Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Skkn một số phương pháp giáo dục kỹ năng nhằm phát hiện và hạn chế tình trạng trầm cảm học đường cho học sinh trường thpt cầm bá thước qua công tác chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.84 KB, 17 trang )

1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Những năm gần đây, tình trạng học sinh, sinh viên bị stress, tự tử khơng
cịn là chuyện hiếm gặp. Đặc biệt trong giai đoạn thi chuyển cấp và thi đại học,
có nhiều học sinh bị áp lực học tập dẫn đến stress, ảnh hưởng đến sức khỏe và
cuộc sống. Trầm cảm tuổi học đường khơng cịn là một vấn nạn mới mẻ tại Việt
Nam. Các vụ việc thương tâm gây ra bởi trầm cảm tuổi học đường luôn khiến
nhiều chúng ta không thể kìm lịng. Theo nghiên cứu của Quỹ Nhi đồng Liên
Hợp Quốc (UNICEF), khoảng 8-29% trẻ em đang trong độ tuổi vị thành niên ở
Việt Nam mắc các bệnh về sức khỏe tâm thần nói chung. Ước tính tại Việt Nam
có ít nhất 3 triệu thanh, thiếu niên có các vấn đề về tâm lí. Tuy nhiên, chỉ có
khoảng 20% trong số đó nhận được hỗ trợ y tế và điều trị cần thiết.
Đặc biệt thời gian gần đây, các bệnh viện cũng ghi nhận có sự gia tăng
đáng kể của bệnh nhân trầm cảm trẻ tuổi, đa số là học sinh, sinh viên. Việc
thường xuyên gặp áp lực học hành thi cử cũng như sự kỳ vọng quá lớn của cha
mẹ là 2 ngun nhân chính dẫn đến tình trạng trẻ hóa bệnh trầm cảm ở Việt
Nam hiện nay. Theo phân tích của Thạc sĩ Phan Thị Hồi Yến, khoa Tâm thần Bệnh viện thành phố Thủ Đức, những rối loạn tâm lý – tâm thần cũng giống như
các cơn bão. Sự thay đổi thất thường về mặt cảm xúc, những cơn buồn khơng lý
do, khó có thể tập trung vào những chuyện mình làm hay dần mất hứng thú với
điều mình u thích là những dấu hiệu đầu tiên. Và khi bão tới thì trời sẽ nổi
sấm chớp, tựa như những cảm xúc tiêu cực, những hành vi tự gây hại chính
mình. Nạn nhân của những rối loạn tâm lý – tâm thần phải hằng ngày, hằng giờ
đấu tranh cho chính mình giữa những luồng suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực. Cảm
giác tuyệt vọng hay chỉ đơn giản là cắt đứt hết mọi thứ thường là cách mà trẻ bị
trầm cảm lựa chọn để được giải thoát khỏi những ý nghĩ tiêu cực của bản thân.
Bà Hoàng Yến cho rằng: “Lứa tuổi học sinh là giai đoạn rất dễ gặp phải những
rối loạn tâm lý – tâm thần. Ở lứa tuổi này, các em bắt đầu xuất hiện những
khủng hoảng. Dù chất chứa nhiều tâm tư, nhu cầu, mong muốn được giãi bày,
nhưng các em lại thường chưa biết cách thổ lộ phù hợp. Ngược lại, cha mẹ, thầy
cơ và bạn bè đơi lúc chưa có nhiều cơ hội, hoặc chưa đủ sức để nắm bắt kịp thời
những thay đổi về mặt tâm lý diễn ra bên trong học sinh để có sự hỗ trợ kịp


thời”. Và trên thực tế rất nhiều sự việc đau lòng đáng tiếc đã xảy ra.
Ngày 24/5/2015, tồn thể gia đình, bạn bè và thầy cô trường THPT
chuyên Hà Nội - Amsterdam đã bàng hồng và đau xót khi biết tin nam sinh Bùi
Đăng Kh, học sinh lớp 11 toán 2, đã vĩnh biệt trần thế bằng cách gieo mình từ
tầng 8 tịa nhà chung cư nơi em sinh sống. Sự ra đi vội vã của một nam sinh
ngoan ngoãn, học giỏi để lại nhiều tiếc thương cho tất cả mọi người. Đáng chú ý
là trước đó, Kh. có nhiều biểu hiện thiếu tự tin. Em đã nhiều lần tâm sự với cô
giáo dạy toán, đồng thời là giáo viên chủ nhiệm về những giấc mơ lạ, khơng có
thực. Cơ chủ nhiệm đã thơng báo với mẹ em tình hình tâm lý của con và hai bên
phối hợp chặt chẽ để giúp đỡ em. Tuy nhiên vẫn khơng ngăn cản được em có
những hành động vượt ra ngồi tầm kiểm sốt. Gần đây nhất ngày 1/4/2022, sự
1

skkn


việc nam sinh cấp 3 nhảy từ tầng 28 chung cư xuống đất tại quận Hà Đông (Hà
Nội), với đoạn thư tuyệt mệnh để lại, đang khiến dư luận bàng hoàng tiếc
thương. Cơ quan chức năng bước đầu xác định nạn nhân là L.N.N.M (16 tuổi),
đang học lớp 10 của một trường THPT danh tiếng tại Hà Nội.
Hay trước đó không lâu, ngày 21/2/2022 tại TPHCM một học sinh trường
THPT N.H.T, Quận 4 cũng đã nhảy lầu vì những kỳ vọng q lớn từ phía gia
đình và các vấn đề khó khăn trong học tập sau giai đoạn cao điểm phải học
online vì dịch COVID-19. Trước khi có quyết định tiêu cực, nữ sinh trên từng là
học sinh giỏi nhưng thời gian gần đây có biểu hiện bị trầm cảm. Tất cả những vụ
việc này gióng lên hồi chng cảnh báo về cơng tác chăm sóc sức khỏe tâm thần
và giáo dục trẻ hiện nay... Đây chỉ là một trong số rất nhiều những vụ việc đau
lòng đáng tiếc xảy ra khi các em học sinh lựa chọn cho mình các giải quyết tiêu
cực khi gặp vấn đề về tâm lý.
Vậy nguyên nhân là do đâu mà tình trạng học sinh bị trầm cảm ngày càng

trở nên phổ biến? Các chuyên gia y tế cho rằng, nguyên nhân của sự trầm cảm ở
tuổi học đường là sự tích tụ của một quá trình diễn biến bởi tình trạng ức chế
cảm xúc bị dồn nén do buồn chán những mâu thuẫn trong gia đình, do khơng
được đáp ứng những nhu cầu của bản thân, do áp lực học tập hoặc bất hòa trong
mối quan hệ bạn bè… Tổng hợp của một hoặc nhiều yếu tố khiến trẻ rơi vào bi
quan nhưng không muốn chia sẻ hoặc không biết phải chia sẻ cùng ai chính là lý
do dẫn tới những suy nghĩ tiêu cực.Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều phụ huynh và
cả thầy cô do quá bận với công việc hoặc thiếu quan tâm nên không nhận ra
những thay đổi về tâm lý của trẻ. Tình trạng trầm cảm trong lứa tuổi học đường
thường bị người lớn bỏ qua do đánh đồng với những biến đổi tâm sinh lý của lứa
tuổi mới lớn.

2

skkn


Một trong số những nguyên nhân đó là do các em khơng có khả năng ứng
phó với những áp lực căng thẳng trong cuộc sống, không biết đăt ra giới hạn cho
bản thân, không tiết chế được cảm xúc bản thân, khơng biết ứng phó với những
thay đổi trong cuộc sống, bị chi phối và lôi cuốn vào cuộc sống ảo của game
online… Mà theo các chuyên gia giáo dục (GD), nguyên nhân sâu xa nói chung
là do các em thiếu kỹ năng sống (KNS).
Trường THPT Cầm Bá Thước thuộc một trong số các trường thuộc 11
huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa. Thành phần dân tộc gồm Kinh, Mường,
Thái. Trong đó có tỉ lệ khơng nhỏ là con em đồng bào dân tộc thiểu số, các em
có hứng thú với nhiều vấn đề mới của cuộc sống nhưng lại hạn chế về giao tiếp,
khả năng phán đoán chưa cao, tính thích ứng với mơi trường khơng tốt, thụ động
trước vấn đề của cuộc sống đặt ra, thiếu hụt nhiều kĩ năng sống cơ bản… Địa
điểm đóng chân của trường THPT Cầm Bá Thước tuy là trung tâm của huyện

nhưng do địa bàn của huyện rộng, đi lại khó khăn nên có một bộ phận khơng
nhỏ các em học sinh khi tham gia học tập ở trường phải sống xa gia đình th
phịng trọ của người dân hoặc ở nhờ nhà người quen để tham gia học tập. Chính
vì các em phải sống xa gia đình, thiếu sự quan tâm, giám sát thường xun nên
gia đình khó nắm bắt được những thay đổi tâm sinh lí của con em mình. Đặc
biệt với lớp 10, các em sẽ có sự “chống” nhất định với môi trường học tập của
cấp học mới, cần sự điều chỉnh quan hệ với những người bạn mới. Chính vì
những thay đổi đó, sẽ có những học sinh khơng kịp thích ứng với mơi trường
học tập, quan hệ xã hội mới rất dễ rơi vào trạng thái căng thẳng ảnh hưởng đến
tâm lí của các em.
Với vai trị là một giáo viên làm cơng tác chủ nhiệm thì trách nhiệm đối
với học sinh của mình sẽ lớn hơn nhiều. Giáo viên chủ nhiệm sẽ là người thay
gia đình các em quan tâm, nhắc nhở kịp thời với những thay đổi trong cuộc
sống, học tập giúp các em dần hồn thiện kỹ năng sống của mình. Cùng các em
có những kỹ năng cần thiết để ứng phó với những thay đổi trong cuộc sống, vấn
nạn học đường hiện nay mà một trong số đó như tơi đã đề cập từ đầu là tình
trạng trầm cảm học đường
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, cùng những kinh nghiệm trong công tác
chủ nhiệm năm học 2021-2022 khi được phân công chủ nhiệm lớp 10A3 tơi tìm
tịi, mạnh dạn đề xuất, áp dụng đề tài: “ Một số phương pháp giáo dục kỹ năng
nhằm phát hiện và hạn chế tình trạng trầm cảm học đường cho học sinh
trường THPT Cầm Bá Thước qua công tác chủ nhiệm.” để viết sáng kiến kinh
nghiệm.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Sáng kiến được thực hiện nhằm giáo dục những kỹ năng cần thiết trong
cuộc sống đặc biệt là nhóm kỹ năng nhằm hạn chế tình trạng trầm cảm học
đường cho các em HS trường THPT Cầm Bá Thước như kỹ năng kiên định,
thương lượng, đặt ra giới hạn, chọn bạn phù hợp, tìm kiếm sự trợ giúp và những
kỹ năng thiết yếu trong cuộc sống. Qua đó giúp các em có được một số kiến
thức sau:

3

skkn


- Nắm được những kiến thức nhất định về biểu hiện cơ bản của người trầm cảm
và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trầm cảm.
- Giúp học sinh làm chủ được bản thân, sống tự tin, năng động, biết cách ứng
phó trước những tình huống khó khăn trong cuộc sống hằng ngày,
- Sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và cộng đồng.
- Sống đồn kết, có tình cảm hơn, quan tâm đến những người xung quanh,
mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình.
- Ln biết kiềm chế cảm xúc, làm chủ được các hành vi ứng xử của bản thân.
1.2. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài sẽ nghiên cứu, tìm hiểu về những lí thuyết, thực tiễn về trầm cảm
học đường, những phương pháp giáo dục phát huy tính chủ động của học sinh.
Từ đó lựa chọn, đề xuất sử dụng các phương pháp hữu hiệu trong quá trình chủ
nhiệm nhằm giáo dục kỹ năng nhằm hạn chế tình trạng học sinh rơi vào trầm
cảm. Tổng kết những ưu điểm, kết quả đạt được khi áp dụng sáng kiến.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này tơi sử dụng phương pháp nghiên cứu sau: tìm hiểu
đọc tài liệu, so sánh, tổng hợp, phân tích, nhận xét, đánh giá, viết báo cáo.
2. Nội dung sáng kiến.
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Khái niệm.
2.1.1.1. Kỹ năng.
Theo từ điển Tiếng Việt: Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức
trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế. [4]
Còn theo từ điển trên mạng Wikipedia: Kỹ năng là sự thành thạo, sự dễ
dàng, hoặc khéo léo có được thơng qua đào tạo hoặc trải nghiệm. Có ba thành tố

cơ bản của kỹ năng là kết quả, sự chắc chắn/ổn định và hiệu quả. Sống là một
quá trình hoạt động địi hỏi con người phải có những kỹ năng nhất định. Khó có
thể liệt kê một cách đầy đủ những kỹ năng con người cần có trong q trình sống.[7]
Theo tác giả Vũ Dũng thì: “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả tri
thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những
nhiệm vụ tương ứng” [5].
Từ sự phân tích trên ta có thể hiểu kỹ năng một cách chung nhất: Kỹ năng
là năng lực thực hiện một hành động hay một hoạt động nào đó bằng cách lựa
chọn và vận dụng những tri thức, cách thức hành động đúng đắn để đạt được
mục đích đề ra.
2.1.1.2. Kỹ năng sống.
Theo quan niệm của UNESCO thì “Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để
họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày”.[7]
Theo UNICEFF, KNS là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao
tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một
cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp
họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Từ KNS có thể thể hiện thành
những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến hành động
4

skkn


của những người khác cũng như dẫn đến những hành động nhằm thay đổi mơi
trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.
Trong tài liệu tập huấn hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của Bộ GDĐT: KNS là khả năng thực hiện những hành vi thích ứng tích cực, những cách
hành xử hiệu quả, giúp cá nhân hoà nhập vào mơi trường xung quanh (gia đình,
lớp học, thế giới bạn bè…), giúp cá nhân hình thành các mối quan hệ xã hội,
phát triển những nét nhân cách tích cực thuận lợi cho sự thành công học đường
và thành công trong cuộc sống.[6]

2.1.1.3. Trầm cảm.
Trầm cảm là một rối loạn ảnh hưởng đến tâm trạng gây ra cảm giác buồn
bã và mất hứng thú liên tục. Trầm cảm ảnh hưởng tiêu cực đến các cảm nhận,
suy nghĩ và hành xử của con người. Người bệnh dễ rơi vào tình trạng chán nản
bế tắc và có có thể gặp khó khăn khi thực hiện các hoạt động thường ngày.
Trong những trường hợp nặng, họ cảm thấy cuộc sống này không đáng sống nên
dẫn đến tự tử để giải thoát. Trầm cảm khơng dễ dàng thốt ra được để ngăn chặn
và điều trị căn bệnh này cần nhiều thời gian và cơng sức.
Theo Wikipedia thì “trầm cảm là một rối loạn cảm xúc liên quan đến khí
sắc thường gặp trong tâm thần học. Bệnh do hoạt động của bộ não bị rối loạn
gây nên tạo thành những biến đổi thất thường trong suy nghĩ hành vi và tác
phong. Theo WHO: “Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, đặc trưng bởi
mất đi hứng thú hoặc khoái cảm, buồn bã, cảm thấy tội lỗi, tự hạ thấp giá trị bản
thân, bị rối loạn giấc ngủ hoặc ăn uống và kém tập trung”.[7]
Từ góc độ y học, trầm cảm được biết tới là những rối loạn trong cảm xúc,
từ đó gây ra hiện tượng mệt mỏi, buồn bã và khiến bạn dần mất đi niềm đam mê
đối với những sở thích của mình. Hậu quả là, sự thay đổi trong cảm xúc, hành vi
và lối suy nghĩ khiến chất lượng cuộc sống của bạn bị ảnh hưởng.
Tóm  lại trầm cảm là một chứng rối loạn tâm lý, gây ra cảm giác chán nản
kéo dài cho người bệnh. Hội chứng trầm cảm gây ảnh hưởng trực tiếp đến cách
con người cảm nhận, suy nghĩ mọi thứ xung quanh và có thể dẫn đến những vấn
đề phức tạp về thể chất và tinh thần.
2.1.1.4. Trầm cảm học đường.
Trầm cảm học đường là một dạng rối loạn tâm thần thường gặp, với các
biểu hiện như: Mất ngủ, mệt mỏi, uể oải, cảm giác buồn rầu, hoặc bực bội, cáu
gắt không rõ nguyên do. Dẫn đến những rối loạn cơ thể: Đau đầu, đau bụng, đau
ngực, đánh trống ngực, đau cơ, ra nhiều mồ hôi, kém ăn, gầy yếu,... Đây là
nguyên nhân gây ra tình trạng giảm sút khả năng học tập ở học sinh, luôn cho
rằng mình vơ dụng, muốn bng bỏ mọi việc, thậm chí xuất hiện ý nghĩ tiêu
cực.

2.1.2. Thực trạng trầm cảm học đường.
Hiện nay, tình trạng trầm cảm tuổi học đường trên thế giới đang ở mức đáng
báo động, theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Hoa Kỳ(NIHM) đã thống kê
số liệu từ năm 2016 cho biết rằng:
5

skkn


Ước tính trong 3,1 triệu những đối tượng từ 12 đến 17 tuổi tại Hoa Kỳ đều
có ít nhất một giai đoạn rơi vào trạng thái trầm cảm lớn trong năm 2016.
 Đây cũng là con số chiếm khoảng 12,8% dân số của Hoa Kỳ đang trong
độ tuổi đó. Theo nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ trầm cảm ở học sinh nữ cao
hơn gấp 2, 3 lần đối với học sinh nam.
 Đặc biệt hơn, chỉ có khoảng 19% đối tượng bị trầm cảm ở độ tuổi này
nhân được sự giúp đỡ từ gia đình, chun gia.
Bên cạnh đó, một cuộc khảo sát và thống kê trên 1.727 học sinh THCS tại Hà
Nội nhận được kết quả rằng, có đến khoảng hơn 25% các đối tượng học sinh có
biểu hiện rối loạn về tâm thần. Một cuộc khảo sát khác cho biết rằng có khoảng
hơn 20% các bé học sinh lớp 1 có dấu hiệu về lo âu học đường ở mức độ nhẹ và
vừa.
Khoa Tâm lý – Giáo dục, trường ĐH Sư phạm – ĐH Huế cũng đã thực hiện
một nghiên cứu về mối quan hệ giữa stress và kỹ năng quản lý thời gian của các
bạn học sinh lớp 12. Kết quả nhận thầy đa số các học sinh này đều từng trải qua
giai đoạn stress trong học tập, mức độ biểu hiện lại tương đối cao.
Đây là một trong các con số khiến cho nhiều người phải lo ngại. Thực tế, tình
trạng trầm cảm tuổi học đường tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ làm ảnh hưởng đến
sức khỏe, tinh thần, thể chất của trẻ. Nếu không kịp thời phát hiện và có biện
pháp hỗ trợ phù hợp sẽ khiến cho bệnh càng trở nên nghiêm trọng, nhiều nguy
cơ xảy ra các hậu quả đáng tiếc.

2.1.3. Hậu quả của trầm cảm học đường đối với học sinh.
Phụ huynh nên biết trầm cảm học đường có những hậu quả cực kì nghiệm
trọng nếu như khơng chữa trị kịp thời như là:
Có ý định tự sát
Người mắc bệnh trầm cảm học đường có tâm lý khơng bình thường nên
có những người luôn luôn nghĩ đến cái chết và muốn tự tử. Khi tự nhận thức
được mình đang mắc bệnh, con bạn sẽ tự ti và ln nghĩ mình là gánh nặng của
bố mẹ, là người thừa thãi trong gia đình, mình khơng nên tiếp tục tồn tại. Người
trầm cảm ln ln có những suy nghĩ như vậy nên họ lúc nào cũng muốn tự sát
hoặc hành xác bản thân và coi đó là hình phạt cho chính mình.
Dễ sa vào tệ nạn xã hội
Dễ nghiện bia rượu, ma túy,...: người trầm cảm học đường hay có suy
nghĩ tiêu cực, hay buồn và chán nản khơng muốn làm điều gì. Khi đó họ tìm đến
rượu hoặc các chất kích thích khác để có thể qn đi. Nhưng chính những chất
gây nghiện này lại làm cho sức khỏe của người mắc trầm cảm học đường yếu
dần đi và cũng có nguy cơ dẫn người trầm cảm đến suy nghĩ tự tử.
Tự hành xác bản thân
Có rất nhiều người bị trầm cảm học đường nghĩ rằng mình đáng bị trừng
phạt chính vì vậy mà hay nghĩ ra những cách làm cho cơ thể mình đau đớn như
cắt cổ tay, rạch tay, rạch chân, ....những hành vi gây thương tích trên chính bản
thân của mình này cũng rất nguy trọng, nó đe dọa đến tính mạng.
Mất ngủ, đau đầu, đau lưng


6

skkn


Do tâm trí của người bệnh khơng bình thường nên rất khó ngủ. Giấc ngủ

của họ cũng dễ bị gián đoạn, thức giấc giữa đêm và khó ngủ trở lại. Điều này
vừa ảnh hưởng đến sức khỏe, vừa mất đi sự tỉnh táo và làm cho nguy cơ stress
tăng lên. Các biểu hiện đau lưng, đau đầu, căng thẳng, mệt mỏi,... đều do trầm
cảm gây ra.
2.1.4. Nguyên nhân dẫn đến trầm cảm học đường.
Nguyên nhân từ tâm lý - xã hội
Đây là yếu tố ảnh hưởng khá là lớn và dẫn đến tình trạng trầm cảm của
trẻ. Cùng với sự phát triển của xã hội đòi hỏi con người phải có kiến thức và
năng lực, chính vì điều này mà các bậc phụ huynh và nhà trường đã áp đặt nên
việc học của các em, mong muốn cho các em có được kết quả học tập tốt nhưng
chính điều này lại phản tác dụng, khiến các em bị áp lực và không muốn học
hành.
Nguyên nhân từ học tập
Áp lực từ học tập khá là căng thẳng, đặc biệt là vào mùa thi các em học
sinh phải chịu nhiều lo lắng, áp lực về điểm số. Nhất là đối với các em thi vượt
cấp và thi vào Đại học. Điểm số ln là áp lực lớn từ phía nhà trường và cả cha
mẹ, chương trình học trên lớp thì nặng kiến thức, ngày nào về đến nhà cũng có
đống bài tập khổng lồ chờ trên bàn và các lớp học phụ đạo bố mẹ đăng kí cho.
Điểm số và các trường Đại học đã khơng cịn động lực mà nó trở thành áp lực
cho học sinh.
Tình trạng bạo lực học đường
Tình trạng bạo lực học đường hiện nay diễn ra rât phổ biến tại hầu hết các
trường học trên toàn quốc. Theo con số thống kê cho thấy mỗi năm trên thế giới
có khoảng 5 triệu học sinh liên quan đến các vụ bạo lực học đường, ta cũng có
thể thấy ngay trên các trang mạng xã hội như facebook, tik tok, zalo,... những
thông tin về bạo lực được lan truyền rất nhanh chóng. Nguyên của bạo lực học
đường là từ chính bản thân các em như là tâm lý của học sinh thường có cái tơi
rất cao, tâm lý khơng ổn định, chỉ cần một tác động nhỏ thôi sẽ dẫn đến xơ
xát đánh nhau. Chính vì vậy mà tình trạng bắt nạt bạn cùng lớp, cùng trang lứa
diễn ra rất phổ biến. Tình trạng bắt nạt học đường khơng chỉ là đánh nhau mà

còn là việc các em tụ tập với nhau lập hội nhóm trên trang mạng xã hội để nói
xấu, bêu rếu, lăng nhục 1 bạn nào đó. Trên thực tế lớp học thì có thể học sinh đó
bị cả lớp tẩy chay, trêu chọc, cơ lập khơng ai chơi cùng. Tất cả những điều này
đều ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý của trẻ, hoảng sợ, lo lắng mỗi khi lên lớp
phải đối mặt với các bạn, với những điều mình khơng hề muốn, dễ dàng làm trẻ
mắc trầm cảm học đường.
Sự vơ tâm của gia đình, bạn bè, người thân
Nhiều khi chính bản thân phụ huynh cũng khơng biết mình chính là thủ phạm
khiến con căng thẳng và mệt mỏi. Biểu hiện như là: bạn thường xuyên so sánh
lực học của con mình với bạn bè, la mắng và quát nạt khi con bạn bị điểm thấp,
ép con học bài q lâu,…Những lời nói của chính bản thân phụ huynh cũng có
thể làm cho các con bị tổn thương. Không phải tất cả lời khuyên của cha mẹ đều
7

skkn


hiệu quả mà nó cịn phản tác dụng, các con sẽ nghĩ đó là áp lực. Hay sự mất mát
trong tình u tuổi học trị, tình bạn tan vỡ, thi trượt, kết quả học tập không
cao,... tất cả những điều này có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến trầm cảm học
đường cho con. Sự thay đổi trong các mối quan hệ tại trường học cũng sẽ ảnh
hưởng lớn đến tâm lý của con bạn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
Lứa tuổi học sinh bậc THPT là lứa tuổi mới lớn các em có nhiều thay đổi
về tâm sinh li, các em luôn muốn thể hiện bản thân ở một khía cạnh nào đó.
Muốn được mọi người chú ý và cơng nhận những gì mình làm. Ở độ tuổi chập
chững bước chân vào cuộc sống có rất nhiều điều mới mẻ mà các em muốn thử
sức và tác động đến tư duy, hành động của các em. Tuy nhiên các em lại thiếu đi
những kỹ năng cơ bản cần thiết để đối phó lại với những nguyên nhân vừa nêu ở
trên. Cùng với gia đình thì nhà trường cùng với mỗi thầy cô giáo đặc biệt là giáo

viên chủ nhiệm sẽ có vai trị rất lớn trong việc phát hiện bồi dưỡng những kỹ
năng sống cần thiết giúp các em lựa chọn, thay đổi, thích ứng với các tình
huống. Qua thực tế cơng tác tại trường THPT Cầm Bá Thước, đặc biệt là làm
công tác chủ nhiệm thường xuyên tiếp xúc, gần gũi với các em, được lắng nghe
tâm sự của các em về những câu chuyện gặp phải, tơi nhận thấy đa số các em
cịn tồn tại một số vấn đề như sau:
Nhiều em học sinh do khoảng cách từ nhà đến trường quá xa khơng cho
phép các em có thể đi buổi đến trường mà phải ở trọ lại trong dân hoặc ở nhờ
nhà người quen. Do sống xa gia đình thiếu sự quản lí, uốn nắn kịp thời của gia
đình nên nhiều học sinh khơng làm chủ được mình trước những dụ dỗ lơi kéo
của bạn bè, các đối tượng ngồi xã hội. Dẫn đên việc các em bỏ bê học hành,
tham gia vào các hoạt động không lành mạnh như hút thuốc, nhậu nhẹt, chơi
game, đánh nhau…
Có rất nhiều em nhút nhát trong học tập và cuộc sống. Phải xa gia đình để
tự lập trong cuộc sống học tập, chính với sự nhút nhát đó đã khiến các em dường
như có sự tách biệt với các bạn trong lớp, hay đúng hơn là các em rơi vào trạng
thái cơ độc. Chính điều này là một cản trở rất lớn trong việc nắm bắt tâm lí,
nguyện vọng của các em. Khi xảy ra vấn đề gì trong cuộc sống các em khó nhận
được sự hỗ trợ từ mọi người, bởi vì mọi người khơng rõ em đang như thế nào,
em cần gì?
Với học sinh đầu cấp THPT, các em bước vào môi trường hồn tồn mới,
nhiều mối quan hệ mới. Khơng như cấp học cũ nơi mà các em đã quen với thầy
cô bạn bè thì ở mơi trường mới, cách học mới thầy cô bạn bè mới khiến nhiều
em không bắt nhịp kịp sẽ rơi vào trạng thái hoang mang. Một thức tế nữa đang
còn tồn tại ở bộ phận nhỏ học sinh của trường THPT Cầm Bá Thước, và cũng là
vấn đề chung mà lâu nay báo chí, truyền hình đưa tin đang tồn tại trong giới trẻ
là lối sống thờ ơ, thiếu quan tâm đến những người xung quanh. Chính sự thờ ơ
này kiến cho nhiều em cảm thấy mình bị bỏ rơi, hụt hẫng khi gặp vấn đề trong
cuộc sống.
8


skkn


2.3. Một số phương pháp.
Ở mỗi phương pháp tôi sẽ chia thành 4 ý chính. Thứ nhất mơ tả về
phương pháp sử dụng, thứ 2 là lợi ích mà phương pháp đó mang lại, thứ 3 cách
thức thực hiện phương pháp, thứ 4 là vận dụng lấy ví dụ minh họa thực tế về
phương pháp đó đã giúp giáo dục được những kiến thức, KN gì cho HS.
Lưu ý: Những phương pháp đề cập được sử dụng linh hoạt sử dụng trong
qua trình thực hiện cơng tác chủ nhiệm sau khi đã hồn thành những cơng việc
cần thiết đã thơng báo đến học sinh, có thể là giờ sinh hoạt 15 phút, giờ sinh
hoạt cuối tuần hoặc là hoạt động ngoại khóa của lớp. Đồng thời các phương
pháp này có thể sử dụng trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh nói
chung.
2.3.1. Đóng vai.
Mơ tả: Học sinh thực hiện một vở kịch, tình huống ngắn
Lợi ích: Cung cấp cơ hội để HS thực hiện các kỹ năng, kinh nghiệm ứng
phó với những tình huống trong cuộc sống, nâng cao khả năng hiểu và cảm
thông với người khác, cơ hội để hiểu rõ bản thân mình
Cách thức thực hiện: mơ tả tình huống cần đóng vai: phân vai, đưa ra
yêu cầu cho mỗi vai diễn, diễn, thảo luận những gì đã diễn ra.
Ví dụ minh họa: GV chia lớp thành 4 nhóm yêu cầu mỗi nhóm nghiên
cứu thực tiễn tự lên cho mình một kịch bản mang nội dung liên quan đến việc
một HS bị áp lực tâm lí sau đó dẫn đến tình trạng trầm cảm và những cách giải
quyết. Yêu cầu làm nổi bật từng đặc trưng của mỗi vai diễn: Các áp lực học sinh
gặp phải ở trường học; diễn biến tâm lí, hành động sau đó của học sinh.
Sau mỗi vở kịch của mỗi nhóm, GV sẽ cho lớp tiến hành thảo luận để HS
nắm được một số vấn đề liên quan đến trầm cảm học đường như: đã bao giờ các
em gặp phải các áp lực như vậy hay chưa? Khi đứng trước những vấn đề như

vậy em cảm thấy như thế nào? Các em có tâm sự điều đó với ai hay khơng? Các
em đã nghĩ đến việc làm gì khi khơng thể giải quyết được áp lực đó? Các em có
nghĩ đến bố mẹ khi có hành động dại dột khơng… Khi trả lời, trao đổi về những
câu hỏi liên quan đến vở kịch các em sẽ biết được sẽ biết rằng trong cuộc sống
sẽ có rất nhiều áp lực mình sẽ gặp phải, đối phó với áp lực đó như thế nào?
Không bị sức ép chi phối là khi các em làm chủ được cuộc sống của mình.
Thơng qua hoạt động các kĩ năng được hình thành:
+ KN giao tiếp và ứng xử: Được hình thành và củng cố trong các mối
quan hệ giữa GV với HS, giữa các HS với nhau. Từ các mối quan hệ đó, các em
biết mình cần phải có lời lẽ, ngơn từ như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh
giao tiếp để đạt được hiệu quả cao nhất.
+ KN giải quyết vấn đề: KN này được hình thành trong các tình huống đó
là các em phải tự xác định tình huống của nhóm, các em phải tự giải quyết vấn
đề về nội dung, hình thức, cách tiến hành cho tiết mục kịch do chính các em lên
kịch bản.
+ KN thương lượng: Được hình thành trong hoạt động HS thương lượng
với GV hoặc sự thương lượng giữa các HS với nhau để tìm ra cách giải quyết
9

skkn


công việc phù hợp nhất. Kĩ năng này là vô cùng cần thiết trong cuộc sống khi có
xảy ra mâu thuẫn, khi các em tìm cách tránh những sức ép khơng tốt từ bạn bè.
+ KN lắng nghe: Được hình thành thông qua các cuộc đối thoại giữa GV
và HS, giữa HS và HS. Sự lắng nghe tích cực là điều cần thiết trong hoạt động
nhóm. Chỉ có lắng nghe tích cực thì mới thấu hiểu vấn đề, rồi từ đó hợp tác với
nhau để giải quyết cơng việc chung. Lắng nghe là cở sở cần thiết để HS thấy
mình được tôn trọng, được chia sẻ khi muốn tâm sự với nhau khi gặp vấn đề
trong cuộc sống để có được sự góp ý cần thiết.

+ KN làm việc đồng đội: Trong các hoạt động tập thể lớp, việc chia thành
nhóm là điều cần thiết. Vì chia thành nhiều nhóm nhỏ có tác dụng thúc đẩy các
em phấn đấu, thi đua nhau trong công việc hơn là làm chung cả lớp thành một
nhóm. Trong các nhóm, thường có các thành viên với vai trị khác nhau nhưng
để nhóm hoạt động hiệu quả nhất thì chỉ có một cách là các thành viên gắn kết
với nhau. Qua đó các em thấu hiểu, đồng cảm và chia sẻ với nhau hơn.
2.3.2. Thuyết trình tương tác
Mơ tả: Dựa trên những từ ngữ liên tưởng tự do của học sinh đưa ra về
một chủ đề, giáo viên sẽ giảng, đưa ra những kiến thức về chủ đề đó.
Lợi ích của phương pháp: Giảng giải về kiến thức nhưng dựa trên từ
ngữ học sinh đưa ra giúp phần giảng bài trở nên sinh động và dễ thu hút sự chú
ý của học sinh. Ngay khi đưa ra từ ngữ các em đã phải động não, suy nghĩ về
chủ đề, tạo tiền đề tốt cho việc tiếp thu.
Cách thực hiện: Giáo viên đưa ra chủ đề, sau đó hỏi học sinh khi đề cập
đến vấn đề này, từ ngữ gì hiện ra trong đầu các em. Ghi lên bảng tất cả những từ
ngữ đó (có thể u cầu học sinh giải thích hoặc khơng). Nếu có thể, sắp xếp các
từ ngữ này theo một logic nhất định và hình thành các nhóm từ. giáo viên bắt
đầu đi từng từ để giải thích về mối liên hệ giữa từ đó và chủ đề. Nói rõ thêm
những kiến thức liên quan. Bổ sung những vấn đề quan trọng chưa được đề cập.
Ví dụ:
Giáo viên: Hơm nay chúng ta sẽ cùng trao đổi với nhau về vấn đề tâm lí
mà hiện nay nhiều người trong đó có học sinh mắc phải đó là trầm cảm. Khi nói
đến trầm cảm các em nghĩ đến gì? Hãy nói cho cơ nghe bất kể những từ gì xuất
hiện trong đầu các em. Mỗi người nói một từ.
Sau đó giáo viên gọi những người xung phong
Học sinh: (trả lời lần lượt) sợ, nơi vắng vẻ, bóng tối, lo lắng, mệt mỏi, cơ
đơn, cái chết…
Cô giáo ghi lại tất cả những từ học sinh nêu. Sau đó giáo viên có thể phân
loại các từ này theo những nhóm nhất định dựa vào nội dung của trầm cảm.
Cuối cùng giáo viên bắt đầu thuyết giảng từng từ.

Giáo viên: Cảm ơn các em. Trước hết là từ “sợ ”. Khi nói đến trầm cảm
chúng ta nói đến cảm giác sợ hay đúng ra là những áp lực gặp phải.. “Nơi vắng
vẻ”, đây là địa điểm mà người bị trấm cảm muốn đến muốn để thu mình lại
khơng muốn tiếp xúc với mọi người… “Bóng tối”, cũng là khơng gian người
trầm cảm khép mình với xung quanh. “Lo lắng, mệt mỏi”, là cảm giác mà người
10

skkn


bệnh gặp phải, chán nản với cuộc sống,. Cái chết là suy nghĩ tiêu cực cuối cùng
mà người bị trầm cảm nghĩ đến với mong muốn chấm dứt sự bế tắc của mình…
Như vậy, thơng qua phương pháp này giúp học sinh có những kiến thức
cơ bản về vấn đề trầm cảm: Như thế nào là trầm cảm? Nguyên nhân của trầm
cảm? Cảm giác khi bị trầm cảm như thế nào? Có những hình thức bắt nạt nào?
Hậu quả của trầm cảm là gì? Các em cần làm gì khi đứng trước áp lực, giúp đỡ
bạn khi bạn có biểu hiện trầm cảm?...
Cũng thơng qua phương pháp này hình thành cho các em một số kỹ năng
trong cuộc sống như:
+ KN lãnh đạo bản thân: Được hình thành trong hoạt động HS tự nêu ra
những suy nghĩ của mình và bảo vệ nó.
+ KN lắng nghe: Được hình thành khi GV nêu yêu cầu, thông báo chủ đề;
HS phải lắng nghe để xác định chủ đề đưa ra. Và việc lắng nghe, thấu hiểu trong
cuộc sống là điều hết sức cần thiết.
+ KN thuyết trình: Được hình thành khi HS đứng dậy và trình bày những
điều được mình suy nghĩ.
+ KN giao tiếp và ứng xử: Được hình thành và củng cố thơng qua q
trình giao tiếp giữa các em HS với nhau, giữa GV và HS trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ. qua đó các em biết được cách giao tiếp, ứng xử với từng đối
tượng cho phù hợp.

2.3.3. Phân tích tình huống và nghiên cứu trường hợp.
Mơ tả: Phân tích tình huống giúp HS suy nghĩ, phân tích và thảo luận về
những tình huống các em gặp phải. Nghiên cứu trường hợp là những câu chuyện
có thực trong cuộc sống được mô tả một cách cụ thể để từ đó giáo viên và HS
cùng xem xét, phân tích.
Lợi ích: Phân tích tình huống giúp HS khám phá vấn đề, những khó khăn
rồi có thể xem xét giải pháp một cách an toàn. Biện pháp này giúp HS làm việc
cùng với nhau, chia sẻ ý tưởng và giúp các em nhận ra rằng rất nhiều khi chúng
ta nhìn nhận vấn đề khác nhau. Nghiên cứu trường hợp kích thích suy nghĩ và
thảo luận (bởi vì nó thật). HS sẽ xem xét những gì đã khiến cho cá nhân hay
nhóm người đã hành động trong trường hợp đó, rồi đánh giá hệ quả của những
hành động đó. Tham gia vào quá trình này, HS sẽ cải thiện được khả năng ra
quyết định.
Cách thực hiện: Đưa ra tình huống hoặc trường hợp một cách dễ dàng.
Đặt những câu hỏi hướng dẫn sẽ giúp thúc đẩy suy nghĩ và thảo luận. Cần phải
cho HS đủ thời gian để suy nghĩ. Giáo viên có vai trị là người hướng dẫn hơn là
người đưa ra câu trả lời.
Ví dụ minh họa: Trong tiết sinh hoạt cuối tuần GV chia lớp thành 4
nhóm thảo luận rồi phát cho HS một bài báo viết về lá thứ tuyệt mệnh của một
cô bé tiểu học ở Trung Quốc. Bài báo có tên “Học sinh tiểu học ở
Trung Quốc để lại lời nhắn 'con quá mệt mỏi với chuyện
học hành' rồi tự tử”:
11

skkn


“Ngày 15/12/2020, một cô bé tiểu học ở tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) đã tự tử

bằng cách nhảy từ tầng cao của tịa nhà. Trước đó, cơ bé để lại một tờ giấy ghi

dịng nhắn xót xa: 'Khi mọi người đọc bức thư này, có thể con đã chết rồi. Con
quá mệt mỏi với chuyện học hành. Từ nhỏ, cha mẹ luôn kỳ vọng con trở thành
người lớn, lấy đi những gì con mong ước. Nhưng bù lại, con nhận về sự thất
vọng của cô giáo, những lời đùa của đám bạn cùng lớp. Con tuyệt vọng lắm, chỉ
muốn ngủ thêm một giấc nữa thơi” [2]
Sau đó GV bắt đầu thảo luận theo các câu hỏi sau đây:
Bài báo nói về chuyện gì ? Vì sao em bé đó lại tự tử? Bố mẹ, thầy cơ, bạn
bè có biết mình chính là nguyên nhân dẫn đến sự bế tắc của bạn nhỏ hay không?
Các em đã gặp chuyện tương tự như vậy chưa? Nếu chưa thì các em có nghĩ
rằng chuyện này có thể xảy ra với những người bạn của các em không? Các em
cảm thấy thế nào khi nghe về chuyện này? Theo em, điều gì đã dẫn đến câu
chuyện như vậy?
HS trao đổi thảo luận trong nhóm và cử đại diện đưa ra quan điểm của
nhóm mình với những vấn đề mà GV đặt ra.
GV tổng kết lại các quan điểm của HS sau đó đưa ra kiến thức kết luận về
tác hại của trầm cảm: Người mắc bệnh trầm cảm học đường có tâm lý khơng
bình thường nên có những người ln ln nghĩ đến cái chết và muốn tự tử. Khi
tự nhận thức được mình đang mắc bệnh, con bạn sẽ tự ti và luôn nghĩ mình là
gánh nặng của bố mẹ, là người thừa thãi trong gia đình, mình khơng nên tiếp tục
tồn tại. Người trầm cảm ln ln có những suy nghĩ như vậy nên họ lúc nào
cũng muốn tự sát hoặc hành xác bản thân và coi đó là hình phạt cho chính mình.
Điều đó gây nên ám ảnh về sau với người thân, người xung quanh…
Thông qua phương pháp này giúp HS hình thành một số kỹ năng cần thiết
trong cuộc sống như:
+ KN xác định giá trị: Được hình thành trong tình tiết HS xác định được
những thông điệp mà câu chuyện truyền tải, rút ra ý nghĩa cho bản thân.
+ KN nhận thức: Được hình thành trong hoạt động HS nhận thức được
rằng: Trầm cảm vơ cùng nguy hiểm, nó khiến con người rơi vào hoảng loạn và
gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
2.3.4. Tranh luận.

Mơ tả: Trong tranh luận, tình huống hoặc câu hỏi được đưa ra, học sinh
sẽ lựa chọn quan điểm của mình rồi đưa ra những ý kiến bảo vệ. Tranh luận có
thể tiến hành với cả lớp hoặc với nhóm nhỏ. Có thể tổ chức cuộc tranh luận theo
hai phe để phản bác ý kiến của nhau. Giáo viên và học sinh cịn lại sẽ làm trọng
tài.
Lợi ích: Giúp học sinh phát triển những suy nghĩ sâu sắc và sáng tạo về
chủ đề đưa ra.
Cách thực hiện: Đưa ra chủ đề hoặc câu hỏi. Yêu cầu học sinh lựa chọn
góc nhìn của mình. Cho học sinh có thời gian để chuẩn bị. Đưa ra quy tắc về
cuộc tranh luận phải đảm bảo tính cơng bằng về thời gian cũng như cơ hội cho
cả hai bên. Đảm bảo chắc chắn rằng học sinh tôn trọng suy nghĩ, ý kiến của đối
12

skkn


phương. Duy trì được sự bình tĩnh và kiểm sốt đối với lớp học trong q trình
thảo luận.
Ví dụ minh họa: Trong 1 tiết sinh hoạt cuối tuần giáo viên chủ nhiệm
đưa ra tình huống chủ đề cho lớp: Một bạn học sinh lên lớp hay ngủ gật, mơ hồ
với mọi thứ xung quanh, khơng nói chuyện với bạn bè, ln khép mình khơng
giao tiếp với thầy cơ bạn bè thì có phải là bị trầm cảm hay khơng? Các em đưa
ra ý kiến của mình và chứng minh cho quan điểm đó? Em có biết bạn nào như
vậy hay khơng? Chúng ta cần làm gì khi bạn của mình rơi vào tình trạng đó?
Học sinh sẽ xuất hiện hai luống ý kiến là đúng và không đúng.
Giáo viên để từng nhóm ý kiến đứng lên phát biểu và chứng minh cho
quan điểm của mình. Nhóm cịn lại lắng nghe và phản biện bảo vệ ý kiến.
Cuối cùng giáo viên là người tổng hợp, nhận xét về ý kiến của học sinh và
đưa ra những dẫn chứng khoa học để khẳng định đó chính là một số biểu hiện cơ
bản của người trầm cảm. Tuy nhiên, giáo viên cũng phải thừa nhận ý kiến của

đội trái chiều trên cơ sở phân tích cái đúng cái sai của các em để các em thỏa
mãn.
Như vậy, thông qua phương pháp này các em sẽ tìm hiểu để biết được đâu
là những biểu hiện của người bệnh trầm cảm? Kịp thời phát hiện những bạn có
dấu hiệu để giúp đỡ các bạn thay đổi? Rút kinh nghiệm cho bản thân.
Cũng thông qua phương pháp này hình thành cho các em một số kỹ năng
trong cuộc sống như:
+ KN lãnh đạo bản thân: Được hình thành trong hoạt động HS tự nêu ra
những suy nghĩ của mình và bảo vệ nó. KN này giúp các em tự chủ hơn trong
cuộc sống, tránh được những dụ dỗ lôi kéo không lành mạnh.
+ KN lắng nghe: Được hình thành khi GV nêu u cầu, thơng báo chủ đề;
HS phải lắng nghe để xác định chủ đề đưa ra. Và việc lắng nghe, thấu hiểu trong
cuộc sống là điều hết sức cần thiết để các em chia sẻ với nhau về những vấn đề
gặp phải trong cuộc sống. Từ đó, các em sẽ có cho mình những lời khun hữu
ích từ bạn bè, thầy cơ.
+ KN thuyết trình: Được hình thành khi HS đứng dậy và trình bày những
điều được mình suy nghĩ.
+ KN giao tiếp và ứng xử: Được hình thành và củng cố thơng qua quá
trình giao tiếp giữa các em HS với nhau, giữa GV và HS trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ. qua đó các em biết được cách giao tiếp, ứng xử với từng đối
tượng cho phù hợp
2.3.5. Kể chuyện hoặc sử dụng phim ảnh
Mô tả: Giáo viên hoặc học sinh kể, đọc một câu chuyện cho cả lớp nghe.
Sau đó học sinh sẽ được thảo luận về câu chuyện theo hướng liên quan đến nội
dung bài học.
Giáo viên có thể sử dụng các đoạn video hay phim ngắn “Quà tặng cuộc
sống” của chương trình VTV liên quan đến GD KNS cho HS để trình chiếu (ví
dụ như video Câu chuyện tình bạn). Sau đó cho HS thảo luận, phát biểu suy
13


skkn


nghĩ, chính kiến của bản thân mình và rút ra bài học. Có thể cho các em nói lên
suy nghĩ bằng lời nói hoặc viết vào giấy rồi tổng hợp lại.
Lợi ích của phương pháp: Giúp học sinh khám phá sâu hơn về nội dung
được học. Giúp ghi nhớ tốt hơn và đồng thời phát triển các kĩ năng suy nghĩ và
ra quyết định.
Với việc sử dụng phim, video giúp giáo viên khơng cần phải nói nhiều,
giáo huấn nhiều mà thông qua các video các em tự suy nghĩ rút ra nhận xét, kinh
nghiệm cho bản thân.
Cách thực hiện: Lựa chọn câu chuyện đơn giản, rõ ràng. Câu chuyện
càng gần gũi với học sinh càng tốt.
Lựa chọn sử dụng những bộ phim, đoạn phim gần gũi liên quan với
những KNS mà GV đang lựa chọn giáo dục cho HS. Điều này là rất quan trọng
vì nếu chọn sai nội dung thì việc giáo dục sẽ giống như “râu ơng nọ cắm cằm bà
kia”. Mỗi giờ sinh hoạt, GVCN chỉ cần chiếu một đến hai đoạn video, không
nên chiếu quá nhiều mà không để thời gian cho HS suy nghĩ, thảo luận
Ví dụ:
Giáo viên sẽ đọc cho học sinh nghe câu chuyện mang tên “Người bạn
nhỏ, tác động lớn”:
“Vào một ngày nóng nực, sư tử mệt mỏi sau một ngày kiếm ăn, nó nằm
ngủ dưới một tán cây. Một chú chuột nhắt đi ngang qua, thấy sư tử ngủ say liền
nhảy múa đùa nghịch trên lưng sư tử.
Sư tử thức giấc, giận dữ vì bị đánh thức, nó túm lấy chuột nhắt mắng.
"Con vật bé nhỏ kia, sao ngươi dám đánh thức chúa tế rừng xanh? Ta sẽ nghiền
nát ngươi bằng móng vuốt của ta".
Chuột nhắt sợ hãi van xin "xin ngài tha cho tôi, tôi sẽ không bao giờ quên ơn và
tôi sẽ trả ơn ngài vào một ngày nào đó".
Sư tử thấy rất buồn cười với lời nói của chuột nhắt, nhưng nó cũng thấy tội

nghiệp và thả cho chuột nhắt đi.
Chuột nhắt mừng quá vội vã chạy đi.
Vài tháng sau, khi đang săn mồi trong rừng, sư tử vướng vào lưới của thợ
săn và nó không thể nào thoát được. Sư tử gầm lên kêu cứu "Cứu với, cứu với",
vang động khắp khu rừng.
Chuột nhắt được sư tử tha mạng lần trước, nghe thấy tiếng sư tử gầm, nó vội
chạy đến xem sao. Thấy sư tử mắc trong lưới, nó bảo "ông đừng lo, tôi sẽ giúp".
Chuột lấy hết sức gặm đứt các dây lưới để sư tử chạy thoát. Sư tử mới thấy rằng
làm điều tốt cho người khác sẽ luôn được nhớ công ơn.”
Sau khi đọc cho học sinh nghe câu chuyện đó giáo viên bắt đầu thảo luận
theo các câu hỏi sau:
Câu chuyện nói về chuyện gì xảy ra giữa chuột và sư tử?
Vì sao sư tử khơng giết chuột nhắt?
Cách xử lí của chuột nhắt thể hiện điều gì? Em học tập được điều gì từ cách xử
trí đó?
Tại sao khi sư tử mắc bẫy chuột nhắt lại biết cách tìm đến giúp đỡ?
14

skkn


Các em đã bao giờ gặp chuyện tương tự như trong câu chuyện giữa sư tử và
chuột nhắt bao giờ chưa? Hãy kể về câu chuyện đó cho cơ và cả lớp được nghe.
Các em cảm thấy thế nào sau khi nghe câu chuyện này? Ý nghĩa em rút ra là gì?
Học sinh xung phong trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra
Giáo viên tổng kết lại các ý kiến của học sinh, sau đó đưa ra các kiến thức
cơ bản: Câu chuyện nói về cách xử trí thông minh của nhắt khi xảy ra mâu thuẫn
đáng tiếc với sư tử - con vật to béo khỏe mạnh hơn mình. Đó là sự thương lượng
hợp lí để tìm ra lựa chọn có lợi nhất cho cả hai bên giúp cả hai cùng thỏa mãn.
Khi sư tử gặp nạn, nó kêu cứu là một hành động để tìm kiếm sự trợ giúp đến từ

xung quanh mà ai cũng cần phải biết để giải nguy cho mình. Chuột nhắt nhỏ bé
đã giúp đỡ sư tử thoát nguy đã chứng minh một điều rất quan trọng là chúng ta
phải cần có những người bạn, họ sẽ là người giúp ta khi cần. Nhưng quan trọng
đó phải là những người bạn phù hợp, biết lắng nghe nguyện vọng của mình và
sẵn sang giúp đỡ mình khi cần thiết, chứ khơng phải là những người khi vui thì
đến cịn khi hoạn nạn thì bỏ mặc. Điều đó được thể hiện ở chi tiết khi sư tử kêu
cứu không hề đề cập đến sự giúp đỡ của lồi vật nào khác mà đó lại là chú chuột
nhắt. Hãy biết giải quyết mâu thuẫn bằng thương lượng, tiết chế cảm xúc bản
thân khi xảy ra mâu thuẫn và tìm kiếm sự trợ giúp từ mọi phía khi gặp khó khăn.
Khi gặp khó khăn chúng ta sẽ tìm kiếm được những người bạn thật tốt và phù hợp.
Các kỹ năng được hình thành:
+ KN lắng nghe: Được hình thành thơng qua hoạt động nghe nghe kể câu chuyện
+ KN xác định giá trị: Được hình thành trong tình tiết HS xác định được
những thơng điệp mà câu chuyện truyền tải, rút ra ý nghĩa cho bản thân.
+ KN nhận thức: Được hình thành trong hoạt động HS nhận thức được
rằng: Hãy biết giải quyết mâu thuẫn bằng thương lượng, tiết chế cảm xúc bản
thân khi xảy ra mâu thuẫn và tìm kiếm sự trợ giúp từ mọi phía khi gặp khó khăn.
Khi gặp khó khăn chúng ta sẽ tìm kiếm được những người bạn thật tốt và phù hợp.
+ KN đàm phán, thuyết trình: Được hình thành thơng qua hoạt động thảo
luận, trình bày suy nghĩ để trả lời các câu hỏi sau khi nghe câu chuyện, xem video.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
Sáng kiến được áp dụng vào thực tiễn công tác chủ nhiệm của bản thân đã đạt
được một số kết quả sau:
Với bản thân trong quá trình triển khai các hoạt động đã xác định được
cho mình một số phương pháp giáo dục học sinh thực sự có hiệu quả, góp phần
vào việc hoàn thành nhiệm vụ của một giáo viên chủ nhiệm. Cũng từ quá trình
thực hiện đề tài này, phát hiện được một số khả năng của các em học sinh mà
lâu nay các em ít có điều kiện thể hiện: nói trước đám đơng, diễn kịch, xây dựng
kế hoạch hoạt động... Từ đó bồi dưỡng, định hướng giúp các em phát triển hết
khả năng của mình để sau có thể định hướng nghề nghiệp cho các em.

Với học sinh và chất lượng giáo dục kĩ năng của nhà trường:
Thứ nhất, các em học sinh đã có tinh thần tự học, tự tìm hiểu, nghiên cứu
những vấn đề xã hội nổi bật hiện nay. Các em biết được những áp lực mình gặp
phải trong học tập, trong cuộc sống dễ đẩy mình vào trạng thái trầm cảm. Từ đó
15

skkn


sớm tự kiểm sốt bản thân và tìm kiếm sự trợ giúp, chia sẻ từ người thân, bạn
bè, thầy cô. Trên cơ sở đó các em bổ sung hiểu biết ngày càng hồn thiện vốn kĩ
năng sống cho mình.
Thứ hai, hầu hết các em đã ý thức được nguy hiểm của căn bệnh trầm cảm
Đa số học sinh trong lớp đã có ý thức quan tâm bạn bè, thơng tin đến GVCN
những bạn trong lớp có biểu hiện lạ để GVCN thơng tin kịp thời đến gia đình và
có những điều chỉnh, góp ý kịp thời để phối hợp trong việc tìm hiểu, giúp đỡ học
sinh. Các em hăng hái tham gia nhiệt tình các hoạt động tập thể để có sự trải
nghiệm thú vị, phát huy những năng lực vốn có của mình.
Thứ ba, nhiều em học sinh khi tham gia vào các hoạt động đã dần khắc
phục sự nhút nhát, tự ti cá nhân. Các em khơng cịn khép kín bản thân, hịa đồng
hơn với các bạn trong lớp, hịa mình vào tập thể. Đó cũng là cơ sở để các em có
thể chia sẻ và cảm thơng cho nhau, giúp đỡ nhau khi cần thiết, tránh rơi vào cô
đơn khi gặp những căng thẳng trong cuộc sống.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Với những phương pháp giáo dục trình bày ở trên đã phần nào giúp các em
HS có những nhận thức về căn bệnh trầm cảm và hậu quả nghiêm trọng của nó, các
em có được những KN cần thiết để ứng phó với những áp lực dễ gặp phải trong
cuộc sống. Điều này giúp các em tập trung vào việc học tập, rèn luyện và chuẩn bị
tốt hành trang cho cuộc sống sau này.

Tuy nhiên, để những phương pháp trên có hiệu quả cao cần có sự triển
khai đồng bộ của các lớp trong trường dần để tất cả các em học sinh có thể tham
gia vào các hoạt động để hiểu biết, nâng cao kiến thức. Tùy từng lớp và năng lực
HS giáo viên có thể sử dụng một trong các phương pháp một cách phù hợp để
đạt hiệu quả giáo dục cao nhất. Mặt khác, những phương pháp này chỉ thực sự
phát huy tác dụng khi GVCN có sự nhiệt tình, chuẩn bị chu đáo nội dung cho
mỗi hoạt động, khích lệ được tinh thần ham học hỏi, chủ động, sáng tạo của HS
để các em tham gia một cách nhiệt tình. Từ đó, các em tiếp thu kiến thức một
cách chủ động, có được những hoạt động trải nghiệm thiết thực trước những vấn
đề mà GVCN muốn HS nắm bắt.
3.2. Kiến nghị.
Để nâng cao hiệu quả và khả năng ứng dụng rộng rãi sáng kiến ở trường
THPT Cầm Bá Thước, tôi xin có một số kiến nghị sau:
- Về phía nhà trường: Tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân
viên, học sinh và cha mẹ học sinh của nhà trường về tầm quan trọng của
GDKNS cho học sinh. Triển khai một cách đồng bộ những phương pháp giáo
dục đến GVCN để áp dụng phù hợp cho HS lớp mình.
- Về phía GVCN: Bám sát lớp, chủ động phối hợp với phụ huynh, các em
HS để tìm hiểu và theo dõi những biểu hiện khác thường của những HS. Cần
xây dựng kế hoạch giúp đỡ, phân cơng nhóm các bạn HS ngoan để giúp đỡ, chia
sẻ, tạo cho các bạn sự hòa nhập, hứng thú trong học tập.
16

skkn


- Đối với giáo viên bộ môn: Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống trong các
bài dạy phù hợp nội dung chương trình. Thơng qua bộ mơn giảng dạy giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh về môi trường, xã hội, ứng phó với thiên tai, thực tế
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa trải nghiệm

thực tế cuộc sống.
- Về phía Đồn trường: Cần thiết kế các hoạt động Đoàn ở nhà trường và
phối hợp hoạt động với địa phương nhằm tổ chức cho Đoàn viên, thanh niên,
tham gia nhiều hoạt động phong trào học tập, vui chơi bổ ích. Qua đó xác định
mục tiêu, định hướng cho đồn viên, thanh niên giáo dục các em về nhận thức tư
tưởng, dìu dắt các em học tập tiến bộ, giúp các em phát triển một cách toàn diện
về thể chất cũng như tinh thần. Xây dựng các nội dung giáo dục kỹ năng sống,
hàng tuần tuyên truyền qua hệ thống phát thanh, qua sinh hoạt dưới cờ đầu tuần,
các trò chơi, các cuộc thi về kỹ năng sống. Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên
lớp mang tính chất thực hành các kỹ năng sống cơ bản, các kỹ năng ứng phó với
các vấn đề xã hội hiện nay, với thiên tai xảy ra.
- Về phía phụ huynh: Cần quan tâm, dành nhiều thời gian hơn nữa để gần
gũi, chia sẻ và nắm bắt tâm lí của con em mình. Thường xun liên lạc với
GVCN lớp để nắm bắt thơng tin về tình hình học tập, rèn luyện, ở trường.
Trên đây, những phương pháp tơi đưa ra chỉ là số ít trong số các phương
pháp GD KNS cho các em HS THPT nói chung và với cơng tác chủ nhiệm nói
riêng. Các phương pháp này khơng tồn tại một cách độc lập mà có sự đan xen
với nhau trong quá trình áp dụng vào thực tế. Đồng thời, mỗi phương pháp có
những ưu và nhược điểm nhất định nên khi sử dụng chúng ta cần lựa chọn, kết
hợp phù hợp với từng đối tượng, từng chủ đề để phát huy hiệu quả cao nhất. Rất
mong được sự góp ý, bổ sung của các đồng nghiệp để hồn thiện hơn các
phương pháp góp phần nâng cao hơn nữa công tác giáo dục của nhà trường.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày... tháng ... năm 2022
ĐƠN VỊ
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Bùi Thị Nhung


17

skkn



×