Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Xây Dựng Hệ Thống Câu Hỏi Nêu Vấn Đề Trong Dạy Học Hai Tác Phẩm Tràng Giang Của Huy Cận Và Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử Ở Lớp 11, Trung Học Phổ Thông 6830627.Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.29 KB, 60 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐỖ THỊ BÍCH ĐÀO

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ
TRONG DẠY HỌC HAI TÁC PHẨM “TRÀNG GIANG” CỦA
HUY CẬN VÀ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ
Ở LỚP 11, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐỖ THỊ BÍCH ĐÀO

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ
TRONG DẠY HỌC HAI TÁC PHẨM “TRÀNG GIANG” CỦA
HUY CẬN VÀ “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ
Ở LỚP 11, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)


Mã SỐ: 60 14 01 11

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN KHÁNH THÀNH

HÀ NỘI - 2014

2


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ban lãnh đạo, các thầy, cơ, cán bộ các phịng,
ban và các thầy, cô trường Đại học Giáo Dục đã giúp đỡ, giảng dạy, tạo điều
kiện cho tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Khánh Thành,
người đã tận tình hướng dẫn, góp ý và chỉ bảo tơi trong suốt q trình thực
hiện luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo phản biện đã đọc và cho
những nhận xét quý báu cho luận văn này
Xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và
các em học sinh trường THPT A Thanh Liêm, Thanh Liêm, Hà Nam đã tạo
kiện giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu, thực nghiệm và
hồn thiện luận văn.
Cuối cùng, tơi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả bạn bè, đồng
nghiệp và đặc biệt là gia đình, những người ln kịp thời động viên và giúp
đỡ tôi vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và tạo điều kiện thuận lợi
nhất để tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11, năm 2014
Tác giả luận văn


Đỗ Thị Bích Đào

i


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

THPT

Trung học phổ thông


ii


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ................................................................................................ i
Danh mục viết tắt .........................................................................................ii
Mục lục ........................................................................................................iii
Danh mục các bảng ......................................................................................vi
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ................8
1.1. Cơ sở lý luận .........................................................................................8
1.1.1. Khái niệm về câu hỏi ..........................................................................8
1.1.2. Khái niệm câu hỏi nêu vấn đề .............................................................8
1.1.3. Đặc điểm và nguyên tắc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề ........................9
1.1.4. Vai trò của câu hỏi nêu vấn đề ............................................................14
1.1.5. Phân loại hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong tác phẩm văn chương..............16
1.1.6. Tràng giang và Đây thôn Vĩ Dạ chứa đựng những tiền đề cho
việc ứng dụng câu hỏi nêu vấn đề................................................................28
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................30
1.2.1. Giờ học Ngữ văn chưa phát huy được tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của chủ thể học sinh .......................................................................30
1.2.2. Hạn chế trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong dạy học Ngữ văn
32
Chương 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÂU HỎI NÊU VẤN ĐỀ
VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CÂU HỎI NÊU VẤN
ĐỀ TRONG DẠY HỌC HAI TÁC PHẨM TRÀNG GIANG CỦA
HUY CẬN VÀ ĐÂY THÔN VĨ DẠ CỦA HÀN MẶC TỬ Ở LỚP
11, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ..............................................................34

2.1. Thực trạng .............................................................................................34
2.1.1. Khảo sát hệ thống câu hỏi trong dạy học tác phẩm Tràng giang
của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử thấy nhiều điểm
không hợp lý ................................................................................................34
2.1.2.Nguyên nhân dẫn đến những bất hợp lý khi sử dụng các câu hỏi
trong dạy học hai tác phẩm Tràng giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ
Dạ của Hàn Mặc Tử .....................................................................................38

iii


2.2. Định hướng xây dựng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học hai tác
phẩm Tràng giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử..........40
2.2.1. Những yêu cầu chính đối với câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học
hai tác phẩm Tràng giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn
Mặc Tử ........................................................................................................40
2.2.2. Hai tác phẩm Tràng giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của
Hàn Mặc Tử chứa đựng những tiền đề cho việc ứng dụng câu hỏi nêu
vấn đề ...........................................................................................................42
2.3. Các bước chuẩn bị cho việc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề trong
giờ học hai tác phẩm Tràng giang và Đây thôn Vĩ Dạ ................................ 54
2.3.1. Phát hiện vấn đề, tình huống có vấn đề, thiết kế giáo án là khâu
đầu tiên trong quá trình xây dựng câu hỏi nêu vấn đề ................................ 54
2.3.2. Xây dựng tình huống có vấn đề, hoạt động mang tính tiền giả
định để xây dựng câu hỏi nêu vấn đề cho phù hợp .......................................55
2.3.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề ...............................................57
2.4. Điều kiện để vận dụng câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học hai tác
phẩm Tràng giang và Đây thôn Vĩ Dạ ..........................................................58
2.4.1. Tạo tâm thế, môi trường học tập cho học sinh và đưa ra câu hỏi.........58
2.4.2. Đổi mới vai trị, đề cao tính tích cực của người học, tạo khơng

khí dân chủ trong giờ học .............................................................................61
2.4.3. Sử dụng linh hoạt câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học............................62
Chương 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ..................................................63
3.1.Khái quát về thực nghiệm .......................................................................63
3.1.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................63
3.1.2. Nội dung thực nghiệm ........................................................................63
3.1.3. Phương pháp thực nghiệm ................................................................63
3.1.4. Đối tượng, thời gian và địa bàn thực nghiệm ................................ 64
3.1.5. Chuẩn bị công việc thực nghiệm.........................................................64
3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm ................................................................65
3.2.1. Giáo án dạy học bài Tràng giang ........................................................65
3.2.2. Giáo án dạy học bài Đây thôn Vĩ Dạ ..................................................73
3.3. Thuyết minh hệ thống câu hỏi trong bài thực nghiệm ............................84
3.4. Kết quả thực nghiệm và đánh giá...........................................................87
iv


3.4.1. Đánh giá khả năng tiếp thu bài của học sinh bằng bài kiểm tra ...........87
3.4.2. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề bằng
phương pháp quan sát ...................................................................................90
3.4.3. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề bằng
phương pháp phỏng vấn ...............................................................................91
3.5. Thành công và hạn chế của thực nghiệm ...............................................92
3.5.1.Những thành cơng của thực nghiệm ....................................................92
3.5.2.Những vấn đề cịn hạn chế ................................................................ 92
3.6. Một số điểm cần lưu ý khi sử dụng câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học ...........94
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................................96
1. Kết luận ................................................................................................................96
2. Khuyến nghị ................................................................................................


97

TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................99
PHỤ LỤC................................................................................................ 101

v


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Thống kê số lượng câu hỏi trong dạy học học hai tác phẩm
Tràng giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử dựa
vào sách giáo khoa, giáo án và giờ dạy của đồng nghiệp. .............................
35
Bảng 3.1. Thang điểm đánh giá ................................................................ 87
Bảng 3.2. Kết quả kiểm tra lớp 11A2 ...........................................................
88
Bảng 3.3. Kết quả bài kiểm tra lớp 11A6......................................................
88
Bảng 3.4. Kết quả bài thực nghiệm và bài đối chứng bài Tràng giang ..........
88
Bảng 3.5. Kết quả bài thực nghiệm và bài đối chứng ở bài Đây thôn
Vĩ Dạ............................................................................................................
89

vi


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là một vấn đề cấp bách, được
đặc biệt quan tâm
Đổi mới PPDH là một trọng tâm của đổi mới giáo dục. Luật giáo dục
(điều 28) yêu cầu: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho HS”.
Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong
những yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo, là sự sống còn của mỗi cơ sở đào tạo.Vấn đề đổi mới phương
pháp dạy học rất được dư luận quan tâm. Báo chí và các cơ quan truyền thông đã
mở nhiều cuộc trao đổi xoay quanh vấn đề này. Cũng là những tín hiệu đáng
mừng, nó phản ánh chủ trương mạnh dạn xã hội hóa giáo dục và quyết tâm đổi
mới giáo dục Đại học ở nước ta, trong điều kiện khách quan đã chín muồi: Phải
dạy học trong mơi trường dân chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa để có được khâu
đột phá về mặt đào tạo chuyên sâu nguồn nhân lực.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Con
người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hoá”, “coi phát triển giáo dục và đào tạo;
khoa học và công nghệ là nền tảng và là động lực..., là giải pháp quan trọng
nhất để nền giáo dục ở nước ta trong giai đoạn đầu thế kỷ 21 có thể tiến kịp
với sự phát triển của khoa học trên thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay”.
1.2. Yêu cầu đổi mới phương pháp trong dạy học môn Ngữ văn
Thời gian luôn trôi chảy và vận động. Khơng có gì là ln đúng đắn và
phù hợp cho mọi thời đại. Phương pháp dạy học cũng vậy. Vì vậy việc đổi
1



mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học nói riêng là
một vấn đề cấp thiết đang rất được quan tâm.
Theo điều 5 của Luật Giáo dục Việt Nam, yêu cầu cụ thể đối với
phương pháp giáo dục là: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Cho nên một nền giáo dục với những phương pháp lỗi thời sẽ không đáp ứng
được nhu cầu thực tế, không thể cho ra sản phẩm là những con người mới phù
hợp với yêu cầu của thời đại.
Riêng ở môn Ngữ văn, một thời gian dài, trong các nhà trường đã áp
dụng phương pháp dạy học giáo điều. Theo Trần Đình Sử, nói đến phương
pháp dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay không thể không
nhắc tới các hiện tượng rất phổ biến trong các giờ học văn hiện nay là: dạy
học đọc chép; dạy học nhồi nhét; dạy học văn như nhà nghiên cứu khoa
học; học sinh học thụ động, thiếu sáng tạo; học sinh không biết tự học; học
tập thiếu hợp tác giữa thầy và trò, giữa trò với trò; học tập thiếu hứng thú,
đam mê.
Từ thực tế như vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn
trở thành một yêu cầu cấp bách.
1.3. Trong giờ dạy học tác phẩm văn chương, hệ thống câu hỏi của giáo
viên luôn giữ vai trị quan trọng
Hiện nay phương pháp giảng dạy tích cực theo quan điểm "Lấy học
sinh làm trung tâm” của quá trình dạy học đã được đưa vào ứng dụng trong
hoạt động dạy học nói chung, trong giờ học Ngữ văn nói riêng. Để phát huy
tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập thì người giáo viên có
nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo hoạt động của trị, trị phải là chủ thể tự giác tích
cực trong q trình lĩnh hội kiến thức. Để thực hiện được mục tiêu đó, đặt câu
hỏi có ý nghĩa tăng cường tính tích cực chủ động của học sinh, chống lại thói
quen thụ động trong giờ học. Câu hỏi chính là phương tiện cho học sinh tự
2



học để giáo viên dẫn dắt học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Nhưng đặt
câu hỏi như thế nào để giờ học đạt hiệu quả lại là một vấn đề cần phải trao
đổi.
Trên thực tế đứng lớp, sau khi đi dự giờ góp ý tiết dạy, chúng tơi nhận
thấy việc đặt câu hỏi để khai thác kiến thức là vấn đề vô cùng quan trọng. Tuy
nhiên, nhận thức cũng như cách xây dựng và sử dụng hệ thống câu hỏi trong
dạy học của giáo viên còn rất nhiều hạn chế và bất cập. Có những tiết dạy
giáo viên đặt câu hỏi rất nhiều, câu hỏi nào học sinh cũng trả lời được, vì
những câu hỏi đó học sinh chỉ cần nhìn vào sách giáo khoa đọc lên, khơng
cần suy luận. Có những tiết dạy giáo viên chỉ sử dụng những câu hỏi ở trong
sách giáo viên và ở phần câu hỏi đọc - hiểu văn bản, như vậy thì khả năng
phân tích, tìm hiểu, nêu suy nghĩ của các em sẽ khơng có, dẫn tới tình trạng
khi viết văn lời văn khô khan chỉ biết sao chép theo khuôn mẫu khơng sáng
tạo. Lại có những tiết giáo viên liên tục đặt nhiều câu hỏi không học sinh
nào trả lời được, khơng khí lớp học nặng nề nhưng giáo viên không gợi ý,
không thay đổi câu hỏi mà lại đọc lại câu hỏi đó, hỏi như vậy học sinh trả
lời không hướng vào câu hỏi cũng như kiến thức bài học. Có khi giáo viên
gặp đâu hỏi đó, hỏi vụn vặt, hỏi “tấn công” học sinh đến khi nào không trả
lời được mới thơi. Chính những câu hỏi như vậy khiến cho học sinh không
hứng thú học mà lo sợ khi giáo viên đặt câu hỏi. Để khơi dậy ở các em
hứng thú và sự chủ động, tích cực, câu hỏi chính là phương tiện, là sự lựa
chọn tối ưu của giáo viên.
Hiện nay có rất nhiều hệ thống câu hỏi khác nhau được giáo viên sử
dụng trong giờ học văn: câu hỏi tái hiện, câu hỏi gợi tìm, câu hỏi so sánh,…
Vấn đề đặt ra ở đây là hệ thống câu hỏi nào giúp học sinh chủ động, tích cực,
sáng tạo trong giờ học. Riêng ở đề tài này, chúng tôi quan tâm đến việc giảng
dạy hai tác phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 11, đó là Tràng giang của
Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Đây là hai tác phẩm trữ tình

tiêu biểu, là những thi phẩm thành công của trong phong trào Thơ Mới thời
3


kỳ văn học trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Đã có nhiều cơng trình
khoa học, những bài viết nghiên cứu về cách giảng dạy hai tác phẩm này.
Nhưng một tác phẩm luôn mở ra nhiều lối đi, đặc biệt là một tác phẩm đặc
sắc. Làm sao để khơi dậy ở học sinh sự hứng thú và sự chủ động, tích cực,
nhằm nâng cao hiệu quả giờ học là mong muốn của bất kì nhà sư phạm nào.
Xuất phát từ những lí do trên và thực tiễn giảng dạy của người viết, chúng
tôi chọn đề tài “Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học hai tác
phẩm “Tràng giang” của Huy Cận và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử”
nhằm góp thêm một tiếng nói về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có rất nhiều những cơng trình
khoa học nghiên cứu dưới góc độ phương pháp luận về câu hỏi trong giờ dạy
học Ngữ Văn.
Ngay từ những năm trước Công nguyên vấn đề này đã gắn liền với tên
tuổi của nhà triết học Socrát (470 - 390 TCN), Khổng Tử (551 - 479 TCN)
cho rằng khi dạy học là đưa người học vào tình huống mâu thuẫn, tức là đặt ra
cho họ những câu hỏi bẫy để kích thích cho người học.
Ở Liên Xô, các tài liệu đề cập đến phương pháp xây dựng và sử dụng
câu hỏi trong dạy học của các tác giả như: P.B. Gophman, O.Karlinxki,
B.P.Exipop, M.A.Danilop, N.M.Veczilin. Cũng đi sâu vào nghiên cứu và vấn
đề này cịn có một số nhà giáo dục như: Skinner (Mỹ), Okon (Ba Lan)... Gần
đây đáng chú ý có cơng trình Đặt câu hỏi có hiệu quả cao (HEO) cách thức
giúp học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động học tập của Ivan Hanel.
Ở nước ta, các tài liệu nghiên cứu riêng về vấn đề câu hỏi và bài tập nhìn
chung cịn ít. vấn đề nghiên cứu phương pháp xây dựng câu hỏi trong dạy học
môn văn được đề cập trong một số cơng trình như: Phương pháp dạy học tác

phẩm văn chương trong nhà trường (2009) của Nguyễn Viết Chữ.
Trong cuốn Phương pháp dạy học Văn của Phan Trọng Luận (Chủ biên), tác
giả đề cập tới đặc điểm, vai trò và nguyên tắc của việc xây dựng hệ thống câu hỏi
4


gắn với phương pháp dạy học. Tác giả bàn nhiều đến tiêu chí câu hỏi nêu vấn đề
và, điều đó có đóng góp đáng kể, làm phong phú thêm cho đề tài nghiên cứu.
Khi tiến hành biên soạn sách giáo khoa cải cách, nói về Phương hướng
biên soạn sách giáo khoa cải cách lớp 10, Nguyễn Lộc đã đề cập đến vấn đề
câu hỏi và bài tập: Tuyệt đối tránh những câu hỏi mà học sinh không cần
nghiên cứu văn bản cũng có thể trả lời được đại khái, hay những câu hỏi chỉ
chú trọng mặt đạo đức xã hội của tác phẩm mà hoàn toàn coi nhẹ giá trị thẩm
mĩ của tác phẩm. Phải nghiên cứu thật kỹ các văn bản giảng văn để nêu lên
những câu hỏi cụ thể, gợi mở để học sinh có thể trả lời từng bước từ chi tiết
đến khái quát. Bám sát câu hỏi, học sinh tự mình phát hiện ra cái hay, cái đẹp
của văn bản. Ý kiến trên đã thể hiện quan niệm về vai trò, ý nghĩa và tầm
quan trọng của hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa Văn học kể cả nội dung
khoa học cũng như phương pháp sư phạm.
Trong cuốn Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn
chương, tác giả Nguyễn Trọng Hoàn đã đi sâu vào trình bày những biện pháp
nhằm rèn luyện tư duy cho học sinh. Tác giả có phân loại các loại câu hỏi
trong dạy học Văn. Theo tác giả, “Việc đặt câu hỏi đối với học sinh trong q
trình tiếp nhận văn học có ý nghĩa làm thay đổi tình thái của giờ học, hay nói
cách khác là mở tình huống “có vấn đề”, xác định tâm thế thực tại và đặt học
sinh vào các yêu cầu của việc nhận thức”.
Như vậy, theo tác giả, hệ thống câu hỏi và bài tập trong giờ học Văn có ý
nghĩa tạo ra các tình huống có vấn đề cho học sinh tìm hiểu và giúp học sinh
tiếp nhận bài học một cách tích cực.
Đi vào cụ thể hơn về vấn đề câu hỏi trong dạy học Văn là bài viết Câu hỏi

trong giảng văn của Trương Dĩnh. Tác giả đã phân tích khái niệm vấn đề, vấn đề
trong học tập và vấn đề trong phân tích văn học. Theo ơng, để diễn đạt vấn đề
hay đề ra nó, người ta dùng hình thức đặt câu hỏi. Nội dung vấn đề và câu hỏi
nêu vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đặt ra được các vấn đề dưới dạng câu
hỏi là một nghệ thuật của lao động sáng tạo trong phân tích nêu vấn đề.
5


Cùng với nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, trường Đại học Giáo
dục đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo đề cập vấn đề dạy học với câu hỏi hiệu
quả. Hội thảo đã cung cấp nhiều bài nghiên cứu có giá trị về vấn đề này
cũng như đưa ra những tiêu chí đánh giá câu hỏi có hiệu quả.
Trên đây là một số khái quát về vai trò của câu hỏi và trong dạy học văn
qua một số công trình nghiên cứu trong và ngồi nước. Từ việc nghiên cứu
trên có thể thấy việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ dạy học văn là vấn
đề không mới. Nhưng các cơng trình chỉ dừng lại ở việc lý luận về câu hỏi.
Còn việc xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề cho việc dạy và học hai tác
phẩm cụ thể là Tràng giang của Huy Cận và Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
thì chưa có cơng trình hay bài viết nào. Đây là một vấn đề hồn tồn mới mà
đề tài của chúng tơi quan tâm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong hai tác phẩm là Tràng
giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử ở chương trình Ngữ
văn lớp 11, THPT.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc đặt câu hỏi nêu vấn đề.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề cho hai tác phẩm là Tràng giang
của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử ở chương trình Ngữ văn
lớp 11, THPT.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học hai tác phẩm Tràng
giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử ở chương trình
Ngữ văn lớp 11, THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện đề tài này, chúng tơi sử dụng phối hợp các
phương pháp sau.
6


5.1 Phương pháp điều tra
- Thu thập những thông tin về việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề.
- Thu thập những thông tin ngược của học sinh về việc học hai tác phẩm
Tràng giang của Huy Cận và Đây thơn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử ở chương trình
Ngữ văn lớp 11, THPT.
5.2 Thực nghiệm sư phạm
Vận dụng câu hỏi nêu vấn đề để dạy hai tác phẩm là Tràng giang của
Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử ở chương trình Ngữ văn lớp
11, THPT.
5.3 Phương pháp thống kê
Sử dụng một số phương pháp như lập bảng, vẽ đồ thị, thống kê, kiểm
định để đánh giá kết quả thực nghiệm.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng và những định hướng xây dựng câu hỏi nêu vấn
đề trong dạy học hai tác phẩm Tràng giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ
của Hàn Mặc Tử.
Chương 3: Thực nghiệm.


7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 . Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về câu hỏi
Theo Arisotle: “Câu hỏi là một mệnh đề trong đó chứa đựng cái đã biết
và cái chưa biết.”. Trong đời sống hàng ngày hay trong học tập, nghiên cứu
khoa học, con người chỉ đặt ra câu câu hỏi khi đã biết nhưng chưa đầy đủ, cần
phải tìm hiểu thêm. Cịn nếu đã biết hoặc chưa biết tất cả về các sự vật, hiện
tượng... nào đó thì khơng có gì phải hỏi. Như vậy, tương quan giữa cái đã biết
và cái chưa biết sẽ thúc đẩy con người đặt ra các câu hỏi để mở rộng hiểu biết.
Lúc ấy, câu hỏi thực sự là kết quả của quá trình nhận thức.
Trong dạy học, câu hỏi được hiểu là một dạng cấu trúc ngơn ngữ để
diễn đạt một u cầu, một địi hỏi, một mệnh lệnh của người dạy mà người
học cần giải quyết. Câu hỏi thường được đặt ra để tích cực hóa hoạt động của
học sinh, do vậy câu hỏi phải giúp học sinh phát triển tư duy, phát huy tính
tích cực, chủ động trong học tập của người học.
1.1.2. Khái niệm câu hỏi nêu vấn đề
Trong nhiều trường hợp khi đã xác định được vấn đề, nhờ câu hỏi nêu
vấn đề mà giáo viên tạo được tình huống có vấn đề, tức là xác định được cái
chưa biết, cuốn hút sự quan tâm của học sinh và tiên lượng trước khả năng
giải quyết vấn đề của các em.
Câu hỏi có vấn đề là câu trả lời của HS có chứa đựng nội dung mới
trong vấn đề. GV đưa ra câu hỏi có vấn đề có tác dụng định hướng cho HS
phát hiện mâu thuẫn khách quan chuyển thành mâu thuẫn logic của chủ thể và
đề xuất phương án giải quyết vấn đề đó.
Vũ Nho quan niệm: Câu hỏi nêu vấn đề khơng nhằm mục đích tái hiện

kiến thức cũng không nhằm khơi gợi sự tự biểu hiện của học sinh khi đánh
giá chi tiết hay toàn bộ các tác phẩm văn học. Câu hỏi nêu vấn đề phải làm rõ

8


được vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm, phải gây hứng thú nhận thức cho học
sinh, phải động viên, khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu.
Câu hỏi nêu vấn đề phải làm rõ hoặc đặt ra được vấn đề, đưa người
nghe và tình huống có vấn đề. Tính chất khái quát, tính chất phức tạp, tính
chất hệ thống và tính chất phù hợp với tác phẩm là đặc điểm của câu hỏi nêu
vấn đề.
Trong cuốn Phương pháp dạy học văn, Phan Trọng Luận cho rằng: câu
hỏi nêu vấn đề là loại câu hỏi đặt ra cho chủ thể học sinh và được học sinh
tiếp nhận một cách có ý thức, khơng phải từ ngồi dội vào mà là do nhu cầu
khám phá tìm hiểu của bản thân và chính học sinh cũng đã có một số dữ kiện
(tri thức kinh nghiệm kĩ năng) song khơng thể tìm được lời giải cũ bằng chính
những hiểu biết cũ và theo phương thức hành động cũ.
Trong đề tài, chúng tôi quan niệm: Câu hỏi nêu vấn đề là hệ thống cấu
trúc ngơn ngữ để diễn đạt một u cầu, địi hỏi, một mệnh lệnh mà người học
cần giải quyết, được xác lập dựa trên những vấn đề dặt ra trong tác phẩm
nhằm yêu cầu học sinh vận dụng cái đã biêt, cái đã cho làm phương tiện để
học sinh chủ đơng, tích cực giải quyết những u cầu đặt ra trong giờ học văn.
1.1.3. Đặc điểm và nguyên tắc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề
1.1.3.1 .Đặc điểm của câu hỏi nêu vấn đề
Thứ nhất, câu hỏi nêu vấn đề mang bản chất sáng tạo. Những câu hỏi
có tính chất tái hiện chỉ đòi hỏi sự nhớ lại kiến thức cũ đã biết, yêu cầu chủ
yếu trí nhớ của học sinh mà khơng động viên sự tìm tịi của các em. Cịn câu
hỏi nêu vấn đề về bản chất, nó mang tính chất sáng tạo, mang tính ý thức của
chủ thể khi tiếp nhận.

Chẳng hạn:
Câu hỏi 1: Cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân được miêu tả như thế nào? ( câu hỏi tái hiện).

9


Câu hỏi 2: Trong tác phẩm Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã cho rằng:
cảnh cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Ý kiến của anh/ chị
như thế nào? Hãy lí giải.(câu hỏi nêu vấn đề).
Trong câu hỏi nêu 1, học sinh chỉ cần dựa vào văn bản để đọc lại các
chi tiết được miêu tả trong cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục và trả lời.
Trong khi đó, ở câu hỏi thứ 2 là dạng câu hỏi nêu vấn đề, rõ ràng học sinh
phải huy động tối đa kiến thức đã có khi đọc văn bản, dựa vào kiến thức đó
để lý giải theo cách mà học sinh tìm tịi, sáng tạo từ đó tìm ra câu trả lời
thỏa đáng.
Thứ hai, câu hỏi nêu vấn đề thường chứa đựng một mâu thuẫn nhận
thức. Câu hỏi nêu vấn đề đặt học sinh trước những mâu thuẫn về cái chưa biết
và cái đã biết, cái thông thường – cái bất thường, cái cũ – cái mới…Mâu
thuẫn đó làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của học sinh.
Ví dụ: Trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao, tại sao khi bị Thị Nở từ
chối, Chí Phèo nói là đi giết cô cháu Thị Nở, nhưng bước chân của hắn lại đến
thẳng nhà Bá Kiến?
Câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải nhớ lại những hành động của Bá
Kiến đối với Chí Phèo (đẩy Chí Phèo vào tù, khi Chí Phèo ra tù lại lợi dụng
để biến Chí trở thành một kẻ lưu manh, một con quỷ dữ); đặc biệt học sinh
phải phân tích được tâm lí của Chí Phèo lúc này, đó là Chí Phèo đã tỉnh ngộ,
đã nhận thức được kẻ thù của mình. Hắn nhận ra kẻ đã đẩy hắn vào bi kịch bị
cự tuyệt không phải là cơ cháu Thị Nở mà chính là Bá Kiến. Từ những điều
đã biết như thế, học sinh sẽ tìm tịi để tìm ra câu trả lời là cái chưa biết của

mình. Đó là tại sao bước chân của Chí Phèo lại đến thẳng nhà Bá Kiến.
Khi giải quyết câu hỏi này, học sinh phải vừa vận dụng những kiến
thức đã biết, vừa phải tư duy để lí giải vấn đề có tính mâu thuẫn.
Thứ ba, câu hỏi nêu vấn đề thường phản ánh được tâm trạng ngạc
nhiên của học sinh khi nhận ra mâu thuẫn nhận thức, khi đụng chạm tới vấn
đề.
10


Ví dụ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi, nhân vật Mị khi bị
bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra đã có ý định tự tử vì q uất ức. Vì thương
cha nên Mị khơng nỡ chết. Nhưng sau một thời gian, khi cha Mị chết rồi, Mị
khơng cịn nghĩ đến cái chết nữa mà chấp nhận thân phận làm dâu gạt nợ.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi: Tại sao lúc này Mị không nghĩ đến cái chết nữa?
Khi đứng trước câu hỏi như vậy, học sinh sẽ có sự ngạc nhiên: Vì sao cùng
một nhân vật lại nẩy sinh mâu thuẫn như vậy? Chính sự ngạc nhiên đó sẽ thúc
đẩy học sinh suy nghĩ, tìm tịi và lí giải. Đó là khi Mị muốn chết, Mị vẫn cịn
là một cơ gái trẻ trung, xinh đẹp, có khát vọng sống, khát khao hạnh phúc. Mị
muốn chết càng chứng tỏ cơ có khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, không chấp
nhận kiếp sống nô lệ, không có hạnh phúc. Nhưng khi cha chết rồi, Mị lại
khơng nghĩ đến cái chết. Bởi lúc đó, ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi. Sự chà
đạp, áp chế của cha con thống lí đã khiến cho Mị tê liệt về ý thức, trở nên vô
cảm, câm lặng và chấp nhận kiếp sống nơ lệ. Từ đó, học sinh thấy được cái
nhìn hiện thực, nhân đạo sâu sắc và sự am hiểu tâm lí nhân vật của nhà văn
Tơ Hồi trong tác phẩm.
1.1.3.2 .Nguyên tắc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề .
Nguyên tắc đầu tiên, đó là người dạy phải căn cứ vào đối tượng học
sinh, xác định được mục tiêu, nội dung cụ thể trong mỗi giờ học. Trước khi
xây dựng câu hỏi giáo viên phải căn cứ vào đối tượng học sinh. Với sự thay
đổi cơ chế trong dạy học Văn đó là đề cao nhân cách, năng lực học sinh, tôn

trọng bản lĩnh học sinh và tạo điều kiện để học sinh hình thành tư duy sáng
tạo. Câu hỏi nêu vấn đề vì thế phải tập trung vào những đặc điểm then chốt,
quan tâm đến đối tượng tiếp nhận . Cần chú ý vào đối học sinh đã có những
năng lực trình độ nào; học sinh có khả năng liên tưởng, tái hiện, so sánh liên
hệ, phân tích, khái qt hóa, phản ứng trước độ khó, hứng thú khi tiếp nhận ở
mức độ nào…..Giáo viên phải là người “nhập vai” học sinh để trên cơ sở đó
xây dựng câu hỏi cho phù hợp với tâm lý tiếp nhận, tránh những câu hỏi quá
dễ hoặc quá khó.
11


Bước tiếp theo là xác định mục tiêu: hình thành kiến thức, tư duy, kĩ
năng, giáo dục tình cảm, tư tưởng…cho học sinh. Với yêu cầu của một giờ
học cụ thể và đặc trưng môn học, lượng kiến thức, kĩ năng nào cần hình
thành, giáo viên cần biết để đặt ra kế hoạch một cách chi tiết, cụ thể. Câu hỏi
sẽ có tính định hướng và tập trung cho mục tiêu.
Nguyên tắc thứ hai, câu hỏi phải gắn với vấn đề và tình huống có vấn
đề. Đây là ngun tắc đặc thù của việc xây dựng câu hỏi nêu vấn đề. Bản thân
tác phẩm tồn tại như một chỉnh thể thống nhất của nội dung, hình thức, tư
tưởng. Khơng thể bỏ qua những chi tiết nghệ thuật có hàm lượng nghệ thuật
cao, đó là đỉnh cảm xúc, điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm. Ở những chi tiết
đó, tập trung bút lực của người sáng tạo, là cửa sổ tư tưởng, tình cảm của tác
phẩm, tác giả và là nơi hội tụ của những dấu hiệu bản chất nghệ thuật tác
phẩm. Đó là những vùng, những điểm hội tụ của những hình thức mâu thuẫn
nghệ thuật, của những xung đột thẩm mĩ, cái làm nên vẻ đẹp độc đáo, riêng
biệt của từng tác phẩm. Nơi đó là địa chỉ thách thức khả năng tiếp nhận của
học sinh, là một trong những cơ hội để bạn đọc chiếm lĩnh tác phẩm và đó
cịn là ngọn nguồn cảm xúc của người đọc. Vì vậy, câu hỏi phải làm rõ các
vấn đề về đặc trưng thể loại, thi pháp của tác phẩm và vấn đề tư tưởng của tác
phẩm. Trước yêu cầu đó, công việc đầu tiên của giáo viên khi tổ chức học

sinh tiếp nhận giá trị tác phẩm là phải thâm nhập, khám phá với ý thức tìm
kiếm, xác định được mâu thuẫn đặc thù của tác phẩm văn học và của hoạt
động dạy học. Mâu thuẫn đặc thù của chúng thể hiện qua mâu thuẫn giữa nội
dung và hình thức tác phẩm; mâu thuẫn giữa tác phẩm và yêu cầu tiếp nhận
văn học với vốn tri thức hiện có của học sinh; mâu thuẫn giữa độc giả - người
có nhiệm vụ phân tích, đánh giá tác phẩm với nhau…
Như vậy, câu hỏi nêu vấn đề phải dựa trên những “ vấn đề” đó để tạo ra
tình huống có vấn đề. Có như vậy câu hỏi mới phát huy được tính chủ động
tích cực và phát triển tiềm năng sáng tạo trong hoạt động tiếp nhận tác phẩm
văn chương ở học sinh.
12



×