nhà trường, được các cấp khen thưởng để xây dựng
là hình ảnh người Thầy gương mẫu trong mắt học sinh.
13

skkn


Bản thân luôn giữ và tạo ra sự thân thiện với học sinh và đặc biệt là với các
em học sinh, tôn trọng các em, luôn lắng nghe các em nói và chia sẻ với các em.
Phải ln gương mẫu trước học sinh, cần thể hiện sự nghiêm túc, công bằng
trong công việc và luôn làm đúng “ Giờ nào việc nấy “ khi lên lớp.
Phải thường xuyên bám lớp trong thời gian đầu ( Một đến hai tháng, tùy vào
tình hình của lớp) để nắm bắt khả năng tự quản của lớp, sự điều hành công việc
của các cán bộ lớp , biểu hiện của từng em học sinh để nắm bắt cụ thể hơn từng
đối tượnghọc sinh ( em nào yếu về học tập, em nào có ý thức đạo đức chưa tốt,
em nào thật sự cá biệt).
Luôn lấy sự nhắc nhở, ngăn ngừa làm đầu. Coi trọng việc tìm hiểu ngun
nhân sự việc, lấy sự phân tích, khuyên bảo, động viên làm đầu.
Tôi thường đi đến thăm gia đình một số học sinh có hồn cảnh đặc biệt khó
khăn và các học sinh đặc biệt khác.
+ Phương pháp giáo dục cụ thể cho từng đối tượng học sinh:
++. Đối với học sinh có học lực yếu, lười học và hay trốn học đi chơi
Kiểm tra toàn bộ sách vở, đồ dùng và dụng cụ học tập của các học sinh này

mỗi tháng 2 lần.
Kết hợp để GVBM ra thêm bài tập và thường xuyên kiểm tra việc học tâp
trên lớp và ở nhà của các em, báo cáo với giáo viên chủ nhiệm.
Tôi nhờ những học sinh có học lực khá giúp đỡ các em trong học tập. Đồng
thời tơi dành thời gian nói chuyện với các em, đến thăm gia đình và góc học tập
của các em, tư vấn thêm cho các em cách học trên lớp, ở nhà phù hợp.
++. Đối với học sinh hay nghỉ học: một trong các nguyên nhân làm các em
nghỉ học là em rất yếu về học tập, hổng kiến thức, khơng hiểu gì khi nghe giảng
nên
các em chán đến lớp, cộng thêm bị các thầy cô giáo kiểm tra nghiêm ngặt. Vì
vậy, Tơi dùng các biện pháp trên để giúp các em hiểu thêm về kiến thức, say mê
học tập hơn. Đồng thời tôi điều tra giấy phép của học sinh dựa vào chữ ký của
phụ huynh ( Khi họp phụ huynh đầu năm, GVCN và phụ huynh đã thống nhất là
giấy phép nghỉ học phải có chữ ký của bố mẹ và tôi tiến hành lấy mẫu chữ ký
của phụ huynh ln) để nắm bắt tình hình xem các em có khó khăn gì khơng, rồi
khun bảo các em.
Tơi thơng báo tình hình của các em về gia đình trong từng tuần thơng qua điện
thoại, từng tháng thơng qua sổ liên lạc. Tiến hành tuyên dương, khen các em vào
các giờ sinh hoạt lớp khi các em có tiến bộ dù rất ít.
++. Đối với các học sinh có ý thức đạo đức yếu, vi phạm nhiều, cãi lại thầy cơ
giáo...: là những học sinh này thường có bố mẹ đi vắng hoặc bố mẹ ở nhà thì
cũng khơng có vai trị gì nữa.
14

skkn


Tơi dành thời gian nói chuyện tâm sự với các em để hiểu thêm về bản thân các
em, về tình hình gia đình các em, về các khó khăn các em đang gặp phải để tạo
thêm sự gần gũi, thân thiện hơn với các em.

Sau đó, tơi phân tích cho các em hiểu đúng sai của các vấn đề các em đang
làm, tác hại của nó đối với bản thân các em (về học tập và tu dưỡng đạo đức),
khuyên bảo các em cần chăm chỉ học tập hơn.
Có thể dùng sự tác động của các em học sinh là bạn tốt của các đối tượng này
và trao đổi với các thầy cô giáo bộ môn để các thầy cô động viên, giúp đỡ các
em trong học tập
Cuối cùng, Tôi thường xuyên theo dõi mọi hành động, cử chỉ, việc làm...của
các em để kịp thời chấn chỉnh, khuyên răn, nếu có sự tiến bộ thì phải tun
dương khen thưởng ngay.
- Phương pháp phối hợp với gia đình: Đối với học sinh trường tơi thì việc phối
hợp với gia đình để giáo dục các em là rất cần thiết, tôi thường làm theo cách
sau:
+ Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi cần làm:
Lấy mẫu chữ ký của phụ huynh để đối chiếu trong giấy xin phép nghỉ học.
Thảo luận và đi đến thống nhất cách thức, thời gian trao đổi thơng tin.
Tại những xã có số học học sinh sinh sống đơng, tối cử ra một đến hai phụ
huynh có uy tín, có trách nhiệm đảm nhận vai trị liên lạc, thơng tin chính ở đây.
+ Đối với tất cả các học sinh, tôi thông báo kết quả về học tập và rèn luyện
đạo đức, số ngày nghỉ học mỗi tháng một lần bằng sổ liên lạc điện tử.
+ Đối với học sinh vi phạm, nghỉ học nhiều tơi cịn liên hệ và thông báo kết
quả của các em mỗi tuần một lần bằng điện thoại, có trường hợp phải mời phụ
huynh đến trường để làm việc hoặc đến tận nhà để trao đổi.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Đối với bản thân
Qua những năm cơng tác ít ỏi, tơi tự tìm tịi học hỏi và vận dụng vào thực tiễn
công tác chủ nhiệm lớp và đã thu được một số kết quả sau:
- Lớp 10A1: Xếp loại hạnh kiểm:
Loại Tốt
Loại Khá
Loại TB

Loại Yếu
31
7
4
1
Xếp loại học lực:
Loại Giỏi

0

Loại Khá

20

Loại TB

23

Loại Yếu

0

Kết quả khác

Lên lớp: 100%
Đạt danh hiệu HSTT: 17 em
Xếp loại lớp: Lớp tiên tiến
HSG trường: 3 giải KK
15


skkn


- Lớp 11A1:
+ Xếp loại hạnh kiểm:
Loại Tốt
Loại Khá
33
5
+ Xếp loại học lực:
Loại Giỏi

0

Loại Khá

35

Loại TB

6

Loại TB
3

Loại Yếu
0

Loại Yếu


Kết quả khác

0

Lên lớp: 100%
Đạt danh hiệu HSTT: 33 em
Xếp loại lớp: Lớp tiên tiến
HSG trường: 3 giải KK, 1 Nhì

Cũng trên các kết quả đạt được này, đã giúp tôi tự tin hơn trong các phương
pháp, biện pháp mà mình đã nêu ra trong công tác chủ nhiệm và giáo dục học
sinh.
2.4.2. Đối với đồng nghiệp và nhà trường.
- Những kinh nghiệm, các giải pháp…này đã được tôi trao đổi với đồng nghiệp
trong tổ chun mơn và đồng nghiệp trong tồn trường thông qua các buổi trao
đổi về công tác chủ nhiệm và đã được đồng nghiệp tiếp thu, lựa chọn một số giải
pháp phù hợp và vận dụng vào các lớp do mình làm chủ nhiệm. Kết quả là có
nhiều lớp đã có được nền nếp ổn định hơn, giảm được số học sinh vi phạm và
nghỉ học.
- Trong những năm gần đây: Cấp ủy, Chính quyền nhà trường đã thấy được tầm
quan trọng của đội ngũ GVCN đối với việc giáo dục học sinh trường tôi nên đã
rất chăm lo bồi dưỡng dội ngũ GVCN. Đồng thời đã lựa chọn được nhiều
GVCN có kinh nghiệm, có phương pháp tốt làm công tác chủ nhiệm lớp và đã tổ
chức nhiều buổi trao đổi về kinh nghiệm chủ nhiệm để chúng tôi chia sẻ với
nhau.
Đến nay, Trường THPT Hậu lộc 4 đã có nền nếp học sinh rất ổn định, đa số
học sinh ngoan, chăm lo cho việc học tập, niếm tin của phụ huynh và nhân dân
vào nhà trường ngày càng cao. Điều đó đã thúc đẩy chất lượng học tập đi lên
trên cả hai mặt, đặc biệt là chất lượng đạo đức của học sinh số lượng học sinh
xếp loại đạo đức loại TB và Yếu giảm dần qua các năm học; chất lượng học lực

cũng ngày càng ổn định hơn, đặc biệt là chất lượng học sinh giỏi trên tồn Tỉnh
Thanh hóa.
Năm học 2021-2022: Trường THPT Hậu lộc 4 đã đạt được các kết quả:
Học lực
Số lượng Tỉ lệ % Tăng (+), giảm (-) so với năm trước
Loại Giỏi
228
17,16%
+ 3,87
Loại Khá
904
68,02%
+ 3,67
16

skkn


Loại TB
Loại Yếu
Loại Kém
Hạnh kiểm
Loại Tốt
Loại Khá
Loại TB
Loại Yếu

186
11
0


14,00%
0,82%
0

- 8,21
+ 0,67
0

1136
145
37
11

85,48%
10,91%
2,78%
0,83%

+ 3,23
- 3,63
- 0,07
+ 0,47

+ HSG văn hóa cấp Tỉnh: Tổng 30 giải ( Giải nhất: 1; Giait nhì: 09; Giải Ba:
11; Giải KK: 09. Xếp thứ 28/97 trường trong Tỉnh
+ HSG văn hóa cấp Trường (K11,10): Tổng 372 giải ( Giải nhất: 21; Giait nhì:
37; Giải Ba: 88; Giải KK: 226.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận

Kính thưa tất cả các thầy cơ giáo, trong q trình giảng dạy và làm cơng tác
chủ nhiệm lớp tơi cũng đã tích luỹ được một số kinh nghiệm ít ỏi. Và tơi xin
được đưa ra ở đây nhằm để trao đổi, học hỏi và cũng mong giúp được phần nào
cho các thầy cơ giáo, đặc biệt là các thầy cơ giáo cịn trẻ ,mới ra trường lần đầu
làm công tác chủ nhiệm. Tơi rất kính mong được sự góp ý chân thành của các
thầy cô giáo để đề tài này của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm !
3.2. Kiến nghị.
- Trường nên tổ chức hội thảo công tác chủ nhiệm hàng kỳ, hàng năm (qua hội
thi hoặc trao đổi kinh nghiệm), trong các hội thảo đó cần đặc biệt nêu gương,
khen thưởng những giáo viên chủ nhiệm xuất sắc.
- Đối với đồng nghiệp: Cần tiếp tục làm tốt công tác tự học tự bồi dưỡng để
dần hoàn thiện bản thân về cả chuyên môn nghiệp vụ lẫn phương pháp giáo dục
để đạt được các yêu cầu cần thiết của một người GVCN giỏi.
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2022
XÁCN NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Mai Văn Hóa
17

skkn


18


skkn



×