Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Skkn một số phương pháp kỷ luật tích cực trong dạy học và giáo dục học sinh ở trường thcs tế lợi nông cống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 19 trang )

MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

Trang

I

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1

Lý do chọn đề tài

1

2

Mục đích nghiên cứu

2

3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3


4

Phương pháp nghiên cứu

4

II

NỘI DUNG

3

1

Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

6

3

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

7


4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục 17
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

III

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

18

1

Kết luận

18

2

Kiến nghị

19

3 TÀI LIỆU THAM KHẢO

0

skkn



I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
- Theo quan điểm của các nhà giáo dục: Kỷ luật tích cực là biện pháp
giáo dục văn minh và luôn đặt lợi ích lâu dài của trẻ lên hàng đầu
- Theo quan niệm “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”,
“miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời” nhiều giáo viên sử dụng hình thức mắng
nhiết, sỉ nhục,đánh, tát…thể hiện sự bất lực của người làm công tác giáo dục.
- Lợi ích của Kỷ luật tích cực?
Các nguyên tắc của kỷ luật tích cực cũng như nhiều cơng cụ kỷ luật tích
cực có hiệu quả và đã được chứng minh có thể giúp bạn ni dạy những đứa trẻ
kiên cường và có năng lực.
- Kỷ luật tích cực thúc đẩy sự hợp tác, gắn kết gia đình và đối xử giữa các
thành viên trong gia đình với sự tơn trọng lẫn nhau.
- Trẻ em được đối xử theo kỷ luật tích cực có nhiều khả năng phát triển
các kỹ năng xã hội và cảm xúc.
- Mơ hình kỷ luật tích cực đem đến cho trẻ sự giúp đỡ, quan tâm chăm
sóc, có trách nhiệm và hợp tác.
- Kỷ luật tích cực cũng khuyến khích các gia đình tập trung vào giải
quyết vấn đề và đưa ra các thỏa thuận nhằm thúc đẩy tư duy phản biện, sự sáng
tạo và trách nhiệm.
- Kỷ luật tích cực khơng dựa vào phần thưởng và hình phạt mà thay vào
đó sử dụng sức mạnh của việc lắng nghe tích cực, xây dựng mối quan hệ và thấu
hiểu trẻ thông qua sự đồng cảm và cơng nhận để thúc đẩy các hành vi tích cực.
- Kỷ luật tích cực là một biện pháp giáo dục hoàn toàn khác với lối giáo
dục truyền thống theo kiểu 'địn roi'. Kỷ luật tích cực là động viên, khuyến
khích, hỗ trợ, ni dưỡng lịng ham học dẫn đến ý thức kỷ luật một cách tự giác,
nâng cao năng lực và lòng tin của học sinh vào giáo viên. Kỷ luật tích cực là phi
bạo lực về cả thể xác lẫn tinh thần, là một q trình thường xun, liên tục và
nhất qn, thơng qua đó khuyến khích khả năng tư duy, lựa chọn của học
sinh. heo lời dạy của Bác Hồ: “ Có tài mà khơngcó đức là người vơ dụng, có đức

mà khơng có tài làm việc gì cũng khó” .
- Tạo cho phụ huynh học sinh tin tưởng vào năng lực giáo dục của tập thể
sư phạm, yên tâm khi gửi con em mình đến trường để học vì nơi ấy có tấm lịng
bao dung và sự dạy dỗ nhiệt tình của đội ngũ thầy cơ giáo. Tạo cho địa phương
nhiều công dân tốt để đáp ứng nguồn lực trong tương lai và là trung tâm văn hóa
ở địa phương.Thu hút học sinh đến trường với phương châm: “ Mỗi ngày đến
trường là một ngày vui”. Vậy sao hôm nay đây,bản thân chúng ta đang là những
nhà giáo dục,tại sao lại khơng gieo vào tâm hồn các em những hình ảnh tốt,
hướng đến sự phát triển hoàn thiện về nhân cách và đạo đức của mỗi học sinh.
Ngày nay, các em chịu nhiều áp lực từ việc học, sự kỳ vọng của người
1

skkn


lớn, thiếu kiến thức pháp luật, thiếu kỹ năng sống,thiếu sự định hướng đạo đức,
cộng với sự bùng nổ của cơng nghệ thơng tin và mạng xã hội;gia đình thì sắm
điện thoại riêng cho con nhưng không quản lý,quán net, tiệm game thì nhiều. Bố
mẹ vì cuộc sống mưu sinh nên thường đi làm ăn xa, gửi con lại cho ông bà chăm
nom… Điều đó làm các em sao nhãng việc học hành, lời ăn tiếng nói với người
hơn tuổi, với thầy cơ đơi khi khơng bình thường. Vì vậy các em thường khó bảo,
hay quậy phá trong các giờ học, hay bỏ học hoặc nghỉ học khơng có lý do. Chất
lượng giáo dục về đạo đức và học tập vì thế mà giảm xuống. Qua quan sát thì
đa số các em diện học sinh đã có học lực yếu đều liên quan đến đạo đức chưa
tiến bộ, các em ngoan nhưng chưa có cố gắng trong học tập hoặc khả năng hồn
thiện bản thân có hạn. Cho nên muốn nâng cao chất lượng giáo dục đại trà thỉ
cần có cách tác động vào nhóm học sinh này, để các em biết nghe lời khuyên
bảo của thầy cô, biết trân trọng tình cảm của bạn bè và gia đình. Được như vậy
các em sẽ tiến bộ, sẽ học tốt hơn để mỗi giờ lên lớp của thầy cô sẽ ý nghĩa, nhẹ
nhàng và vui vẻ hơn.

Nhưng việc đó khơng phải một sớm một chiều mà làm ngay được và giáo
dục các học sinh chưa ngoan kia bằng cách nào. Đây chính là trăn trở của bản
thân tơi và nhiều đồng nghiệp khác. Ngày nay khi đối mặt với các học sinh chưa
ngoan các thầy cô hành động như thế nào đây. Roi vọt như ngày xưa thì vi phạm
đạo đức nhà giáo, cịn qt mắng lại càng khơng được và cịn ảnh hưởng đến
hình ảnh người thầy. Vậy người giáo viên cần có cách tiếp cận, ứng xử và “ giáo
dục kỷ luật ”học sinh một cách tích cực ở trường như thế nào để giúp các
em tiến bộ đây?.
Qua các xem xét tìm hiểu của cá nhân, tham dự các lớp học chuyên đề,
tìm hiểu qua đồng nghiệp, cũng như các văn bản chỉ đạo điều hành hướng dẫn
các hoạt động giáo dục trong năm học của các cấp quản lí. Tơi khơng thấy đề
cập đến phương pháp giáo dục, giúp đỡ học sinh chưa ngoan hay các kinh
nghiệm khi lên lớp hoặc làm chủ nhiệm lớp có đối tượng học sinh này. Tôi thấy
đây là một lỗ hổng rất đáng được quan tâm vì xã hội ngày càng phức tạp, tỉ lệ tội
phạm vị thành niên ngày càng gia tăng trong những năm qua, các tệ nạn xã hội
đang tấn cơng vào người trẻ trong đó có những học sinh lứa tuổi THCS như: ma
túy đá, nghiện game, trộm cắp, hiếp dâm.. .
Với tất cả lí do trên tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm “ Một số
phương pháp kỷ luật tích cực trong dạy học và giáo dục học sinh ở trường
THCS Tế Lợi – Nông Cống ” . Đây cũng là cơ hội để tôi được nói lên suy nghĩ
của mình và đi tìm một sự đồng cảm, sự chia sẻ ở các đồng nghiệp, qua đó thể
hiện mong muốn được trao đổi phương pháp giáo dục HS chậm tiến trong chính
lớp tơi chủ nhiệm và nhà trường nơi tơi đang cơng tác. Từ đó để bản thân làm tốt
hơn công tác giáo dục nhân cách, đạo đức và con người của học sinh trong nhà
trường hiện nay.
2

skkn



2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, hồn thiện đề tài rồi áp dụng để giảm số lượng và tỉ lệ học
sinh chậm tiến ở trong trường THCS Tế Lợi nói riêng. Qua đó tơi cũng muốn
trao đổi kinh nghiệm với các đồng chí trong cùng trường. Góp phần làm giàu
thêm các tài liệu về kinh nghiệm giáo dục các học sinh cá biệt, chưa ngoan, góp
một phần nhỏ trong việc định hướng nhân cách và qua đó giảm tỉ lệ học sinh,
thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, phạm tội trong nhà trường và ngoài xã hội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Tâm lí lứa tuổi đặc trưng của học sinh THCS.
- Nhân cách và sự ảnh hưởng nhân cách người thầy đến học trò . Tổng kết
các kinh nghiệm và cách ứng xử với học sinh chưa ngoan đạt hiệu quả cao.
- Một vài tình huống mà tơi đã trải nghiệm với học sinh qua các năm học ở
trường.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Học sinh chậm tiến, vi phạm kỷ luật của trường THCS Tế Lợi.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập và xử lý thơng tin
- Đọc và tìm hiểu qua tài liệu, sách báo
- Qua các modul của chương trình BDTX (Modul 1,2, 3…- trong năm học
2021 – 2022 ) khi xây dựng cơ sơ lí thuyết.
- Nói chuyện, quan sát, lắng nghe, tìm hiểu đối tượng học sinh qua bạn bè,
hàng xóm, người thân, bố mẹ,cán bộ thơn xóm,… khi khảo sát thực tế, thu thập
thơng tin, thống kê xử lí số liệu thu thập được.
Trong q trình nghiên cứu tơi đã sử dụng một số phương pháp sau:
a. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, khai thác thông tin khoa học về các phương pháp dạy học có hiệu
quả, các thông tin thông qua các tài liệu liên quan đến đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục để thực hiện đề tài.
b. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế

Thơng qua q trình giảng dạy, bằng chun mơn, nghiệp vụ của mình tơi đã
điều tra , khảo sát thực tế để nắm bắt tình hình học tập của học sinh, từ đó phục
vụ cho q trình nghiên cứu của đề tài.
c. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
Từ việc nghiên cứu các nguồn tài liệu, các đồ dùng trực quan, các kết quả
trong quá trình khảo sát thực tế tôi tiến hành thống kê, xử lý số liệu để lựa chọn
thông tin phù hợp với đề tài nghiên cứu.
d. Phương pháp so sánh, đối chứng
e. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục của học
sinh.
f. Phương pháp tổng kết và đúc rút kinh nghiệm…
3

skkn


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
1.1.Đặc điềm tâm sinh lí của lứa tuổi học sinh THCS
Do đặc thù của sự phát triển tâm sinh lí lứa tuổi, các em đang tập làm
người lớn, lứa tuổi này được phản ánh bằng các tên gọi khác nhau như: “ Thời
kì q độ", “Tuổi khó bảo", "Tuổi khủng hoảng”, “Tuổi bất trị"…. Hầu
hết mọi thầy cô chủ nhiệm đều biết đến điều này nhưng cách tiếp cận và ứng xử
thì khơng nhiều thầy cơ thành cơng như mong đợi. Ở những thầy cô thất bại
trong công tác quản lí và giúp đỡ học sinh thì ít chịu đổi mới cơng tác chủ
nhiệm,bỏ mặc, cịn dập khn giáo điều, ln cho mình cái quyền được đúng, ít
lắng nghe và tìm hiểu nguyện vọng của học sinh, khơng đặt mình vào vị trí của
các em và nhớ về tuổi đi học của mình để hiểu được các em hơn. Hầu hết các
thầy cô chỉ đưa ra yêu cầu dạng mệnh lệnh hoặc bắt một đứa trẻ phải mang một
tính cách của người lớn. Vì khi thấy các em sai đã vội vàng kết luận và trách

phạt mà không cho các em cơ hội được nói, được sửa sai. Điều này chẳng khác
gì bắt người lớn chúng ta phải mang tính cách của một đứa trẻ.
1.2. Ảnh hưởng của tấm gương, nhân cách của người thầy đối với sự
hình thành nhân cách học trò
Trong các hoạt động giáo dục và giúp đỡ học sinh chưa ngoan thì người
thầy phải là nhà thực hành trong các hoạt động thực tiễn.Tuyệt đối tránh tình
trạng nói có nhưng đi đơi với khơng làm hoặc nói sng. Ví dụ như có hiện
tượng là nhà trường có nội quy là giáo viên khơng được sử dựng điện thoại khi
lên lớp, học sinh không được sử dụng điện thoại khi đến trường vậy mà giáo
viên vẫn có người sử dụng khi lên lớp, hỏi vậy thì sao nói được học sinh. Khi
trách phạt bằng giao việc cho học sinh nhưng không kiểm tra cẩn thận, không
chỉ ra được học sinh làm tốt, học sinh chưa hồn thành. Phạt học sinh vi phạm
cần tránh hình thức phạt bằng tiền. Chỉ có lao động và thơng qua lao động thì
con người ta nói chung và những học sinh chưa ngoan của chúng ta nói riêng,
mới thấm nhuần được tinh thần của giáo dục - giáo dưỡng. Một người thầy khơn
khéo sẽ chọn thời điểm có thể lao động cùng học sinh, để qua đó nắm bắt tâm tư
tình cảm, tạo dựng các mối liên hệ tin tưởng lẫn nhau giữa thầy và trò. Khi giáo
viên đã được học trị tin tưởng, tin u rồi thì cơng việc chủ nhiệm sẽ nhẹ nhàng
hơn rất nhiều.
Nhà giáo dục K.Dushinsk từng viết: “Khơng cịn nghi ngờ gì, kỷ cương
trong nhà trường có vai trị to lớn, nhưng điều chủ yếu, quvết định vẫn là ở nhân
cách của người giáo viên trực tiếp làm việc với học sinh. Nhân cách của nhà
giáo dục có sức mạnh to lớn đối với học sinh đến mức không thể thay thế bằng
sách giáo khoa, những lời khuyên bảo về đạo đức, hệ thống khen thưởng và kỷ
luật nào cả” (K.Dushinsk - Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam.)

4

skkn



1.3 .Kỉ luật, kỉ cương của các thầy cô đối với học sinh hiện nay
Phương pháp xử lý kỷ luật học sinh tiêu cực và tích cực

Để làm được tốt công tác giáo dục của một người giáo viên càng cần lắm
một tình thương nhiều hơn với học trị. Cần thương học sinh như con em mình,
coi các em và bản thân mình là một khối thống nhất khơng thể tách rời, như một
gia đinh thứ 2 vậy. Mỗi việc làm, mỗi hành động, mỗi lời nói của giáo viên đều
tác động đến học sinh.Các em cũng đã biết nhận xét đánh giá, so sánh khá sâu
sắc về mỗi việc giáo viên đã làm, mặc dù chẳng bao giờ chúng ta nghe được
điều đó.
Vậy nên mỗi giáo viên hãy chọn cách làm sao cho các em được nhận
những điều tốt đẹp nhất. Đó chính là sự nghiêm khắc, chuẩn mực của người giáo
viên, sự công bằng và minh bạch trong các quyết định, không bao che lỗi lầm
của học sinh. Giáo viên cần tạo cơ hội để học sinh sửa sai, kết hợp uốn nắn và
động viên kịp thời, biết dùng lời khen khi học sinh có tiến bộ dù là nhỏ nhất.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

HS trường THCS Tế Lợi sau buổi ngoại khóa
HS trường THCS Tế Lợi sau buổi ngoại khóa

2.1. Thực trạng chung
Ở trường THCS Tế Lợi hầu hết học sinh đều là con gia đình nơng dân,
nhiều gia đình vì điều kiện kinh tế phải đi làm ăn xa nên việc phối hợp giáo dục
học sinh giữa nhà trường và gia đình gặp nhiều khó khăn, việc thơng tin tình
hình học tập của học sinh từ nhà trường đến gia đình khơng kịp thời và gián
đoạn. Mặt khác trong những năm gần đây do chịu ảnh hưởng lớn từ mặt trái
cuộc sống và môi trường xã hội phức tạp đã tác động tiêu cực đến một bộ phận
khơng nhỏ học sinh có suy nghĩ lệch lạc, đua địi, ăn chơi, sống thiếu tích cực.
Trường THCS Tế Lợi đã gặp khơng ít khó khăn trong cơng tác giáo dục tồn

diện, nhất là giáo dục đạo đức. Dẫu khơng nhiều nhưng vẫn có một số em có
biểu hiện như vô lễ với thầy cô, người lớn, tự do thực hiện hành vi cá nhân : hút
thuốc, ức hiếp bạn bè gây ra bạo lực học đường, lôi kéo bạn về phía mình để
thành số đơng, tạo các nhóm mâu thuẩn kích bác lẫn nhau tạo sự mất đồn kết
xảy ra xung đột giữa các nhóm, gây mất trật tự trong giờ học mang tính tập thể,
bao che những học sinh vi phạm gây khó khăn cho việc điều tra, bỏ giờ trốn tiết
5

skkn


đi chơi game, những việc trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến nề nếp dạy học, kỷ
cương, uy tín nhà trường. 
Từng ấy học sinh là từng ấy hoàn cảnh, điều kiện sống, từng ấy cách giáo
dục con cái khác nhau của mỗi gia đình. Tập hợp các em lại trong một tập thể
lớp, hướng dẫn, giáo dục các em để cùng nhau nhìn về một hướng, cùng đồn
kết - u thương, học tập và tiến bộ. Công việc như vậy để làm tốt thì thật sự là
khơng dễ dàng với người giáo viên . Nếu giáo viên chủ nhiệm không biết tự làm
mới cơng việc chủ nhiệm thì quản lí lớp sẽ rất vất vả. Nếu lớp mà cịn có vài học
sinh chưa ngoan, hay phạm lỗi hay vi phạm kỉ luật thì thực sự là mệt mỏi vơ
cùng.
2.2. Thực trạng với học sinh
Giúp đỡ, giáo dục và quản lí học sinh hiện nay đang là vấn đề có nhiều khó
khăn với cơng tác chủ nhiệm ở trường phổ thơng nói chung và trường THCS nói
riêng. Kinh tế xã hội nước ta hiện nay có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống
nhân dân được nâng cao. Các hoạt động văn hóa giải trí, truyền thơng ngày càng
nở rộ. Mặt trái là học sinh ngày nay quan tâm nhiều đến trò chơi điện tử, mạng
xã hội, điện thoại di động, kỹ năng sống còn hạn chế. Chuyện say mê đèn sách
ngày càng ít dần đi với một số bộ phận học sinh. Hằng ngày, hằng giờ mối quan
tâm của một số không nhỏ học sinh THCS là lên facebook đăng ảnh, bình luận,

nhắn tin cho nhau. Một số em còn dùng cách nói trên mạng vào ngơn ngữ đời
sống thực, ít quan tâm đến bạn bè, thầy cô và những người xung quanh vì q
chú tâm vào cuộc sống ảo. Có nhiều em học sinh nam thì ham vào chơi điện tử.
Ban đầu các em chỉ chơi tranh thủ sau mỗi buổi đi học về, sau thì bỏ cả học, bỏ
cả việc nhà để chơi, chơi thấu ngày đêm, nhiều gia đình phải đi tìm con trong
các qn đó... Càng ngày, tính cách những em này trở nên khó bảo, khó gần, dễ
nổi nóng với bạn bè và có khi cả với thầy cơ và người thân trong gia đình . Thực
tế ở địa bàn xã Tế Lợi hiện nay có một số không nhỏ các em lứa tuổi THCS đã
phải đối mặt với những khó khăn khơng phù hợp với lứa tuổi của mình. Đó là
cha mẹ đi làm ăn xa, một hai năm mới về một lần…các em được gửi ở với ông
bà nên mọi sinh hoạt được “tự do - tự tại’’ quá sớm. Từ đây đã có những em
có hành vi, thái độ chưa ngoan, hay vi phạm nội quy ,bị nhắc nhở về ý thức kỉ
luật và nề nếp của lớp, của trường, thậm chí cả ở địa phương.
Bởi những thực trạng trên mà chất lượng của những năm trước cịn tương đối thấp.
Điều đó thể hiện qua bảng số liệu sau:

Năm học
Trung
Giỏi
khá
Yếu
Kém
Kết quả
bình
2019 - 2020
1%
10%
67%
18%
4%

2020- 2021
2%
15%
69%
12%
2%
Từ thực trạng trên nhiều năm trăn trở suy nghĩ đây khơng phải là mơn học
khó vậy tại sao học sinh khơng thích học. Phải chăng do cách tổ chức giờ học
chưa thực sự phù hợp. Những năm gần đây nhà trường phân công giảng dạy
6

skkn


môn học tôi đã ứng dụng tất cả các phương pháp bộ môn và các phương pháp
mới đã làm thay đổi căn bản cách suy nghĩ, cách học của học sinh cũng như
bước đầu đem lại hiệu quả. Một trong những phương pháp đó là sử dụng hình
ảnh minh họa để dẫn dắt học sinh đến với nội dung bài học. Nhiều năm nay tôi
đã ứng dụng thành công phương pháp trên xin được giới thiệu để bạn bè cùng
tham khảo: “ Một số phương pháp kỷ luật tích cực trong dạy học và giáo dục
học sinh ở trường THCS Tế Lợi – Nông Cống ”.
2.3.Thực trạng đối với giáo viên
Phải nói thật rằng cơng tác giáo dục của giáo viên gặp hiện nay cịn gặp
nhiều khó khăn . Muốn làm tốt cơng tác giáo dục học sinh tích cực cần một tấm
lịng, một tình u thương, sự thấu hiểu, tình thương và cảm thơng với học trị
thì khơng cịn có việc gì là khó nữa. Ngồi ra các giáo viên đứng lớp cũng cần
phải “đều tay”, thống nhất cùng nhau, tránh tình trạng giờ cơ A thì học sinh học
đâu ra đấy,giờ cơ B thì lại ồn như chợ vỡ do cơ B non tay trong qn lí giờ dạy.
Mỗi giáo viên khi xử lí tình huống với học sinh chưa ngoan cần đặt mình vào
hồn cảnh của các em,để hiểu rồi mới cảm hóa giáo dục được chính các em .

3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề

Hoạt động ngoại khóa của trường THCS Tế Lợi

Qua kinh nghiệm thực tế và những quan điểm đã được trình bày ở trên, tôi
xin đưa ra một vài giải pháp cá nhân hằng mong nhận được sự trao đổi, đóng
góp ý kiến của các đồng nghiệp cùng cơ quan và các cấp quản lí trong ngành
giáo dục.
3.1. Giải pháp 1: Xây dựng và đặt niềm tin, tạo mối quan hệ tốt với từng
học sinh
Tìm hiểu rõ đặc điểm cá nhân học sinh thơng qua giáo viên chủ nhiệm.
Bạn hãy nói chuyện tập thể hoặc nói chuyện riêng, kết hợp với đến chơi và thăm
gia đình một vài học sinh cần đặc biệt qua tâm. Tại sao có những giáo viên họ
rất nhẹ nhàng, không bao giờ nghe thấy họ quát mắng hoặc la rầy học sinh, họ
7

skkn


dễ dàng truyền đạt những mong muốn hay ý kiến chỉ đạo đến học sinh,để có
được điều đó bạn phải tạo dựng được sự tin tưởng của học sinh. Bạn là người
mà không bao giờ đặt học sinh xuống dưới bản thân. Giáo viên phải đặt học trò
và nhân cách của các em lên trên bản ngã cá nhân mình, qua đó để hiểu các em
nhiều hơn và cùng là để các em hiểu thầy (cô) được đầy đủ hơn. Nên sử dụng
các câu hỏi như: Tại sao em thường hay đến trường muộn vậy? Em không
nghe lời thầy (cô), vậy em có lí do gì khơng? Tại sao em hay vi phạm nội
quy của lớp của trường như thế?,... Để nghe được các câu trả lời thành thật thì
người giáo viên phải được học sinh tin tưởng. Có một thực tế, trong nhiều tình
huống học sinh vi phạm đang trình bày theo u cầu của thầy (cơ), đến phần

giáo viên cho rằng em ấy khơng nói thật nữa thì lại cho dừng kèm những câu nói
như: Thơi thơi tơi hiểu rồi, thơi anh (chị) khơng cần nói nữa, anh (chị) tưởng
tơi khơng biết sao mà nói như vậy, ...Như vậy giáo viên đã tự để mất một cơ
hội để hiểu học trị hơn. Có thể giáo viên biết là học sinh đang nói sai nhưng hãy
cố gắng để nghe hết câu chuyện. Sau đó nói với em đó rằng từ nãy đến giờ thầy
(cô) đang muốn nghe câu chuyện thật của em cơ, câu chuyện đó khác câu
chuyện em vừa kể.
Tôi muốn kể ra ở đây câu chuyện đã xảy ra vào năm 2021. Năm học
2020-2021 tại trường Tế Lợi, lớp tơi có em Nguyễn Thị Chi. Trong q trình
học, qua phản ánh của các học sinh thì bạn ấy thường xun khơng tham gia
trực nhật với tổ vì hay đi muộn. Tơi cũng có nhắc nhở nhưng qua theo dõi thì
tình hình khơng có thay đổi gì. Em vẫn trả lời tôi và cả lớp là không thể đi sớm
được. Tơi đã quyết định cùng lớp trưởng tìm hiểu qua bạn bè và đến thăm nhà
em Chi thì thấy hồn cảnh rất khó khăn. Bố, mẹ đi làm thuê xa, bà nội thì đau
yếu. Một mình em lo toan mọi việc trong gia đình. Tơi đã rất xúc động với
những khó khăn mà em đang phải gánh vác. Mỗi sáng phải lo cơm, cháo cho bà
nội,cho đứa em cịn nhỏ, rồi cơng việc nhà buổi sáng... Tơi đã hiểu vì q nhiều
việc nên em khơng thể kịp đi trực nhật được. Sau đó,tơi đã đưa câu chuyện của
em Chi ra trước lớp và lớp trưởng cùng với các bạn trong lớp bàn bạc lên kế
hoạch giúp đỡ em. Về sau này em Chi đã rất tiến bộ. Tôi hiểu các học sinh của
tôi đã hiểu tôi và cảm thông với bạn từ đây.
Kinh nghiệm được rút ra là: Để được học sinh tin tưởng, để có được
mối quan hệ tốt với học trò, để học trò biết lắng nghe bạn nói, hiểu những điều
bạn mong muốn và truyền đạt, thì bạn phải biết lắng nghe và thấu hiểu học
trị,đó cũng là điều kiện cần phải có của mỗi giáo viên chủ nhiệm.
3.2 Giải pháp 2: Trách phạt và kỉ luật học trị vi phạm thì người giáo
viên chủ nhiệm cần phải đặt trách nhiệm cá nhân của mình vào trong dó
Cái cần được hiểu và nói rõ trách nhiệm ở đây là một sự tự nguyện có chủ
định của người giáo viên, chứ khơng phải vì áp lực của một bên nào đó. Khi lớp
bạn có học sinh bị nhắc nhở, đánh nhau hoặc vi phạm nội quy bị lớp hoặc nhà

trường kỉ luật,... người giáo viên cần cư xử như thế nào với học sinh đó. Tất cả
8

skkn


những cách đó vẫn được nhiều giáo viên áp dụng trong thực tế tại các trường
hiện nay. Nó tạo ra niềm tin với những giáo viên rằng mình đã làm đúng và đó
là sự lựa chọn khơn ngoan. Đúng, điều đó dễ dàng có kết quả với những học
sinh khơng có cá tính mạnh, những học sinh vi phạm lần đầu hoặc những học
sinh có nề nếp gia đình cơ bản. Cịn với những học sinh có cá tính mạnh mẽ, cái
tôi cá nhân bộc lộ sớm nếu học sinh này vi phạm thì đây là những học sinh khó
bảo, “cứng đầu”. Giáo viên mà áp dụng những cách làm trên thì chắc chắn
khơng hiệu quả và là một thất bại được báo trước. Điều giáo viên cần làm lúc
này là tạo ra tình huống để người học sinh đó thấy rằng thầy (cô) của em cũng là
một người bạn, người sẵn sàng chia sẻ những gì mà em sẽ phải trải qua khi vi
phạm kỷ luật. Tình huống này chỉ giáo viên và học sinh đó biết để em ấy khơng
phải xấu hổ với bạn bè, đó cũng là cách chúng ta tơn trọng nhân cách học trị.
Câu chuyện tôi muốn chia sẻ là: Năm học 2019-2020 tôi được phân công
chủ nhiệm lớp 8A. Tôi biết rằng trong lớp có nhiều học sinh đặc biệt cả về nhân
cách và hồn cảnh gia đình. Trong lớp tơi chú ý vào học sinh Nguyễn Văn Đạt,
tìm hiểu tơi biết bố mẹ em đi làm ăn xa, gửi em cho ông bà nội gìa yếu nên
khơng quản lý được. Em Đạt thường xun tự do - tự tại một mình,ít ở nhà và
thường xun đi chơi, học hành thì chểnh mảng, khơng tập trung, ít học bài cũ,
ít và thậm chí khơng làm bài tập ở nhiều mơn học . Có hơm tôi gọi em lên bảng
kiểm tra bài cũ, vở ghi, vở bài tập thì em đi lên và khơng có vở gì cả, em cịn
nói: “Em khơng học bài cũ, cũng khơng có vở gì cả cơ à”. Tơi thực sự giật
mình vì sự khơng nghiêm túc của em, nhưng tơi vẫn giữ vẻ bình thản và nói nhỏ
“Nghĩa vụ của học sinh là học bài và trả bài. Đó là dịp để thể hiện bản thân
trước các bạn.Em nói như thế là không được rồi. Hôm nay cô không kiểm

tra em nữa nhưng cô sẽ cho em cơ hội và kiểm tra vào tiết học sau”. Tơi
nghĩ đó chính là tạo cơ hội để học sinh sửa sai và cho học sinh tự tìm thấy niềm
vui trong học tập. Và tiết học sau em Đạt đã tự nguyện xung phong lên bảng trả
bài, vở ghi, vở bài tập đầy đủ.
Kinh nghiệm đưọc rút ra là: Mỗi người thầy, người cơ nên tạo lơí
mở với học trị,để học sinh tự nguyện trao niềm tin cho bạn.
3.3 Giải pháp 3: Khen và động viên học sinh kịp thời trước tập thể,
hạn chế chê học trị và tuyệt đối khơng chì chiết hay so sánh học sinh với
một đối tượng nào đó

9

skkn


HS chịu hình thức kỷ luật
HS được tuyên dương
Giáo viên chúng ta đã là người lớn vậy mà một lời khen đúng lúc, nhẹ
nhàng, hợp thời điểm, đúng thực tế bạn còn muốn nghe, huống chi là một đứa
trẻ với tuổi bắt đầu trưởng thành. Thực tế chỉ ra rằng một lời khen đúng thời
điểm, kịp thời với học sinh có tác dụng rất to lớn, nó thúc đẩy con người ta
muốn làm thêm nhiều việc tốt nữa để được ghi nhận và khẳng định giá trị bản
thân.
Nhưng thực tế có bao nhiêu giáo viên đã hành động theo cách này. Khi
một học sinh thực hiện tốt nội quy, hoàn thành tốt cơng việc được giao thì bạn
lại cho rằng đó là việc học sinh đó phải làm. Khi giáo viên phạt một học sinh và
khi em ấy hoàn thành thì bạn nghĩ rằng em ấy xứng đáng phải bị phạt như vậy,
thay vì một lời khen và động viên thì bạn nói với học sinh rằng nếu cịn tái phạm
tơi sẽ phạt nặng hơn vì bạn nghĩ răng như vậy sẽ đe dọa được học sinh này. Bạn
đã sai vì như vậy chỉ làm cho học sinh ấy chai sạn và bất hợp tác với bạn trong

những lần sau. Để tạo điều kiện cho các em chưa ngoan được thể hiện mình và
được khen bạn hãy giao những việc từ nhỏ nhất, để các em dần tham gia vào các
cơng việc của tập thể, qua đó nhằm hình thành tinh thần và trách nhiệm với tập
thể lớp và với thầy cô.
Trong một dịp nhà trường tổ chức hội nghị.Lớp tơi được phân cơng lau
dọn,vệ sinh cho phịng họp. Trong q trình phân cơng cơng việc,trong lớp có
em Nguyễn Văn Đức, trước đây cùng là một học sinh khó bảo,có biểu hiện
“cứng đầu”. Nhưng trong khi phân công, em đã tự nguyện xung phong mang
dụng cụ lau nhà từ nhà mang đến và làm việc một cách rất tự giác và có hiệu
quả. Sau khi cơng việc kết thúc, khi nhận xét hiệu quả của cơng việc, tơi đã nói
trước tòan tập thể lớp : "Nếu mỗi bạn nghĩ cho tập thể một chút, bớt tự ái cá
nhân của mình đi một chút,đừng tị nạnh hơn kém nhau thì mọi công việc
của lớp sẽ suôn sẻ đi nhiều. Bạn Đức lần này làm cơ thấy rất vui và hài lịng
vì tinh thần với tập thể. Cô rất mong em và các bạn trong lớp hãy ghi nhớ
những việc mình đã làm, rồi hãy cố gắng làm tốt hơn ở những lần sau".
Trong các buổi lên lớp, các buổi sinh hoạt lớp, nói chuyện ngồi giờ, sinh
được những mặt tích cực và hạn chế cần khắc phục của từng học
sinh, sau đó mỗi cuối tuần bạn phải tự tổng hợp và có đưa ra nhận
xét sát đúng với từng vấn đề và những học sinh mà bạn đang quan
tâm. Điều này cũng không mất nhiều thời gian như chúng ta vẫn
nghĩ. Giáo viên cần phải khéo léo lồng ghép khen trước và nếu cần
chê thì phải chê sau.
Kinh nghiệm được rút ra là: Trong dạy học cũng như trong cuộc
sống, mỗi người, mỗi học sinh đều có điếm tốt, điểm xấu riêng. Chúng ta là
những nhà sư phạm thì cần tìm ra điểm tốt ở mỗi học sinh, tăng cường khen và
động viên kịp thời đê các em phát huy điểm tốt đó. Đồng thời cũng chỉ ra cái
chưa tốt và hướng khắc phục - giúp đỡ để các em hoàn thiện. Mỗi khi người
10

skkn



giáo viên đứng trước học sinh thì cần tỏ thái độ nghiêm túc mà gần gũi, hòa
đồng mà trang trọng, tuyệt đối tránh hiện tượng quát mắng học trò và dùng
những lời nói khơng trong sáng hoặc so sánh học trị với những đối tượng hay
con vật nào đó. Cũng khơng thể dễ dãi với học sinh, tình thương và sự mong
muốn học trị tiến bộ khơng có chỗ cho sự dễ dãi hoặc như câu nói của ơng cha
thường nói là: “Cá mè một lứa”. Nếu khơng bạn sẽ bị học trò chi phối. Đã bao
nhiêu lần mà bạn nói học sinh khơng nghe, bạn đưa ra u cầu mà học sinh
không thực hiện,... bạn cảm thấy bị bất lực với một hoặc vài học sinh nào đó.
Khi đó sức mạnh, cái uy cần có của một giáo viên chủ nhiệm của bạn đã bị mất
và bạn không quản lý được lớp chủ nhiệm theo cách tốt nhất
3.4 Giải pháp 4: Giáo viên phải biết chấp nhận và có lòng yêu thương
hoc sinh

HS vi phạm kỷ luật
Frank McCourt - một thầy giáo người Mỹ (người từng đoạt giải nhà giáo
của năm 1967 đông thời là chủ nhân của giải Publitzer năm 1996) trong hồi ức
đồng thời là tác phẩm văn học “Người thầy” đã kể: Trường hướng nghiệp nơi
thầy dạy được xem là “bãi rác” cho những học sinh khơng đủ trình độ vào
trường Trung học bình thường. Ngày nhận lớp cùng là ngày thầy đứng quan sát
chúng quậy phá, la ó... đủ kiểu. Cao điểm là lấy bánh mì ném nhau và một học
sinh lên tiếng: “Để xem tay thầy giáo mới này sẽ làm gì?”. Frank McCourt nói
ơng cố nghĩ về những kiến thức được học ở Trường ĐH Sư phạm New York để
tìm cách đối phó. Tiếc là chỉ có những triết lý giáo dục, các mệnh lệnh đạo đức
và ln lý, mà khơng có cách giải quyết tình huống... “ném bánh mì”. Cuối
cùng, ơng quyết định... ăn chiếc bánh mì. Ơng viết: “Đó là hành xử đầu tiên của
tôi trong lớp. Cái miệng đầy bánh của tôi thu hút sự chú ý của cả lớp. Chúng trố
mắt nhìn tơi đầy nét thán phục... Tơi nghĩ, tôi đã nắm được chúng trong tay...”.
Kinh nghiệm được rút ra là: Đôi khi chúng ta phải hi sinh cái tơi cá nhân

của mình, chấp nhận thực tế bằng lịng u thương chứ khơng phái bằng sự chán
chường. Bạn có thể mệt mỏi nhưng không được bi quan, ca thán hay bỏ cuộc.
Bởi nếu bạn thành cơng thì ý nghĩa giáo dục, thành quả bạn thu được là rất to
lớn. Người học sinh mà bạn cảm hóa bằng tình thương sẽ không quên được bạn
trong hành trang vào đời của em ấy.
11

skkn


3.5 Giải pháp 5: Sử dụng sức mạnh của ánh mắt và ngôn ngữ trong sáng
của tiếng Việt đê tạo ra sức mạnh về hình ảnh và cái uy của người thầy
trong tâm trí học trị.

Cơ trị cùng học
Sử dụng sức mạnh của ánh mắt - “cửa sổ tâm hồn”. Có thể ít giáo viên nói
chung và giáo viên chủ nhiệm nói riêng để ý đến điều này. Đơi mắt là “cửa sổ
của tâm hồn” nó có sức mạnh bằng cả ngàn lời nói. Người giáo viên nên tập sao
cho học sinh của bạn hiểu những mong muốn của bạn qua ánh mắt, muốn vậy
bạn cần nói rõ điều này cho học sinh của bạn được biết. Tôi thường xuyên nói
với học sinh của mình rằng hãy nhìn vào ánh mắt của thầy cô để hiểu điều thầy
cô đang mong muốn. Bạn cần tập sao cho phát huy hết sức mạnh của nó, dùng
đơi mắt và ánh mắt bạn nhìn học sinh để điều khiển và truyền tải thông tin mà
bạn muốn học sinh thể hiện. Khi người giáo viên làm tốt được điều này thì bạn
sẽ nhẹ nhàng đi rất nhiều trong cơng tác chủ nhiệm lớp. Ví dụ như: Bạn vào lớp
mà thấy học sinh đang không nghiêm túc, bạn nên dừng bài rồi đưa mắt về phía
đó, bạn chỉ mất 30 giây để làm cho học sinh đó trở lại bình thường mà khơng
mất một lời nào. Đó là sức mạnh của ánh mắt và sự im lặng, sự im lặng của thầy
cô là điều đáng sợ nhất với học trị. Tơi có nghe và để ý thấy có một vài thầy cơ
nếu vào lớp mà học sinh chưa nghiêm túc, thì cầm thước gõ xuống bàn hay đập

lên bảng, những tiếng kêu phát ra nghe rất khó chịu cho học sinh và cả giáo viên
lớp bên. Nếu giáo viên đó vẫn giữ thói quen này thì mãi mãi bạn phải sử dụng
nó vì bạn đã tập cho học sinh thói quen và cái “phản xạ có điều kiện” này. Để
có được sự nghiêm túc, giúp đỡ và dạy dỗ được những học sinh chưa ngoan
trong một tập thể lớp, người thầy người cô cần phát huy tối đa ánh mắt và ngơn
ngữ của mình. Đây là một gợi ý nhỏ của tôi: Khi bạn bước vào lớp, đây là
khoảnh khắc quan trọng nhất của thầy và trị trong một tiết học và có khi là cả
12

skkn


ngày đi dạy của bạn. Bạn đừng chào học sinh một cách cho có, một số giáo viên
khi vào lớp học sinh còn đang đi lại tự do, học sinh đang lau bảng hay đang
quay xuống và có cả học sinh còn chưa đứng dậy mà đã cho học sinh ngồi
xuống. Điều này bạn vơ tình đã tập cho học sinh thói quen xấu là ít tập trung vào
những việc các em đang thực hiện. Vậy thì khi giảng bài bạn sẽ mong học sinh
học như thế nào. Điều bạn cần làm nhân cơ hội này là truyền tải một thông điệp
đến cho những học sinh cả lớp rằng bạn là một người nghiêm túc, tập trung vào
việc mình đang làm và ln địi hỏi học sinh của mình cũng như vậy, ở đây
khơng có sự dễ dãi. Muốn như vậy khi vào lớp bạn nên sử dụng khoảng 25 đến
30 giây để đưa mắt quan sát tất cả các ánh mắt các em đang nhìn bạn, em nào
đang chưa nghiêm túc bạn hãy dừng ánh mắt ở đó và tỏ ra khơng hài lịng (cần
phải nói), tơi chắc chắn rằng qua một vài buổi bạn sẽ nhận được kết qủa tích cực
từ học sinh. Bạn cho các em ngồi và nói rằng lần sau khi đứng chào thầy các em
nên nhìn vào mắt thầy cơ vì khi đó thầy cơ cũng đang nhìn để chào các em, vì
chẳng có ai chào nhau mà khơng nhìn vào mắt nhau hay mặt lại quay đi chỗ
khác cả. Tôi tin rằng bạn sẽ dần đưa nền nếp của lớp vào quỹ đạo mà bạn mong
muốn chỉ bằng vài cách cư xử nhẹ nhàng như vậy.
Sử dụng ngôn ngữ trong sáng của tiếng Việt và chuẩn mực với học trò.

Người giáo viên nên gọi học sinh là “em” hoặc tình cảm hơn là “trò” và trong
mọi trường hợp đều phải xưng là “thầy” hoặc “cô”, tại sao lại phải như vậy ?.
Tôi quan sát các đồng nghiệp quanh tôi khi họ không hài lịng về một việc gì đó
với học sinh, họ thường sử dụng những từ để gọi học sinh không được thích hợp
cho lắm, họ gọi học sinh là anh (chị) và xưng tơi. Hay nặng nề hơn là ví học sinh
là một con vật gì đó..., mới nghe tưởng như vậy là răn đe và dọa nạt được học
sinh, có sức nặng để quy phục học sinh, nhưng theo tôi không phải như vậy.
Giáo viên gọi học sinh là các anh, các chị và xưng tôi thường xuyên, thứ nhất sẽ
khơng phù hợp với học sinh lứa tuổi THCS vì các em vẫn còn chưa đến tuổi
trưởng thành. Thứ hai, gọi như vậy sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh người thầy của
bạn trong tâm trí học trị. Học sinh sẽ nghĩ đến bạn như một người dạy họ chứ
không phải là người thầy đúng như ý nghĩa. Khi bạn gọi học sinh là em (trị) và
xưng là thầy hoặc cơ thì như một lẽ tự nhiên, từ “thầy (cơ)” đã nâng bạn lên một
bậc cao mới mà điều này người khác khơng dễ dàng có được. Người giáo viên vì
vậy dễ dàng truyền đạt dụng ý của mình đến học sinh. Giúp học sinh nhận ra các
mối quan hệ “thầy - trị” và “trị – thầy” cần có trong nhà trường. Nó cũng như
các mối quan hệ cần phải có trong một gia đình vậy. Mặt khác nó cịn giúp giáo
viên tạo ra khơng khí của các buổi nói chuyện hay giáo dục thêm ấm áp, gần
gũi. Bạn đã dùng sức mạnh mềm để đạt được những việc mà bạn mong muốn.
Để có những ví dụ về sự hiệu qủa của ngơn ngữ tác động đến tâm lí học sinh và
sức mạnh vơ hình của nó, ta có thể đối chiếu các câu thường được dùng và các
câu gợi ý thay thế sau đây:
- Anh (chị) ra đây tôi bảo = Em ra đây thầy (cơ) có việc muốn hỏi.
13

skkn


- Hôm nay anh (chị) làm tôi mất mặt với Ban giám hiệu quá = Hôm nay
các em đã làm thầy (cô) không được vui đấy, em hiểu là sao khơng?.

- Anh(chị) cứ nói tơi nghe xem nào = Em có gì để nói và giải thích với
thầy (cơ) khơng, v.v... Ngoài ra khi gọi học sinh là em và xưng thầy (cơ) thì bạn
đã tơn trọng bản thân mình. Tại sao nhà trường, xã hội và chính các em đã ban
cho giáo viên một tiếng thầy (cô) và nhận là trị, giáo viên lại tự mình vứt bỏ nó.
Cũng nói rằng mỗi khi giáo viên dùng những từ ngừ khơng chuẩn mực, thì bản
thân giáo viên cũng khơng được thoải mái. Điều đó chỉ giúp giáo viên giải tỏa
được sự bực dọc và nóng giận khi đó, nhưng hậu quả của nó thì giáo viên phải
dần dần hứng chịu. Đó là sự cứng đầu của học sinh ngày càng rõ nét, bạn dần
nhận ra rằng những lời nói kia ngày càng mất dần sức mạnh và tác dụng, mà lúc
đầu bạn khơng nhận ra điều đó. Tuyệt đối khơng gọi học sinh và sử dụng các từ
ngữ không trong sáng trong nhà trường. Không nên so sánh hai học sinh hoặc
một nhóm học sinh với nhau dưới mọi hình thức. Tốt nhất những lúc nóng giận
giáo viên khơng nên nói gì nhiều và khơng được nói nặng nề với học sinh, chắc
chăn học sinh sẽ bất ngờ và "‘giật mình" với những ứng xử của bạn. Khi đó
giáo viên sẽ dễ dàng hơn trong việc đưa ra các câu hỏi và các yêu cầu với học
sinh vi phạm. Đây là cơ hội để bạn hoàn thiện nhân cách và phát triển ngôn ngữ
ở học sinh.
Kinh nghiệm được rút ra là: Trong giảng dạy và làm chủ nhiệm lớp
ta cần sử dụng nhiều đến ánh mắt và ngôn ngữ, kể cả ngơn ngữ hình thể. Sử
dụng ngơn ngữ hợp lí, trong sáng, lời nói dứt khốt, đúng thời điểm, nói đi đơi
với hành động của thầy (cơ)..., thì sẽ có sức thuyết phục và răn đe đối với học
sinh. Lời nói và hành động của thầy (cơ) phải chuẩn mực, được xuất phát từ
lòng yêu thương và sự chân thành, chỉ khi đó người giáo viên mới ở cái tầm mà
mỗi học sinh khi tiếp xúc đều muốn hướng đến và mới là “Thầy ra thầy-trò ra
trò ”.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
4.1. Đánh giá chung
Như vậy từ khi vận dụng phương pháp trên vào quá trình dạy học, chất lượng
được nâng lên rõ rệt, khác hẳn so với các năm học trước. Học sinh hăng say,

hứng thú trong học tập. Giờ học vừa thoải mái mà lại đạt hiệu quả cao. Đến nay
học sinh không chán học môn học này nữa, các em đã đam mê, có nhiều em đã
đạt giải cao trong kì thi học sinh giỏi cấp huyện và cấp tỉnh tổ chức. Hơn nữa
kiến thức thu được của các em không cịn phiến diện chủ quan mà tăng tính
khách quan. Các em hiểu các vấn đề trở nên sâu sắc, bền vững.
Sau khi áp dụng kinh nghiệm trên trong dạy học mơn Địa lý bản thân cảm
thấy tiết học khơng cịn khơ khan, hiệu quả dạy học có sự thay đổi, học sinh
thích học mơn Địa lý các hoạt động của nhà trường được các em tổ chức hiệu
quả. Các hoạt động dạy và học của thầy và trò trở nên sôi nổi, hứng thú mang lại
14

skkn


những kết quả cao cho nhà trường
4.2. Kết quả cụ thể
BẢNG THEO DÕI CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
Kết quả năm học 2019 – 2020 và năm học 2020 – 2021 khi đã ứng dụng.
Năm học
Trung
Giỏi
Khá
Yếu
kém
Kết quả
bình
2019 – 2020
15 %
35%
50%

0%
0%
2020 – 2021
27%
42%
31%
0%
0%
Sau đây là bảng so sánh kết quả năm chưa áp dụng và năm áp dụng.
Kết quả qua các năm
Xếp loại
Năm học chưa áp dụng
Năm học áp dụng
2017 - 2018
2018 - 2019 2019 - 2020
2020 - 2021
Giỏi
1%
2%
15%
27%
Khá
10%
15%
35%
42%
Trung bình 67%
69%
50%
31%

Yếu
18%
12%
0%
0%
Kém
4%
2%
0%
0%
Cơng tác giáo dục học sinh tích cực ln là vấn đề được các giáo viên
bàn thảo sơi nổi mỗi khi có một vấn đề tiêu cực từ phía học sinh. Sáng kiến kinh
nghiệm này giúp giáo viên giảng dạy và giáo viên trực tiếp làm cơng tác chủ
nhiệm có thêm những cách tiếp cận với học sinh chưa ngoan. Qua đó biết cách
cảm hóa giáo dục các em học sinh này. Giúp các em chậm tiến trở thành những
học sinh ngoan, sau này trở thành những cơng dân có ích cho xã hội. Một tập thể
lớp khơng có học sinh quậy phá, nghịch nghợm, khơng có học sinh có các vấn
đề xã hội thì chắc chắn tập thể đó sẽ vững mạnh. Các em học sinh trong tập thể
đó sẽ tiến bộ từng ngày. Điều này trực tiếp nâng cao chất lượng dạy và học của
lớp nói riêng và của nhà trường nói chung. Có một thực tế trong nhà trường nói
chung và cấp THCS nói riêng là lớp nào có nhiều học sinh quậy phá, khó bảo thì
chất lượng học tập ở lớp đó sẽ khơng cao. Bởi khi thầy cơ vào lớp phải dẹp trật
tự, giữ ổn định, nhắc nền nếp thì cịn tâm sức đâu mà truyền giảng những lời hay
ý đẹp. Đây cùng là điều tôi ấp ủ ý tưởng cho sáng kiến kinh nghiệm “ giáo dục
kỷ luật học sinh tích cực” sau rất nhiều năm giảng dạy và làm cơng tác chủ
nhiệm có học sinh chậm tiến này. Trong những năm qua,tơi liên tục tìm tịi vận
dụng những ý tưởng của mình vào thực tế cơng việc,nên gần hết năm học 20202021 tôi cũng thấy rõ được hiệu quả thực tế của mình. Cụ thể là: Đâù năm học
2020- 2021, số học sinh chậm tiến của lớp 6A là 10 em, cuối kì I cịn lại 2 em
(đó là em Minh và em Tuấn) và hiện nay 2 em này cũng đang có chiều hướng
chuyển biến tích cực. Số học sinh đạt thành tích học tập khá giỏi tăng từ 7 em

lên 10 em. Có được thành cơng đó phần nhiều là do nề nếp học tập, đạo đức học
15

skkn


sinh được tôi và các đồng nghiệp cùng nhau bàn bạc và thống nhất cách giáo
dục nhất quán theo tinh thần nội dung của sáng kiến kinh nghiệm này.

III. PH ẦN K ẾT LUẬN VÀ K IẾN NG H Ị
1. Kết luận
Tôi nhận ra rằng người giáo viên không phải là người quản lý học sinh,mà
là người giúp đỡ, người tư vấn, người hướng dẫn, người đồng hành với các em
trên hành trình các em hồn thiện nhân cách một con người. Qua các năm từ khi
ra trường cho đến bây giờ, bản thân tôi luôn cố gắng làm tốt nhất công việc được
giao, trong công tác chuyên môn và giảng dạy. Đồng hành với công việc dạy
học là công tác chủ nhiệm lớp. Do vậy tôi luôn cố gắng tìm tịi, quan sát, thử
nghiệm các cách xử lí với học sinh và tự đưa so sánh để rút ra kinh nghiệm cho
mình. Qua các năm cơng tác tơi đã tự đúc rút và có trao đổi với các đồng nghiệp
để kinh nghiệm của mình được hồn thiện hơn, ít mang tính chủ quan duy ý chí.
Hiệu qủa của kinh nghiệm thì bản thân tơi đã dược trải nghiệm và thấy rõ, tính
thực tế dễ dàng thực hiện, tính phù hợp với nhiều học sinh và giáo viên, tính
khoa học trong các giải pháp và đặc biệt là sự gần gũi của kinh nghiệm.
Đọc kinh nghiệm này, hầu hết trong chúng ta ai cũng thấy những việc
mình đã làm có ở trong đó.Nhưng khác biệt là ở chỗ, ở đâu đó hay chính lúc nào
đó bạn có thực hiện được như vậy một cách lẻ tẻ, khơng có sự chủ định, bài bản,
có ý đồ nhất quán và hơn nữa bạn chưa chủ động để tạo ra tình huống mà nhờ nó
bạn muốn thu phục được học trị. Cũng cần phải nói thêm rằng có những học
sinh ngoan với thầy cô này nhưng lại là không ngoan với thầy cô khác, nói như
vậy có vẻ mâu thuẫn nhưng thực tế lớp học và nhà trường lại chỉ ra như vậy.

Vậy ngun nhân ở đâu, tơi có làm một cuộc khảo sát nhỏ lớp chủ nhiệm,
với câu hỏi: “Em có mong muốn gì ở thầy, cơ và nhà trường?", và u cầu
câu trả lời mà không cần ghi tên. Kết quả đã được tơi tổng hợp và có trao đổi với
Ban Giám Hiệu cùng hội đồng giáo viên trong buổi họp hội đồng . Có một số
mong muốn của các em mà tôi rất lưu tâm như: Mong cô ... chấm điểm kiểm
tra công tâm hơn, mong cô ... ….., mong thầy…….Cho nên, với những thầy
(cơ) vẫn cịn đang xem mình là trung tâm của lớp học,học sinh phải nghe lời và
phục tùng mọi quyết định của thầy (cô) đã đưa ra thì thật khó để thu phục được
nhân tâm của các em, và như vậy thì vẫn cịn học chưa ngoan trong các giờ của
thầy (cơ) đó.
Vậy đấy, những ứng xử của chúng ta với học trị có thể làm tốt lên một con
người. Nhưng nếu giáo viên không chú ý, cẩu thả trong hành động và đưa ra
quyết định có thể làm phát sinh những học sinh khơng cịn tính phấn đấu, khơng
nghe lời thầy (cơ).
2. Kiến nghị
2.1. Nhà trường
16

skkn


Hiện nay tình trạng trừng phạt thân thể vẫn là phương pháp giáo dục con
cái của khơng ít gia đình. Vì vậy nhà trường tạo điều kiện xây dựng mối quan hệ
thân thiện giữa phụ huynh với giáo viên của trường bằng việc tổ chức hội thảo
hoặc các buổi tọa đàm nhằm tuyên truyền phương pháp giáo dục đúng đắn.
2.2. Đối với cơ quan cấp trên
Nên tổ chức phối hợp thường xuyên với các lực lượng giáodục, đặc biệt là
hội cha mẹ học sinh để phụ huynh không coi việc giáo dục con em là việc riêng
của nhà trường.
Trong thời gian tới các cấp quản lý giáo dục cần tăng cường trao đổi nắm

bắt thông tin về số lượng những học sinh chưa ngoan ở cấp THCS qua báo cáo
đầu năm học, những học sinh cần trợ giúp tâm lí, những học sinh cần tư vấn
hiểu biết xã hội và pháp luật.
Trên đây là đề tài mà bản thân tôi đã rút ra được trong q trìng làm cơng
tác chủ nhiệm rất mong nhận được sự góp ý chân thành của q thầy cơ để đề tài
được hồn thiện hơn.

XÁC NHẬN
CỦA NHÀ TRƯỜNG

Tế Lợi, ngày 06 tháng 4 năm 2022
Tôi xin cam đoan SKKN này là của mình,
khơng copy sao chép của người khác!
Người viết

Đỗ Thị Mai

17

skkn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tác phẩm “Người thầy” - Frank McCourt, một thầy giáo người Mỹ
(người từng đoạt giải Nhà giáo của năm - 1967, đồng thời là chủ nhân của giải
Pubhtzer năm 1996).
- Tài liệu bồi dường thường xuyên trên trang trực tuyến
“taphuan.csdl.edu.vn” trong các năm học 2019 -2020, 2020 -2021.
- Module 3 giáo dục học sinh chậm tiến
- Hướng dẫn tư vấn cho học sinh THCS - Module THCS 7 - Tác giả Phạm

Thanh Bình - Viện khoa học giáo dục Việt Nam
- Nâng cao năng lực chăm sóc hỗ trợ tâm lí cho học sinh trong q trình
giáo dục - Module THCS 10, Module THCS 11, Module THCS 12 - Các tác giả:
Phạm Thanh Bình, Nguyền Quang Uẩn, Nguyễn Thị Hương - Viện khoa học
giáo dục Việt Nam và Cục nhà giáo và cán bộ quản lí cơ sở giáo dục.
+) Các bài viết về giáo dục của nhà giáo dục học K.Dushinsk - Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam

18

skkn



×