Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Skkn tổ chức dạy học bài cảnh ngày hè của tác giả nguyễn trãi theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.35 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Dạy học văn theo thể loại là một trong những yêu cầu cơ bản trong nhà
trường phổ thơng hiện nay. Vì "Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thể loại
là một trong những hướng khoa học nhất, hiệu quả nhất, vừa có ý nghĩa về
khoa học cơ bản, vừa thiết thực về khoa học sư phạm, là một công đôi việc, là
mũi tên đạt được hai đích, là cần thiết với nhà nghiên cứu, đồng thời cần thiết
với người giảng dạy"[1]. Dạy học văn theo thể loại là một trong những kĩ năng
cần thiết trên con đường tự học và chủ động chiếm lĩnh tri thức.
Thơ Nôm Đường luật là một thành tựu rực rỡ của thơ ca Việt Nam. Đây 
là một hiện tượng vừa độc đáo vừa tiêu biểu trong lịch sử văn học dân tộc và 
đã được nghiên cứu như một thể loại văn học bắt đầu từ những năm bảy mươi 
của thế kỉ trước. Đó là những bài thơ được viết bằng chữ Nôm theo thể 
Đường luật (gồm cả những bài thơ theo thể Đường luật hoàn chỉnh và cả 
những bài theo thể Đường luật phá cách). Hiện nay, một số tác phẩm thơ Nôm
Đường luật được đưa vào giảng dạy cho học sinh đều là những tác phẩm có giá
trị và chiếm vị trí quan trọng giúp các em học sinh hiểu hơn về tiến trình Văn
học Việt Nam cũng như xã hội và con người Việt Nam thời Trung đại.
Người có cơng đầu tiên trong việc phát triển thơ Nôm Đường luật là
Nguyễn Trãi với tập thơ Quốc âm thi tập. Ơng đã giải tỏa những gị bó của
Đường luật, xây dựng lối thơ Việt Nam có những điểm khác dễ nhận thấy so
với thơ Đường luật và thể hiện mạnh mẽ xu hướng phá cách trong các sáng tác
Đường luật Nôm. Xu hướng này trở thành phổ biến trong Quốc âm thi tập và
kéo dài tới Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân am thi tập,... tạo thành phong
cách thời đại của thơ Nôm Đường luật... 
Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã sáng tạo ra thể thơ mới đồng thời
khẳng định sự hiện diện của thơ Nôm Đường luật với tư cách như một thể loại
văn học dân tộc. Bài thơ “Cảnh ngày hè”- chương trình Ngữ văn 10 (cơ bản) là
tác phẩm nghệ thuật đặc sắc góp phần làm nên tên tuổi của Nguyễn Trãi ở thể
loại thơ Nôm Đường luật.
Thực trạng giờ dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay nói


chung và trong nhà trường THPT nói riêng cịn đơn điệu, tẻ nhạt khiến khá
đơng học sinh khơng có hứng thú học văn dẫn đến chất lượng mơn học ngày
càng giảm sút. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng đó
là: khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm, nhiều giáo viên chưa xác định
đúng "chất của loại" trong thể. Xa rời bản chất loại thể của tác phẩm nên khi
khai thác tác phẩm văn học không những không làm cho tác phẩm sống động,
giàu sức hấp dẫn mà ngược lại làm cho tác phẩm khô khan, chết cứng.
Một thực tế nữa là chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề này nên giáo viên cịn gặp khó khăn trong q trình dạy học.
Với niềm tự hào sâu sắc về một thể thơ góp phần làm nên diện mạo thơ
ca dân tộc, là tấc lịng chan chứa của cha ơng, tơi nhận thấy việc lựa chọn đề tài
"Tổ chức dạy học bài “Cảnh ngày hè” của tác giả Nguyễn Trãi theo đặc
trưng thể loại"- là vơ cùng cấp thiết.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1

skkn


- Nghiên cứu đề tài này, trước hết để trang bị cho bản thân một hệ thống
kiến thức cơ bản, những kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết để giảng dạy tốt hơn
mơn Ngữ văn.
- Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh
làm trung tâm; phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh; nâng
cao chất lượng giờ dạy học, đồng thời tiếp tục rèn luyện cho học sinh kĩ năng
đọc- hiểu các văn bản văn học, nhất là các văn bản thơ Nơm Đường luật để từ
đó nhân rộng ra là nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, chất lượng giáo dục
trong trường THPT nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Giờ đọc văn bài “Cảnh ngày hè” của tác giả Nguyễn Trãi được tổ chức

dạy học theo đặc trưng thể loại.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1.Thể loại và việc dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng
thể loại trong nhà trường
- Quan niệm chung về thể loại văn học
Lí luận văn học dựa vào các yếu tố ổn định mà chia tác phẩm văn học
thành các loại và các thể. Loại và thể phụ thuộc chặt chẽ với nhau nhưng vẫn
có tính độc lập tương đối. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại: Loại tự
sự, loại trữ tình, loại kịch. Mỗi loại gồm một số thể nhỏ.
Việc xác định thể loại có tính chất tương đối. Song vẫn cần thống nhất
rằng thể loại là dạng thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm. Thể loại văn học là sự
thống nhất giữa loại nội dung, một dạng thức văn bản và phương thức chiếm
lĩnh đời sống.
- Vấn đề dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại
Việc xác định thể loại là vấn đề mấu chốt trong q trình dạy học tác
phẩm văn chương. Khơng xác định đúng “chất của loại” trong thể khi dạy các
thể loại khác nhau giáo viên sẽ không tránh khỏi bệnh công thức cứng nhắc, rập
khn máy móc.
Mỗi thể loại có một cách dạy học riêng. Vì vậy khi tiến hành giảng dạy,
giáo viên cần xuất phát từ đặc trưng thể loại. Đặc trưng thể loại là điều kiện
quyết định hiệu quả tiếp nhận của học sinh.
Tùy vào mỗi thể loại khác nhau mà giáo viên đề ra các yêu cầu về hoạt
động của học sinh khác nhau. Tùy thuộc vào từng thể loại tác phẩm văn học mà
giáo viên tiến hành soạn giáo án, xây dựng kế hoạch bài giảng phù hợp tránh
rập khn máy móc dẫn đến hiện tượng nhàm chán ở học sinh. Xác định đúng

thể loại, giáo viên sẽ chọn được cách thức tổ chức dạy học phù hợp để học sinh
nắm bắt được chiều sâu của tác phẩm.
2.1.2. Quan niệm dạy thơ Nôm Đường luật theo đặc trưng thể loại
2

skkn


Dạy học thơ Nôm theo đặc trưng thể loại là đề tài thuộc chuyên ngành
phương pháp giảng dạy văn.
Dạy học thơ Nôm Đường luật theo đúng đặc trưng thi pháp thể loại rất cần
thiết vì chính đặc trưng của thể loại của mỗi bài thơ sẽ quy định cách dạy và
học cho giáo viên, học sinh. Dạy học thơ Nôm Đường luật theo đặc trưng thể
loại để có thể khai thác hết giá trị thẩm mĩ của các bài thơ. Bám sát đặc trưng
thể loại cũng có nghĩa là ta phải chỉ ra được cái tiếp thu cũng như cái sáng tạo
của tác giả. Từ đó chỉ ra đặc điểm phong cách tác giả. Đồng thời để tiếp cận tác
phẩm, ta có thể tiến hành liên hệ tác phẩm với hiện thực xã hội và đặt tác phẩm
trong mối tương quan với tác phẩm khác cùng thể loại trước, trong và sau đó.
Mỗi thể loại có một phương pháp riêng, khơng có phương pháp nào chung cho
mọi thể loại. Chính vì vậy, người dạy cần phải nắm chắc được đặc trưng của
thể loại thơ Nơm Đường luật nói chung và đặc điểm của các bài thơ Nôm
Đường luật cụ thể để từ đó có biện pháp dạy học phù hợp giúp học sinh có thể
cảm thụ được cái hay cái đẹp của thể thơ này.
2.1.3. Những năng lực tiếp nhận văn học
Trong giáo trình Phương pháp dạy học văn, cố GS Phan Trọng Luận đã
rất quan tâm đến việc triển khai quan niệm về năng lực trong dạy học văn
chương. Tác giả cho rằng: có 3 loại năng lực văn chương: năng lực sáng tạo,
năng lực phê bình và năng lực tiếp nhận, trong đó năng lực tiếp nhận là năng
lực cần hình thành cho học sinh
Theo tác giả, những năng lực tiếp nhận bao gồm:

(1) Năng lực tri giác ngơn ngữ nghệ thuật.
(2) Năng lực tái hiện hình tượng.
(3) Năng lực liên tưởng trong tiếp nhận văn học.
(4) Năng lực cảm thụ cụ thể kết hợp khái quát hóa chi tiết nghệ thuật.
(5) Năng lực nhận biết loại thể định hướng tiếp nhận.
(6) Năng lực cảm xúc thẩm mĩ.
(7) Năng lực tự nhận thức.
(8) Năng lực tự đánh giá.
(9) Năng lực sáng tạo ngôn từ (đối với học sinh năng khiếu).
Như vậy, trong hoạt động tiếp nhận văn học thì năng lực nhận biết loại
thể sẽ dẫn dắt người đọc đến những định hướng đúng đắn trong việc lĩnh hội
tác phẩm. Mỗi thể loại có một thi pháp riêng nên nếu không ý thức sự khác biệt
của mỗi loại thể văn học người đọc sẽ dễ lạc hướng. Chẳng hạn như đối với thơ
trữ tình mà lại loay hoay phân tích cốt truyện, nhân vật, biến thơ thành tác
phẩm văn xi. Đến với thơ trữ tình mà coi nhẹ, bỏ qua hình tượng cảm xúc,
nhân vật trữ tình thì nhất định người đọc không thể tiếp nhận được sáng tác của
nhà thơ. Do đó, nhận biết được thể loại của tác phẩm văn học và nắm được
những đặc trưng của nó là điều vơ cùng cần thiết trên hành trình khám phá văn
chương. [2]
2.1.4. Việc dạy tác phẩm văn học theo thể loại trong nhà trường phổ
thông
Trong nhà trường phổ thông, việc dạy tác phẩm văn học theo thể loại đã
đáp ứng nhu cầu thực tiễn dạy và học. Điều này không chỉ định hướng đúng
3

skkn


đắn trong việc lĩnh hội tác phẩm mà còn phát huy được tính chủ động tích cực
của người học, góp phần phát huy vai trò đồng sáng tạo của học sinh đối với tác

phẩm văn học.
Với bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi, cần chú ý tiếp nhận tác
phẩm khơng đơn thuần như một bài thơ trữ tình mà tác phẩm còn mang những
nét đặc trưng riêng biệt của thể thơ Nơm Đường luật. Vì vậy, để dạy học bài
thơ “Cảnh ngày hè” một cách hiệu quả cần tổ chức dạy học tác phẩm theo đặc
trưng của thể loại thơ Nôm Đường luật.
2.2 Thực trạng của vấn đề
Ngày nay, xu thế chung của xã hội là phát triển các ngành khoa học kĩ
thuật. Dưới mái trường phổ thông, các em học sinh thường chú trọng đến bộ
môn khoa học tự nhiên hơn là bộ môn khoa học xã hội. Dù hôm nay môn Ngữ
văn rất quan trọng với kỳ thi vượt cấp và kỳ thi tốt nghiệp THPT nhưng đại đa
số học sinh vẫn chưa quen với sự ngang hàng giữa bộ môn khoa học xã hội với
bộ môn khoa học tự nhiên.. Bởi vậy, mỗi giờ học văn diễn ra vẫn cịn gặp phải
tâm thế khơng mấy mặn mà, tích cực trong đón nhận, cảm thụ cái hay, cái đẹp
của văn chương ở một số học sinh và đó là nỗi niềm trăn trở rất lớn của người
dạy.
Trong đổi mới phương pháp dạy học văn, người giáo viên nhất thiết phải
chú trọng dạy theo thể loại. Dạy thơ trữ tình phải dạy cho ra được tâm trạng,
cảm xúc, ngơn ngữ, nhịp điệu, hình ảnh chứa đựng trong tác phẩm. Dạy tác
phẩm tự sự phải quan tâm tới nhân vật, cốt truyện, chi tiết đặc sắc. Dạy tác
phẩm kịch phải chú ý tới xung đột kịch thể hiện qua mâu thuẫn trong ngôn ngữ,
hành động của từng nhân vật.
Đến với bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi được làm theo thể thơ
Nơm Đường luật (phá cách) thì giáo viên cảm thấy khó khăn trong việc đổi
mới phương pháp, tổ chức giờ dạy để học sinh có thể phát huy hết tính tích cực
chủ động của mình khi tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức bài học (Đa số mới chỉ
chú trọng đến nội dung tư tưởng chứ chưa thực sự quan tâm đến phương diện
thể loại. Do đó, bản thân tôi nghĩ rằng việc dạy học bài thơ “Cảnh ngày hè” cần
được chú trọng đúng đắn hơn nữa về phương diện thể loại.
Đến với "Cảnh ngày hè" của Nguyễn Trãi, học sinh khi tiếp cận cùng hệ

thống ngôn ngữ sẽ bắt gặp một số từ cổ, ngôn ngữ hàm súc, ý tứ sâu xa và việc
đưa vào bài các tư liệu Hán học- điển tích, điển cố gây khó khăn cho các em
trong việc tiếp nhận, khó lĩnh hội đầy đủ được nội dung, ý nghĩa của bài thơ mà
tác giả muốn gửi gắm.
Trước thực trạng này, chúng ta cần phải tìm cách thu hẹp khoảng cách
giữa đối tượng khám phá với đối tượng tiếp nhận. Vì vậy trong tiết dạy, tôi đã
làm nổi bật lên cảm xúc tinh tế của một tâm hồn thi sĩ trước vẻ đẹp thiên nhiên
cuộc sống (khác với các tác phẩm thơ trung đại thường thể hiện quan niệm “Thi
dĩ ngơn chí”- thiên về giáo huấn, khuyên răn) qua hình thức nghệ thuật thơ
Nơm độc đáo của tác giả: bình dị, tự nhiên, đan xen câu lục ngôn vào thơ thất
ngôn.
2.3 Một số biện pháp
2.3.1. Biện pháp
4

skkn


- Hướng dẫn học sinh nắm được đặc trưng của thể loại thơ Nơm Đường
luật
Theo PGS Lã Nhâm Thìn trong Phân tích tác phẩm văn học Trung đại
Việt Nam từ góc nhìn thể loại, khái niệm thơ Nơm Đường luật là những bài thơ
viết bằng chữ Nôm theo luật Đường hoàn chỉnh và cả những bài viết theo thơ
Đường luật phá cách có những bài xen câu ngũ ngơn, lục ngơn vào bài thơ thất
ngơn.[1]
Ngồi những đặc điểm chung của Văn học trung đại, đặc điểm của thơ
Nôm Đường luật nói một cách ngắn gọn và bản chất nhất là sự kết hợp hài hịa
giữa “yếu tố Nơm” và “yếu tố Đường luật”. Hai yếu tố này hòa quyện, đan xen
vào nhau tạo nên giá trị của mỗi tác phẩm thơ Nơm Đường luật. Mỗi một yếu
tố có những giá trị biểu đạt, biểu cảm, giá trị thẩm mỹ khác nhau nhưng cũng

có tính độc lập tương đối, có thể tách ra để nhận diện đặc điểm của thể loại.
Tuy nhiên, trong một bài thơ Nơm Đường luật thường có cả hai yếu tố trên. Tất
nhiên mức độ đậm nhạt không giống nhau trong từng bài thơ. Giáo viên cần
thấy được giá trị biểu đạt, biểu cảm, giá trị thẩm mĩ của từng yếu tố đồng thời
thấy được sự hòa quyện, xuyên thấm của hai yếu tố này trong việc làm nên giá
trị chung của bài thơ.
Về phương diện nội dung: Bản chất thơ Nôm Đường luật thể hiện rất rõ
thông qua hệ thống đề tài, chủ đề. Đề tài, chủ đề của thơ Nôm Đường luật rất
phong phú, đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề lớn của lịch sử, của thời đại, của
đất nước cũng như khía cạnh tinh tế, phức tạp trong đời sống tinh thần của mỗi
con người. Đặc biệt thơ Nôm Đường luật hướng nhiều về những đề tài, chủ đề
chứa đựng yếu tố dân chủ như nhu cầu giải phóng tình cảm, quyền sống hạnh
phúc, lễ giáo phong kiến…
Nếu các yếu tố Đường luật mang đến phong vị cổ thi cho thơ Nôm
Đường luật thì yếu tố Nơm lại khiến thể loại này thấm đượm hồn dân tộc và
khu biệt với thơ Đường luật chữ Hán. Yếu tố Nôm trong hệ thống đề tài, chủ đề
thể hiện chỗ thơ Nôm Đường luật hướng tới những đề tài mang tính chất dân
tộc, dân dã, đời thường. Đó là những bức tranh thiên nhiên dân dã, mang vẻ
đẹp mộc mạc, bình dị của làng quê Việt Nam. Đó là bài học đạo đức nhân sinh
mang tinh thần dân tộc, tư tưởng nhân dân: coi trọng tình nghĩa, thương yêu
đoàn kết, cần cù, giản dị, chân thành… ngay cả khi viết về các phạm trù đạo
đức Nho gia như “ái ưu”, “trung hiếu”, các tác giả thơ Nơm Đường luật cũng
thổi vào đó linh hồn dân tộc và hơi thở thời đại, khiến các khái niệm này trở
nên gần gũi hơn với tâm thức dân tộc, nhân dân.
Về phương diện nghệ thuật: Khi xem xét các yếu tố hình thức biểu hiện
của thơ Nơm Đường luật. bao gồm hệ thống hình tượng, ngơn ngữ nghệ thuật
và kết cấu, chúng ta cũng nhận thấy sự kết hợp giữa yếu tố Nôm và yếu tố
Đường luật trong chỉnh thể bài thơ. Hệ thống hình tượng của thơ Nơm Đường
luật bao gồm hai bộ phận nhỏ: những hình tượng ước lệ nghệ thuật bắt nguồn
từ đời sống dân tộc, dân dã và là sản phẩm sáng tạo mới mẻ của các thi nhân.

Như vậy qua khảo sát sơ bộ hai phương diện nội dung và nghệ thuật của
thơ Nôm Đường luật ta có thể khẳng định bản chất của thể loại này là sự thống
nhất biện chứng sâu sắc giữa hai mặt đối lập “Nơm” và “Đường luật”. Có thể
5

skkn


nói, với xu hướng dân tộc hóa, các nhà thơ trung đại đã có sự sáng tạo, cách tân
từ việc sử dụng ngơn ngữ thể hiện tính cách người Việt Nam, để khu biệt giữa
thơ Đường luật Nôm và Đường luật Hán. Và một trong những sáng tạo của các
nhà thơ Dường luật Nôm là sử dụng một cách hiệu quả lớp từ, ngữ thuộc phong
cách hội thoại vào trong thơ. Cũng từ đó, thơ Nơm Đường luật dần dần phá vỡ
tính quy phạm của văn học Trung đại bằng việc “Tăng cường khai thác kho
tàng ngôn ngữ dân gian, bằng việc phát triển ý thức phản ánh cuộc sống”.
(Theo SGK Văn học lớp 10 (chỉnh lý hợp nhất năm 2000), trình bày trong
bài Khái quát văn học Việt Nam từ TK X – hết TK XIX).
- Đọc kĩ bài thơ, phần chú giải và cắt nghĩa từ khó
Đọc văn là một hoạt động có tính chất đặc thù của q trình thâm nhập
và tiếp nhận một tác phẩm văn học. Với tác phẩm thơ Nôm Đường luật, việc
đọc càng giữ một vai trị quan trọng. Trong q trình đọc thơ Nơm Đường luật,
người đọc phải tìm cho được mạch cảm xúc chủ đạo, ngơn ngữ, giọng điệu,
nhạc điệu… để có cách đọc cho phù hợp. Giọng đọc và cách đọc phù hợp với
văn bản sẽ tạo khơng khí cho giờ học, gợi cảm hứng cho học sinh.
Mặt khác, đọc thơ Nôm Đường luật trong nhà trường là một công việc
tương đối khó khăn, địi hỏi sự khổ luyện của giáo viên và học sinh. Vì vậy,
muốn đọc cho “vang nhạc, sáng hình”, chúng ta phải có những kĩ năng cơ bản:
đầu tiên giáo viên cần hướng dẫn học sinh có kĩ năng đọc chính xác; tiếp theo,
giáo viên hướng dẫn học sinh cách đọc diễn cảm.
Qua việc đọc, học sinh sẽ nắm bắt được cảm xúc chủ đạo của tác phẩm

và có những cảm nhận đầu tiên về nhân vật trữ tình trong bài. Việc đọc này
diễn ra trong suốt giờ học, đọc nhiều lần, đọc đi đọc lại, bám sát từng từ, từng
chữ, đọc đón đầu và dự đốn để tái hiện phạm vi đời sống, khung cảnh, con
người, sự kiện nối tiếp thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Hoạt động chú giải, cắt nghĩa từ khó là vơ cùng cần thiết với việc dạy
văn học Trung đại nói chung và dạy học thơ Nơm Đường luật nói riêng. Bởi lẽ,
ngôn ngữ thơ Nôm Đường luật rất cô đọng, hàm súc. Hình thức chữ Nơm vốn
đã khó hiểu đối với học sinh, lại thêm các biện pháp nghệ thuật như ước lệ,
tượng trưng, điển tích, điển cố khiến cho bài thơ càng trở nên khó hiểu và khó
tiếp nhận. Chú giải sâu là biện pháp rút ngắn khoảng cách thẩm mĩ giữa học
sinh với thơ cổ để tiếp nhận văn bản có hiệu quả.
Bên cạnh đó, hoạt động cắt nghĩa cũng đóng vai trị rất quan trọng trong
việc giúp học sinh vượt qua rào cản ngôn ngữ để hiểu nghĩa của từ, câu, hình
ảnh và mối quan hệ của chúng trong văn bản. Từ đó tiếp cận được nội dung và
ý đồ nghệ thuật của tác giả trong bài. Cắt nghĩa chính là q trình làm cho ý
nghĩa của từ, của ngữ, câu và hình ảnh nổi bật trong văn bản, làm sáng tỏ hình
tượng.
Giúp học sinh hiểu tác phẩm ở lớp nghĩa từ vựng sẽ tạo cơ sở cho việc
nắm bắt nội dung tư tưởng của tác phẩm. Và phần tiếp theo của bài học là phải
làm cho học sinh sống trong bầu khơng khí nghệ thuật lắng đọng, biết rung
cảm, biết thổn thức với nỗi niềm tâm trạng của nhân vật trữ tình trong thơ thì
thơng điệp thẩm mĩ sẽ được truyền đi một cách hiệu quả.
6

skkn


- Hướng dẫn học sinh phân tích tác phẩm thơ Nơm Đường luật bằng hệ
thống câu hỏi hợp lí
Nêu câu hỏi là cách tốt nhất để hiểu biết những điều đã biết và cả những

điều chưa biết ở học sinh và về học sinh. Đây là một trong những phương pháp
dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của câu hỏi trong dạy học văn chương, chúng ta cần đặc biệt
lưu ý đến việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong bài:
+ Nội dung câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác và trực tiếp. Tránh
những câu hỏi đánh đố học sinh. Câu hỏi không được rối rắm, tối nghĩa và có
cấu trúc phức tạp dễ làm học sinh nhầm lẫn.
+ Các câu hỏi có chất lượng ngồi tính chất xác định rõ ràng, phải có màu
sắc văn học, có khả năng khêu gợi tình cảm, xúc động thẩm mĩ cho học sinh.
- Câu hỏi có tác dụng kích thích hứng thú và khơi gợi khả năng tìm tòi sáng
tạo của học sinh.
+ Câu hỏi phải vừa sức học sinh, thích hợp với khn khổ một giờ học trên
lớp.
+ Cần có sự kết hợp cân đối giữa các loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi
tổng hợp gợi vấn đề. Câu hỏi có khi theo lối diễn dịch, có khi theo lối quy nạp
nhưng đều nhằm cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vững chắc.
Khi đặt câu hỏi, giáo viên có thể thực hiện một số giải pháp:
+ Suy nghĩ thật kĩ vấn đề mình sắp dạy.
+ Tham khảo các câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa, sách giáo viên, sách
tham khảo. Xây dựng hệ thống câu hỏi riêng của mình cho bài soạn.
+ Cố gắng sử dụng nhiều hình thức diễn đạt khác nhau để hỏi cùng một nội
dung.
+ Chú ý đón bắt, khơi gợi những ý tưởng mới mẻ của học sinh, từ thực tế
trả lời của các em, điều chỉnh lại cách hỏi cho phù hợp
- Sử dụng phương pháp bình giảng để nâng cao nhận thức thẩm mĩ cho
học sinh
Bình giảng tác phẩm văn chương là một khoa học quan trọng của khoa học
văn học. Trong tiếp nhận văn học, bình giá là hoạt động hồn tất q trình lĩnh
hội tác phẩm.
Những lời bình giảng, phân tích của giáo viên trong giờ đọc- hiểu văn

bản là rất cần thiết, quan trọng góp phần làm nên dư vị ngọt ngào, khơi gợi cảm
xúc của học sinh khi tiếp nhận các giá trị văn chương. Khi bình các thủ pháp
nghệ thuật cũng phải chú ý lựa chọn. Tuy nhiên dù cách nào cũng vậy, lời bình
phải phù hợp với lời giảng trước hoặc sau đó, giảng có sâu sắc thì bình mới tâm
đắc.
Và qua lời bình ấy, học sinh mới cảm nhận được cái hay của tác phẩm,
nâng cao hiệu quả của giờ học văn.
Bình có rất nhiều cách khác nhau và giáo viên phải hướng dẫn học sinh
biết kết hợp giảng và bình để tạo sự lơi cuốn trong giờ học. Điều quan trọng
nhất với người giáo viên là sử dụng linh hoạt, khoa học biện pháp bình giảng
trong giờ dạy- học tác phẩm thơ Nôm Đường luật để đem đến cho giờ dạy sự
hấp dẫn, phát huy được cá tính sáng tạo của người học.
7

skkn


- Tổ chức hoạt động thảo luận về cái tôi trữ tình qua đặc trưng của thể
loại thơ Nơm Đường luật
Ở phần văn bản thơ, sau khi học sinh tìm ra bố cục của bài thơ, tìm hiểu và
rút ra cái hay, cái đẹp bức tranh ngày hè, giáo viên có thể đặt ra câu hỏi:
+ Từ những điều đã phân tích, em có hình dung như thế nào về vẻ đẹp tâm
hồn nhân vật trữ tình?
+ Hai câu thơ cuối bài cho chúng ta thấy nét đẹp nữa trong tâm hồn nhà thơ
là gì?
Với những câu hỏi thảo luận nêu vấn đề, học sinh sẽ tham gia vào quá trình
khám phá tâm tư, tình cảm nhân vật trữ tình thông qua cấu trúc thể loại thơ
Nôm Đường luật một cách cụ thể và sâu sắc hơn. Hơn nữa các em cũng đóng
vai trị quan trọng trong việc đồng sáng tạo tác phẩm văn học.
- Liên hệ, so sánh về ý nghĩa của cái tơi trữ tình trong xã hội hiện đại

Cùng với việc khám phá văn bản thơ, giáo viên có thể thơng qua bài học
để giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân cách sống cho học sinh. Chẳng hạn,
có thể đưa ra những vấn đề thảo luận như sau:
+ Em có suy nghĩ gì về những rung cảm tinh tế của tác giả Nguyễn Trãi
trước khung cảnh thiên nhiên cũng như nỗi niềm chân thành, tình yêu tha thiết
của nhà thơ với nhân dân, đất nước? Liên hệ với tình yêu quê hương, đất nước,
con người của các bạn trẻ thời nay?
+ Muốn có được những tình cảm chân thành như Nguyễn Trãi, tuổi trẻ ngày
nay cần có ý thức và hành động ra sao?
Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh cũng rất hứng thú với
phần liên hệ, so sánh với thực tiễn như vậy. Bài học cũng vì thế mà hứng thú,
bổ ích hơn.
2.3.2. Tổ chức thực hiện
- Bước 1: Tạo tâm thế hứng khởi cho học sinh
Nhằm tạo tâm thế nhập cuộc và khơng khí cho lớp học, giáo viên cần thực
hiện tốt ngay từ khâu hỏi bài cũ và lời giới thiệu vào bài mới.
+ Hoạt động Hỏi bài cũ không đơn thuần là việc ôn luyện bài cũ, không chỉ
là “thiết chế” buộc học sinh phải thuộc bài… mà Hỏi bài cũ cịn nhằm mục
đích chuẩn bị tâm thế, gây hứng thú cho học sinh bước vào bài mới. Vì vậy,
hoạt động Hỏi bài cũ được thiết kế dạy học với ý tưởng: Vừa ôn luyện kiến
thức liên quan đến phần khái quát Văn học Việt nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ
XIX (Văn học Trung đại) vừa gây hứng thú, vừa chuẩn bị tâm thế để HS có ý
thức liên hệ với bài mới.
Ở bài dạy “Cảnh ngày hè”, tôi đã thiết kế ô chữ dưới dạng giải những ơ
chữ hàng ngang, có được các chữ cái nằm trong ơ chữ bí mật. Sau khi giáo viên
phổ biến luật chơi cho các em rõ, giáo viên lần lượt đọc các câu hỏi gợi ý để
học sinh xung phong giải ơ chữ. Học sinh nào trả lời đúng thì ơ chữ đó sẽ được
lật mở cịn nếu trả lời sai thì nhường cơ hội cho bạn khác. Ai tìm ra ơ chữ bí
mật chính xác và nhanh nhất sẽ là người chiến thắng.
Để tìm ơ chữ này, trước hết chúng ta trả lời các câu hỏi gợi ý ở hàng

ngang (8 gợi ý hàng ngang nhưng nếu em nào có đáp án ơ chữ bí mật trước đều
8

skkn


có thể đưa ra đáp án, nếu đúng sẽ là người chiến thắng, nếu sai sẽ phải dừng
cuộc chơi).
Sau phần khởi động tạo tâm thế, giáo viên giới thiệu bài mới. Phần này giáo
viên cũng cần chú trọng, bởi lẽ về tâm lí, con người thường bị thu hút, lơi cuốn
bởi những lời nói hay, những cách dẫn dắt khéo léo và ấn tượng. Do đó, lời
giới thiệu vào bài mới chính là một trong những nghệ thuật sư phạm của giáo
viên. Với bài “Cảnh ngày hè”, GV có thể giới thiệu từ đề tài “Thiên nhiên” vừa
tìm được trong phần chơi giải ô chữ.
- Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần Tiểu dẫn trong SGK và bổ
sung thông tin những kiến thức cần thiết
+ Về tác giả:
Ở phần này, SGK không giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi, Giáo viên có thể
nhấn mạnh lại vài nét lớn về tác giả vì các em đã được biết đến Nguyễn Trãi từ
cấp 2 và sau này sang học kì 2, các em sẽ được học nguyên một tiết về tác giả
Nguyễn Trãi. Giáo viên giới thiệu kết hợp với tranh ảnh liên quan đến tác giả
như chân dung nhà thơ, khu đền thờ tác giả ở Côn Sơn.
Giáo viên đặc biệt nhấn mạnh nét khái quát về tác giả: Nguyễn
Trãi là bậc anh hùng dân tộc, một nhân vật tồn tài hiếm có nhưng lại là người
phải chịu nỗi oan khiên thảm khốc nhất dưới thời phong kiến. Ông là nhà thơ,
nhà văn kiệt xuất, là danh nhân văn hóa thế giới, có những đóng góp to lớn cho
sự phát triển của văn hóa, văn học dân tộc. [3]
+ Về tập thơ “Quốc âm thi tập”:
Giáo viên hỏi học sinh dạng câu hỏi tái hiện kiến thức: Dựa vào phần tiểu
dẫn cùng với những hiểu biết của mình, em hãy giới thiệu khái quát về tập

thơ
“Quốc âm thi tập”?
Sau khi học sinh phát biểu, giáo viên chốt lại kiến thức
+ Về bài thơ “Cảnh ngày hè”:
Giáo viên kiểm tra kiến thức hiểu biết của học sinh sau đó bổ sung và hồn
chỉnh kiến thức: Em hiểu biết gì về xuất xứ và hoàn cảnh ra đời bài thơ?
- Bước 3: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu về tác phẩm cụ thể
Trong phần này, trước hết cần cho học sinh đọc và nắm được bố cục bài
thơ:
+ Đọc bài thơ: Đây là một bài thơ có một số từ cổ, từ láy nên cần đọc cho
lưu loát. Chú ý đọc diễn cảm, thể hiện đúng tâm trạng thanh thản, vui vẻ, sảng
khối của Nguyễn Trãi.[4]
+ Giải nghĩa từ khó: Từ phần chú giải trong SGK, giáo viên kết hợp trình
chiếu và hướng dẫn học sinh cắt nghĩa từ khó (Lưu ý học sinh những từ được
gạch chân):
CẢNH NGÀY HÈ
(Bảo kính cảnh giới- bài 43)
- Nguyễn TrãiRồi hóng mát thuở ngày trường,
(Rỗi rãi)
(ngày dài)
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
(màu xanh thẫm) (tán giương lên che rợp)
9

skkn


Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
(màu vẻ, dáng vẻ)
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

(Sen hồng ở ao) (ngát, nức)
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
(làng chài lưới)
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
(Inh ỏi) (ve kêu như tiếng đàn) (mặt trời lặn)
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
(Lẽ ra)
(đàn)
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
(nhiều)
+ Chia bố cục: giáo viên nêu câu hỏi thảo luận: Bài thơ được viết theo thể
nào? có thể chia bố cục làm mấy phần? cảm nhận chung của em sau khi đọc bài
thơ?
Học sinh trả lời sau đó giáo viên củng cố lại:
Bố cục: Bài thơ là bài thơ Nôm đường luật phá cách (thất ngơn xen lục
ngơn). Có nhiều cách chia bố cục bài thơ:
Theo kết cấu: Bốn phần: đề, thực luận, kết hoặc hai phần: bốn câu đầu,
bốn câu cuối (tiền giải, hậu giải).
Theo nội dung: sáu câu đầu, hai câu cuối (bức tranh ngày hè, vẻ đẹp tâm
hồn tác giả)
(Giáo viên định hướng cho học sinh chia bố cục theo nội dung).
Tiếp đó, giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu bài thơ theo đặc trưng thể
loại.
1. Sáu câu đầu: Bức tranh ngày hè
- Giáo viên đặt câu hỏi: em hãy đọc câu thơ đầu tiên và thử hình dung về
hình ảnh thi nhân hiện lên ở đây có đặc điểm gì? (Chú ý từ ngữ, cách ngắt nhịp)
- Sau khi học sinh trả lời, giáo viên bổ sung và hoàn chỉnh kiến thức: câu
thơ mở đầu với cách sử dụng các từ ngữ “rồi”, “hóng mát” kết hợp với lối ngắt
nhịp 1/2/3 tạo nên một tâm thế thư thái, thanh thản rất đặc biệt, rất hiếm hoi của
nhà thơ khi đến với thiên nhiên.

- Giáo viên đặt vấn đề bằng câu hỏi: Bức tranh ngày hè được tác giả miêu
tả như thế nào? (hình ảnh, âm thanh, màu sắc, thời gian, trạng thái cảnh vậtGV kết hợp giới thiệu một số hình ảnh minh họa trên máy chiếu)?
- Học sinh trả lời và giáo viên nhận xét, bổ sung và chốt lại kiến thức
Giáo viên có thể so sánh câu thơ tả cảnh mùa hè của Nguyễn Trãi: “Thạch
lựu hiên còn phun thức đỏ” với câu thơ tả cảnh mùa hè của Nguyễn Du: “Đầu
tường lửa lựu lập lòe đâm bông” để thấy sự khác biệt tinh tế gữa các nhà thơ
khi diễn tả bức tranh thiên nhiên ngày hè: Tác giả Nguyễn Du thiên về tả hình
sắc cịn tác giả Nguyễn Trãi thiên về tả sức sống.
Tóm lại, sáu câu đầu bài thơ cho ta thấy một bức tranh ngày hè có sự
phối hợp hài hịa đường nét, hình ảnh, màu sắc, âm thanh, một bức tranh vừa có
hình vừa có hồn, rất sinh động và tràn đầy sức sống.
-Trong đoạn thơ trên, tác giả đã có những sáng tạo nào về mặt nghệ thuật?
10

skkn


- Học sinh trả lời, giáo viên củng cố lại
- Giáo viên hỏi tiếp: Từ sự phân tích ở trên, em thấy tác giả đón nhận cảnh
vật bằng những giác quan nào? Điều này có tác dụng gì?
- Học sinh phát biểu, giáo viên củng cố lại: Tác giả đón nhận cảnh vật
bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác… và cả sự liên tưởng hết
sức tinh tế của mình. Điều đó góp phần tạo nên một bức tranh ngày hè sinh
động, tràn đầy sức sống và thể hiện sự giao cảm mạnh mẽ nhưng tinh tế của
tâm hồn nhà thơ với cảnh vật.
2. Hai câu cuối: vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi
- GV vừa dẫn dắt vừa đặt câu hỏi: Qua sự cảm nhận bức tranh cảnh vật
sinh động, đáng yêu, đầy sức sống ở những câu thơ trên đã cho ta thấy tâm hồn
yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết của tác giả. Đọc hai câu thơ cuối, em
có nhận xét gì về tấm lịng của Nguyễn Trãi? (GV kết hợp giới thiệu hình ảnh

minh họa trên máy chiếu)
- Học sinh phát biểu, giáo viên củng cố, mở rộng thêm: Hai câu cuối:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể
sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lịng mình trong hai câu thơ
kết. Ấy là một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời.
Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người
Phương Đông sống trong thời trung đại: mong sao có một bậc vua hiền để có
được cuộc sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền
Lê, Pháp Thuận đã phát biểu:
"Vận nước như mây cuốn,
Trời Nam mở thái bình.
Vơ vi trên điện các,
Xứ xứ dứt đao binh".[5]
Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh Lê Thánh Tơng cố sức mình cũng chỉ để
thỏa lịng mong muốn:
Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời- từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống
như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng mn năm này. Mong trị quốc,
bình thiên hạ, sao cho dân giàu, nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Như vậy, Nguyễn Trãi rất yêu thiên nhiên nhưng trên hết vẫn là tấm lịng
của ơng tha thiết với con người, với dân, với nước.
- GV hỏi thêm: Em có nhận xét gì về hiệu quả nghệ thuật của câu lục
ngôn ngắt nhịp 3/3 kết thúc bài thơ trong việc diễn tả tâm sự Nguyễn Trãi (câu
thơ kết chỉ có sáu tiếng có gì khác biệt với câu thơ bảy tiếng thông thường
trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật?)
- Học sinh trao đổi, thảo luận và trình bày ý kiến, giáo viên nhận xét, bổ
sung: câu thơ kết sáu tiếng, ngắt nhịp 3/3 dứt khoát là sự dồn nén cảm xúc cả

bài, nhấn mạnh điểm kết tụ hồn thơ Nguyễn Trãi- không phải là thiên nhiên
11

skkn


tạo vật mà là ở con người, ở người dân. Nhà thơ mong cho nhân dân được
hưởng cảnh giàu có, sung túc.
Như vậy qua hai câu thơ kết, ta thấy tấm lòng yêu nước thương dân, tha
thiết của thi nhân. Với Nguyễn Trãi, đó là một tư tưởng lớn, từng sục sôi trong
hành động, khắc khoải trong tâm tưởng và rát bỏng trong thi ca.
- Bước 4: GV tổ chức học sinh tổng kết, đánh giá giá trị nội dung và nghệ
thuật của bài thơ
Giáo viên hướng dẫn học sinh tổng kết thông qua câu hỏi:
+ Em hãy khái quát lại nội dung cơ bản của bài thơ?
+ Làm nên sự thành công cho nội dung văn bản phải kể tới đóng góp
nhất định của nghệ thuật. Em hãy chỉ ra những thành công về nghệ thuật của
bài thơ?
- Bước 5: Giáo viên tổ chức cho học sinh liên hệ, so sánh về ý nghĩa của cái
tơi trữ tình trong xã hội hiện đại
+ Em có suy nghĩ gì về những rung cảm tinh tế của Nguyễn Trãi trước
khung cảnh thiên nhiên cũng như nỗi niềm chân thành, tình yêu tha thiết của thi
nhân với nhân dân, đất nước? Liên hệ với tình yêu quê hương, đất nước, con
người của các bạn trẻ thời nay? Muốn có được những tình cảm chân thành như
Nguyễn Trãi, tuổi trẻ ngày nay cần có ý thức và hành động ra sao?
Minh họa cụ thể:
CẢNH NGÀY HÈ
- Nguyễn Trãi I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Về kiến thức:
- Vẻ đẹp của bức tranh cảnh ngày hè được gợi tả một cách sinh động.

- Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi: nhạy cảm với thiên nhiên, với cuộc sống đời
thường của nhân dân, luôn hướng về nhân dân
- Nghệ thuật thơ Nôm độc đáo.
2. Về kĩ năng:
- Kỹ năng đọc hiểu: đọc hiểu văn bản thơ trữ tình
- Kỹ năng trình bày vấn đề: trình bày kiến thức về một tác giả, tác phẩm văn
học.
3. Về thái độ:
- Bồi dưỡng tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình cảm gắn bó với cuộc sống của
người dân…
II. CHUẨN BỊ VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Chuẩn bị
- Giáo viên:
- Thiết bị dạy học: SGK, SGV Ngữ văn 10 (tập 1); Tài liệu chuẩn kiến thức –
kĩ năng Ngữ văn 11; Bài soạn; Bài giảng Powerpoit; phiếu học tập
- Tư liệu tham khảo: Văn học trung đại Việt Nam (NXB Giáo dục 2002)
- Học sinh:
- SGK, SBT Ngữ văn 10 (tập 1) soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn học
bài, vở ghi.
+ Tìm hiểu về tập thơ “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi
12

skkn


2. Phương pháp
- GV kết hợp phương pháp đọc sáng tạo, đối thoại, trao đổi, nêu vấn đề, thảo
luận, tích hợp.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định lớp

2. Kiểm tra bài cũ: (kiểm tra kết hợp trong phần khởi động)
3. Bài mới:
* Khởi động: Ơ chữ bí mật
(1) Thuật ngữ dùng để gọi nền văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế
kỷ XIX?
(2) Cảm hứng thế sự là tiền đề cho sự ra đời của xu hướng văn học …
sau này.
(3) Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX gồm … thành
phần văn học chủ yếu.
(4) Nữ sĩ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là ….?
(5) Đây là tên của tác giả “Đại cáo bình Ngơ”.
(6) Tên của thể loại được đặt ra từ thời nhà Đường và phải tuân theo các
quy tắc bắt buộc rất khắt khe?
(7) Cảm hứng chủ đạo trong Văn học Trung đại Việt Nam triều đại LýTrần?
(8) Văn học Trung đại Việt Nam phát triển qua mấy giai đoạn?
Và một gợi ý cho ơ chữ bí mật là: Một đề tài phổ biến, quen thuộc trong
thơ Trung đại Việt Nam? (Học sinh sử dụng dữ liệu này kết hợp với các chữ cái
có được sau khi giải các ơ hàng ngang để tìm ra ơ chữ bí mật).
Đáp án của trò chơi sẽ là:

V

Ă

N

H
H



I

B

À
N
Đ

C
G
Ư
Y

H
U

Ê

C T R U
Ệ N T H
H A I
Ú A T H
Y Ễ N T
N G L U
U N Ư Ớ
B Ố N
Ô CHỮ BÍ MẬT
N N H I

N



G
C

Đ



Ơ
R

C

N
Ã
T

Ơ
I

M

I

T H I
Ê
Ê N
* Giới thiệu bài mới:
Ơ chữ bí mật chúng ta vừa tìm được là ô chữ “Thiên nhiên”. Với các nhà

thơ trung đại, thiên nhiên quả là một đề tài rất quen thuộc, phổ biến. Tiêu biểu
như Nguyễn Trãi trong bài tự thán 4 đã tự nhận “Non nước cùng ta đã có
duyên”, thi nhân đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: Thời chiến, thời
bình, lúc buồn, lúc vui, lúc bận rộn, khi thư nhàn. Và ẩn đằng sau đó là nỗi
niềm tâm sự, là vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ. Bài học hơm nay, chúng ta sẽ cùng
nhau tìm hiểu một trong những bài thơ viết về thiên nhiên rất đặc sắc của
Nguyễn Trãi- đó là bài “Cảnh ngày hè”.
Hoạt động của GV và HS
Nội dung cần đạt
13

skkn


* Hướng dẫn tìm hiểu phần tiểu dẫn
Về tác giả Nguyễn Trãi chúng ta sẽ
được tìm hiểu kĩ khi học bài Bình Ngơ
đại cáo, ở bài học hơm nay, chúng ta
chỉ tìm hiểu về tập thơ Quốc âm thi
tập và bài thơ Cảnh ngày hè
- Phần tiểu dẫn trong SGK cung cấp
cho em những hiểu biết gì về tập thơ
Quốc âm thi tập?

- Cũng qua phần Tiểu dẫn trong SGK,
em biết gì về xuất xứ của bài thơ?
* Hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản
Trước khi tìm hiểu bố cục, chúng ta sẽ
đọc bài thơ
- Gọi 1HS đọc

- GV đọc lại: Giọng nhẹ nhàng, tha
thiết, nhấn giọng vào các từ ngữ miêu
tả màu sắc, âm thanh... để tái hiện đậm
nét bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè
và tâm hồn nhà thơ.
- Bài thơ có thể chia theo bố cục như
thế nào?
Cảnh ngày hè làm theo thể thơ
thất ngôn bát cú Đường luật nhưng bố
cục Đề, thực, luận, kết xem ra khơng
phải là lựa chọn hợp lí để chúng ta tiếp
cận bài thơ này. Để cho việc học và
nắm bắt được nội dung của bài thơ
một cách dễ dàng hơ, hôm nay cơ
hướng dẫn chúng ta tìm hiểu bài thơ
theo bố cục căn cứ vào nội dung: sáu
câu đầu, hai câu cuối (bức tranh ngày

I. Tìm hiểu chung:
1. Tập thơ Quốc âm thi tập:
- Tập thơ cổ nhất hiện còn
- Gồm 254 bài thơ Nôm. (Chia thành
các phần:
+ Vô đề: Ngôn chí, Mạn thuật, Tự
thán, Bảo kính cảnh giới,...
+ Mơn thì lệnh: về thời tiết.
+ Môn hoa mộc: về cây cỏ.
+ Môn cầm thú: về thú vật.
- Nội dung: Thể hiện vẻ đẹp của con
người Nguyễn Trãi với 2 phương diện:

+ Người anh hùng với lí tưởng nhân
nghĩa, yêu nước, thương dân.
+ Nhà thơ với tình yêu thiên nhiên,
quê hương, đất nước, cuộc sống, con
người.
- Nghệ thuật: Việt hóa thơ thất ngôn
bát cú Đường luật, sáng tạo thể thất
ngôn xen lục ngôn.
2. Bài thơ Cảnh ngày hè
- Xuất xứ: bài số 43 thuộc mục Bảo
kính cảnh giới (Gương báu răn mình)
trong “Quốc âm thi tập”
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Đọc, xác định thể thơ, bố cục, giải
nghĩa từ khó
- Đọc: đọc diễn cảm
- Thể thơ: thất ngôn Đường luật xen
lục ngơn
- Bố cục: Như vậy bài thơ có rất nhiều
cách chia: Nếu căn cứ vào kết cấu của
bài thơ Đường luật thì ta có thể chia
thành 4 phần
+ Bố cục thơ Đường luật: Đề- thựcluận- kết
+ Căn cứ vào nội dung:
6 câu đầu: Vẻ đẹp cảnh ngày hè
2 câu sau: vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ.
- Giải nghĩa từ khó: phần chú giải
trong SGK
14


skkn


hè, vẻ đẹp tâm hồn tác giả)
Hướng dẫn HS tìm hiểu sáu câu thơ
đầu
- Câu thơ đầu với 6 chữ đặc biệt cho
thấy hoàn cảnh tác giả sáng tác bài
thơ này như thế nào?
Câu phá đề thông thường là 7 chữ với
cách ngắt nhịp 4/3. Ở đây Nguyễn Trãi
lạ cách ngắt nhịp, lạ về số chữ và lạ cả
về ý nghĩa. Người đọc bấy lâu đã quen
với một Nguyễn Trãi nếm mật nằm gai
cùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn
viết nên áng thiên cổ hùng văn Bình
Ngơ đại cáo. Ông là người lo trước cái
lo thiên hạ và vui sau niềm vui của
thiên hạ. Vì thế khi đọc câu thơ đầu
tiên thấy nhà thơ thanh thản trước
thiên nhiên người đọc không tránh
khỏi cảm giác là lạ. Phải chăng bài thơ
được tác giả sáng tác khi ông về ở ẩn
tại Côn Sơn, rũ sạch bụi trần của chốn
phồn hoa đô hội. Nguyễn Trãi đến với
thiên nhiên một cách tự do, tự tại, giản
dị khơng gị ép. Phải chăng vì thế câu
thơ cũng vượt ra khỏi khuôn khổ của
thơ luật Đường để mà giản dị nhẹ
nhàng như chính con người và cuộc

sống nơi thơn dã.
- Nguyễn Trãi đã dùng những hình
ảnh nào để khắc họa bức tranh thiên
nhiên ngày hè?
Trong thơ Ức Trai, hình ảnh cây hịe
xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng
một thứ ngơn ngữ trau chuốt, đậm đà:
“Có thuở ngày hè trương tán lục,
Đùn đùn bóng rợp cửa tam cơng”.
Trước hiên nhà, trong cành lá xanh
biếc, những đóa hoa lựu đang phun
màu đỏ. Sau này Nguyễn Du cũng
viết: Dưới trăng quyên đã gọi hè/ Đầu
tường lửu lựu lập lịe đâm bơng->
Nguyễn Du chỉ thiên về tả hình sắc
chấm phá thì Nguyễn Trãi thiên về
miêu tả sức sống mạnh mẽ của thiên

2. Đọc- tìm hiểu chi tiết
2.1. Vẻ đẹp cảnh ngày hè
a. Câu 1: Tâm thế của thi nhân:
- Hành động: hóng mát
- Thời gian: ngày trường, rỗi rãi
- Câu thơ lục ngôn , ngắt nhịp: 1/2/3
-> Rảnh rỗi hóng mát, tâm trạng bất
đắc chí
-> Tâm thế thanh nhàn, thư thái hóng
mát của thi nhân – khoảng thời gian
hiếm hoi, ít ỏi trong cuộc đời con
người “thân” khơng nhàn mà “tâm”

cũng không nhàn.

b. 5 câu tiếp theo: Vẻ đẹp của thiên
nhiên và cuộc sống ngày hè:
* Vẻ đẹp của thiên nhiên:
- Bức tranh thiên nhiên ngày hè được
cảm nhận qua các hình ảnh, màu sắc
+ Màu xanh của cây hòa với tán cây
xanh mát
+ Trước hiên nhà trong cành lá xanh
biếc, hoa lựu đang phun màu đỏ
+ Sen hồng trong ao đã ngát mùi
hương
-> hình ảnh bình dị, gần gũi màu sắc
sinh động

15

skkn


nhiên
- Những đặc sắc về nghệ thuật được
Nguyễn trãi sử dụng trong đoạn thơ?
Những động từ mạnh diễn đạt sự thôi
thúc từ bên trong, sức sống của cảnh
vật như đang căng tràn, phải đùn ra,
giương lên, phun ra. Cảnh vật thiên
nhiên không hề tĩnh tại mà vận động
mạnh mẽ theo chiều hướng “cháy hết

mình” khi mùa hè đến
(Hài hịa cùng bức tranh thiên nhiên là
bức tranh cuộc sống nhân dân lao
động. Chúng ta sẽ tìm hiểu bức tranh
đó qua hai câu: “lao xao ...lầu tịch
dương”)
- Bức tranh cuộc sống được Nguyễn
Trãi khắc họa như thế nào?
- Tác giả đã huy động các giác quan
nào để cảm nhận và miêu tả bức tranh
thiên nhiên, cuộc sống cảnh ngày hè?
- Tác giả đã huy động:
+ Thị giác: để cảm nhận màu sắc của
lá hòe xanh, hoa thạch lựu đỏ ngời.
+ Khứu giác: để cảm nhận hương sen
thơm ngát.
+ Thính giác: để thu nhận âm thanh
lao xao của chợ cá làng chài từ xa.
+ Thính giác và sự liên tưởng: để thấy
tiếng ve kêu inh ỏi tựa như tiếng đàn.
- Em có nhận xét gì về bức tranh thiên
nhiên, cuộc sống được Nguyễn Trãi
miêu tả?
+ Sức sống của cảnh vật?
+ Sự kết hợp giữa đường nét, màu sắc
và âm thanh, con người và cảnh vật
ntn?
- Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống còn
hết sức sinh động. Bởi nó có sự kết
hợp hài hịa giữa đường nét, màu sắc

và âm thanh, con người và cảnh vật:
màu lục của lá hòe làm nổi bật màu đỏ
của hoa lựu, ánh mặt trời buổi chiều
như dát vàng trên tán hòe xanh; tiếng
ve inh ỏi- âm thanh đặc trưng của mùa

- Nghệ thuật khắc họa:
+ Sử dụng những hình ảnh, màu sắc
đặc trưng của màu hè
+ Sử dụng những động từ mạnh “đùn
đùn”, “giương”, “phun”, tính từ “tiễn”
để diễn tả sức sống của cảnh vật.
-> Sự quan sát tinh tế của Nguyễn
Trãi: Không chỉ dừng lại ở dáng vẻ bề
ngồi mà cịn khám phá sự vận động
bên trong của cảnh vật.

* Bức tranh cuộc sống:
- Âm thanh lao xao của chợ cá làng
chài (hay chính lịng tác giả đang rộn
rã niềm vui trước cảnh thanh bình no
ấm của nhân dân) -> âm thanh của
cuộc sống con người
- Tiếng ve inh ỏi như bản đàn (hay
chính là khúc nhạc lịng của Nguyễn
Trãi đang ngân lên)-> âm thanh đặc
trưng của mùa hè
-> bức tranh của chiều quê thanh bình,
no ấm.
- Nghệ thuật: đối, đảo ngữ, từ láy.

=> tác giả có sự giao cảm mạnh mẽ và
tinh tế với thiên nhiên cảnh vật và
cuộc sống con người.
=> Đó là bức tranh sinh động có sự kết
hợp hài hịa: đường nét, màu sắc, âm
thanh, cảnh vật, con người.
=> Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống
được miêu tả vào thời điểm cuối ngày
nhưng sự sống ko ngừng lại. Thiên
nhiên vẫn vận động với một nguồn
sống dồi dào, mãnh liệt.
-> Tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời,
yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ.

16

skkn


hè, hòa cùng tiếng lao xao nơi chợ cáâm thanh đặc trưng của của làng chài
từ xa vọng lại.
Hướng dẫn HS tìm hiểu hai câu thơ
cuối
- Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi qua hai
câu kết? mong muốn của thi ở đây là
gì?
Câu thơ có sử đụng điển tích thi pháp
quen thuộc của thơ ca trung đại.....
Như vậy mượn một điển tích xưa,
Nguyễn Trãi muốn thể hiện niềm vui

của ơng khi thấy dân chúng khắp nơi
đang có cuộc sống đủ đầy, no ấm
- Theo em, tại sao bài thơ lại được kết
thúc bằng một câu thơ lục ngôn?
Qua sự cảm nhận bức tranh
cảnh vật sinh động, đáng yêu, đầy sức
sống ở những câu thơ trên đã cho ta
thấy tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu
cuộc sống tha thiết của tác giả. Đọc
hai câu thơ cuối, em có nhận xét gì về
tấm lịng của Nguyễn Trãi? (GV kết
hợp giới thiệu hình ảnh minh họa trên
máy chiếu)
Giáo viên củng cố, mở rộng thêm: Hai
câu cuối, mạch thơ từ hướng ngoại
sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu
cảm, khách thể sang chủ thể. Nguyễn
Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lịng mình
trong hai câu thơ kết. Ấy là một giấc
mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp
ủ bật ra thành lời. Giấc mơ, đó là giấc
mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời
của những con người Phương Đơng
sống trong thời trung đại: mong sao có
một bậc vua hiền để có được cuộc
sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Trước
hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp
Thuận đã phát biểu: "Vận nước như
mây cuốn/ Trời Nam mở thái bình/ Vơ
vi trên điện các/ Xứ xứ dứt đao binh".

Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh
Lê Thánh Tơng cố sức mình cũng chỉ
để thỏa lịng mong muốn: Nhà nam

2.2. Vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ.
- Nguyễn Trãi mong có cây đàn của
vua Ngu Thuấn để đàn khúc Nam
Phong cầu cho mưa thuận gió hịa,
nhân dân được ấm no hạnh phúc (dân
giàu đủ khắp đòi phương.
- Nghệ thuật thể hiện:
+ Sử dụng điển tích
+ Câu thơ lục ngơn với nhịp 3/3/ngắn
gọn dứt khoát thể hiện sự dồn nén cảm
xúc của bài thơ
=> điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai
khơng phải ở thiên nhiên tạo vật mà ở
chính cuộc sống con người, ở nhân
dân
Vậy là nếu bài thơ mở ra một Nguyễn
Trãi thanh nhàn ung dung hóng mát
thì câu kết của bài thơ lại cho ta thấy
rõ Nguyễn Trãi có thể nhàn thân
nhưng khơng nhàn tâm. Trong ơng
ln ln cháy bỏng tấm lịng ưu ái
dành cho nhân dân cho đất nước.

17

skkn



nhà bắc đều có mặt/ Lừng lẫy cùng ca
khúc thái bình.
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đờitừ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui
sống như thế, Nguyễn Trãi lại khắc
khoải khát vọng muôn năm này. Mong
trị quốc, bình thiên hạ, sao cho dân
giàu, nước mạnh là giấc mơ của một
bậc đại nhân.
Như vậy, Nguyễn Trãi rất yêu
thiên nhiên nhưng trên hết vẫn là tấm
lịng của ơng tha thiết với con người,
với dân, với nước.
III. Tổng kết
1. Nội dung
- Bài thơ là bức tranh phong cảnh ngày
hè đặc trưng, giản dị, quen thuộc và
sinh động, vui tươi, giàu sức sống
- Thể hiện vẻ đẹp tâm hồn vui sống,
yêu tha thiết thiên nhiên, cuộc sống,
chan hoà với thiên nhiên và canh cánh
nỗi niềm ưu ái, khát vọng hạnh phúc
cho nhân dân.
2. Nghệ thuật
- Ngơn ngữ đạt đến trình độ kết tinh
nghệ thuật thơ Tiếng Việt giản dị,
chân thực mà chính xác, tinh tế, gợi
cảm.
- Hình ảnh đặc sắc, tiêu biểu.

- Cảnh được sáng tạo bằng nhiều giác
quan.
- Nghệ thuật việt hóa thơ Đường.

- Em hãy khái quát lại nội dung cơ
bản của bài thơ?
- Làm nên sự thành công cho nội dung
văn bản phải kể tới đóng góp nhất
định của nghệ thuật. Em hãy chỉ ra
những thành công về nghệ thuật của
bài thơ?
(GV mở rộng thêm: Với đặc điểm về
số câu (8 câu), cách gieo vần (cuối các
câu 1, 2, 4, 6, 8), lối đối ngẫu ở hai
liên giữa (cặp câu 3- 4, 5- 6) thì vẫn
thấy đây là bài thơ thất ngơn bát cú.
Nhưng bài thơ có một số điểm khác so
với thơ thất ngôn bát cú Đường luật:
Xen câu lục ngôn vào thơ thất ngôn:
Câu 1 và câu 8 chỉ có sáu tiếng nên
chúng thành những câu độc lập, không
gắn với câu 2 và câu 7 thành liên như
thể thơ Đường luật; Đa dạng hơn về
nhịp điệu; Bố cục linh hoạt: có thể
chia theo nhiều cách)
Giáo viên tổ chức cho học sinh liên hệ, so sánh về ý nghĩa của cái tơi trữ tình
trong xã hội hiện đại
- Em có suy nghĩ gì về những rung cảm tinh tế của Nguyễn Trãi trước khung
cảnh thiên nhiên cũng như nỗi niềm chân thành, tình yêu tha thiết của thi nhân
với nhân dân, đất nước? Liên hệ với tình yêu quê hương, đất nước, con người

của các bạn trẻ thời nay? Muốn có được những tình cảm chân thành như
Nguyễn Trãi, tuổi trẻ ngày nay cần có ý thức và hành động ra sao?
Nguyễn Trãi- nhà quân sự, nhà chính trị, danh nhân văn hóa thế giới, một
cơng dân của nước Việt: u nước, thương dân. Cịn tình u, niềm tự hào về
quê hương đất nước của giới trẻ ngày nay đôi lúc cũng mãnh liệt, dữ dội nhưng

18

skkn


đôi lúc cũng tẻ nhạt, hời hợt chứ không sâu sắc, chân thành. Tình cảm đó đơi
khi cịn bị lu mờ bởi nền kinh tế thị trường, bởi những tham vọng cá nhân.
Tuổi trẻ hôm nay muốn phát huy phẩm chất, năng lực của người xưa cần chú
trọng tới ý thức và trách nhiệm của bản thân với quê hương đất nước. Ngay từ
bây giờ hãy biết sống có lý tưởng, có khát vọng cao đẹp; mong muốn được
cống hiến cho đất nước, nhân dân. Trách nhiệm của tuổi trẻ là ra sức học tập,
rèn luyện, lao động để đóng góp một phần nhỏ bé vào cơng cuộc kiến thiết và
bảo vệ tổ quốc
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Với đề tài trên, cá nhân tôi đã soạn thành giáo án (kết hợp với việc ứng
dụng CNTT) và tiến hành dạy bài “Cảnh ngày hè” ở lớp 10A2 - Năm học
2021- 2022- Trường THPT nơi tôi công tác, bước đầu thu được kết quả:
* Trực quan về tiết dạy:
- Tiết học tránh được sự khô khan, nặng nề, đơn điệu, buồn tẻ.
- Hầu hết các em đều có thái độ hứng thú, tích cực hơn trong giờ học.
- Các em có những phản hồi tích cực.
- Các em khơng chỉ hiểu và nắm được nội dung bài học mà cịn tích hợp cho
mình được những kỹ năng sống cần thiết và rèn luyện kỹ năng đọc- hiểu văn
bản thơ Nơm Đường luật.

* Qua phiếu thăm dị ý kiến của học sinh.
Áp dụng đề tài trên, tôi tiến hành giảng dạy bài “Cảnh ngày hè” của Nguyễn
Trãi ở lớp 10A2 tại trường THPT nơi tôi công tác, năm học 2021- 2022. Học
sinh được kiểm tra trắc nghiệm khách quan dạng câu hỏi "có hoặc khơng?":
Anh/ chị có thích học bài "Cảnh ngày hè" của tác giả Nguyễn Trãi không? Kết
quả như sau:
Có hứng thú
Khơng hứng thú
Tổng số
Lớp
học sinh
Số học sinh
Tỉ lệ %
Số học sinh
Tỉ lệ %
10A2
43
38
88.37 %
5
11.63 %
* Kết quả kiểm tra
Đánh giá qua câu hỏi kiểm tra kiến thức, kĩ năng: Vẻ đẹp tâm hồn
Nguyễn Trãi qua bài thơ “Cảnh ngày hè”? [6]
Cách thức: cùng một đề bài, tôi tiến hành kiểm tra, đối sánh giữa hai lớp
mà bản thân trực tiếp giảng dạy là 10A2 và 10A12- Năm học 2021- 2022
(Trong đó, lớp 10A12 là lớp mà tơi dạy theo cách thơng thường cịn lớp 10A2
là lớp tơi đã tiến hành dạy theo đặc trưng thể loại với một số biện
pháp cụ thể đã nêu ở trên). Kết quả như sau:
Giỏi

Khá
TB
Yếu
Tổng
Số
Số
Số
Lớp số học
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Số học Tỉ lệ
học
học
học
sinh
%
%
%
sinh
%
sinh
sinh
sinh
10A2
43
9
20,93
28
65,12

6
13,95
0
0
10A12
42
2
4,76
21
50,00
18
42,86
1
2,38

19

skkn


Như vậy, dạy học tác phẩm văn chương mà cụ thể là dạy bài “Cảnh ngày
hè” của Nguyễn Trãi theo đặc trưng thể loại đã tạo ra hứng thú để học sinh tiếp
nhận và lĩnh hội tri thức chủ động và hiệu quả hơn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận:
- Tổ chức dạy học bài “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi theo đặc trưng thể
loại thực sự đã đem lại hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của đổi mới dạy học:
học sinh là trung tâm trên con đường khám phá và lĩnh hội tri thức. Các em học
sinh đã có được niềm hứng thú trong q trình tiếp cận tác phẩm, thầy cơ giáo
tránh được giờ học mang tính chất thuyết trình, truyền thụ kiến thức một cách

thụ động cho học sinh. Sau bài học này, học sinh sẽ có phương pháp tốt hơn khi
học tác phẩm cùng thể loại. Áp dụng cách thức tổ chức dạy học này cịn giáo
dục cho các em lịng tự hào, tự tơn về dân tộc, biết quý trọng những giá trị tinh
thần của cha ông.
3.2 Kiến nghị:
Qua thực nghiệm giảng dạy, tôi có một vài kiến nghị sau:
Đối với giáo viên: Giáo viên cần nắm vững loại thể này một cách cụ thể,
sâu sắc hơn; vận dụng các biện pháp một cách linh hoạt, phù hợp với từng đối
tượng học sinh, từng bài dạy; tích cực đọc, tìm tịi, nghiên cứu tài liệu để có cái
nhìn sâu rộng về tác phẩm, trên cơ sở đó tổ chức các giờ dạy có hiệu quả, phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc cảm thụ, đi
tìm cái đẹp, cái hay của tác phẩm văn học.
Đối với học sinh: Các em học sinh cần nghiêm túc trong học tập và chủ
động trang bị cho bản thân những kiến thức cịn thiếu. Tích cực trao đổi, đề
nghị thầy cơ hướng dẫn để kịp thời giải quyết những vướng mắc, khó khăn.
Đối với nhà trường: Tài liệu nghiên cứu về thể loại Thơ Nơm Đường luật
trong nhà trường cịn rất khan hiếm. Vì vậy, rất mong nhà trường tiếp tục tìm
kiếm, trang bị thêm nguồn tư liệu để giáo viên tham khảo, tự bồi dưỡng nhằm
dạy học bộ môn tốt hơn.
Với đề tài sáng kiến trên, bản thân tôi tha thiết được lắng nghe những góp ý
từ các thế hệ đồng nghiệp để tơi tiếp tục hồn thiện mảng đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nghi Sơn, ngày 10 tháng 5 năm 2022

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung đề tài
trên là do bản thân tôi nghiên cứu và thực
hiện, không sao chép nội dung của bất kỳ ai.

NGƯỜI VIẾT SKKN

Hà Thị Thu Hiền

20

skkn



×