Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Đại Cương Kinh Lạc Và Huyệt Vị.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (650.93 KB, 17 trang )

THẠC SỸ CHÂM CỨU
BS. CHUNG KHÁNH BẰNG


1.KHÁI NIỆM:
Kinh lạc là tên gọi chung của kinh mạch và lạc mạch
trong cơ thể, kinh là đường thẳng, là cái khung của hệ kinh
lạc đi ở sâu; lạc là đường ngang, là cái lưới, từ kinh mạch
chia ra như mạng lưới đến khắp mọi nơi và đi ở nông.
Kinh lạc phân bố ra toàn thân là con đường vận hành của
âm dương, khí huyết, tân dịch, khiến cho con người từ ngũ
tạng lục phủ, can mạch, cơ nhục, xương vv… kết thành một
chính thể thống nhất.


3 kinh âm
Tay
3 kinh dương

3 kinh âm
Chân
3 kinh dương

Thủ thái âm phế
Thủ thiếu âm tâm
Thủ quyết âm tâm bào lạc
Thủ thái dương tiểu trường
Thủ thiếu dương tam tiêu
Thủ dương minh đại trường
Túc thái âm tỳ
Túc thiếu âm thận


Túc quyết âm can
Túc thái dương bàng quang
Túc thiếu dương đởm
Túc dương minh vị


Nhâm mạch

Âm duy mạch

Đốc mạch

Dương duy mạch

Xung mạch

Âm kiểu mạch

Đới mạch

Dương kiểu mạch

c) 12 kinh biệt đi ra từ 12 kinh chính
d) 12 kinh cân nối liền các đầu xương ở tứ chi không vào
phủ tạng
đ) 15 biệt lạc: từ biệt lạc phân nhánh nhỏ
f) Phù lạc: từ tôn lạc nổi ở ngoài da


3.1. Về sinh lý:

• Hệ thống kinh lạc thơng hành khí huyết trong các tổ chức
của cơ thể chống ngoại tà, bảo vệ cơ thể.
• Hệ kinh lạc liên kết của tổ chức cơ thể (tạng, phủ, tứ chi,
chín khiếu, cân, mạch, xương, da…) có chức năng khác
nhau thành một khối thống nhất.


3.2. Về bệnh lý:
Khi công năng hoạt động của hệ kinh lạc bị trở ngại,
gây kinh khí khơng thơng suốt thì dễ bị ngoại tà xâm nhập
và gây bệnh. Bệnh thường truyền từ ngoài vào trong, từ
ngoài da cơ nhục vào tạng tức là từ kinh mạch vào phủ
tạng.
Bệnh ở phủ tạng thường có những biểu hiện bệnh lý
ở đường kinh mạch đi qua: Vị nhiệt thì loét miệng, cơn đau
ngực do co thắt động mạch vành đau ở tâm kinh


3.3. Về chẩn đoán:
Kinh mạch nối liền với tạng phủ và có đường đi ở
những vị trí nhất định của cơ thể. Căn cứ vào những thay đổi
cảm giác (đau, tức, chướng) điện sinh vật trên đường đi của
kinh mạch người ta chẩn đốn bệnh thuộc tạng phủ nào đó
gọi là kinh lạc chẩn. Thí dụ: nhức đầu vùng đỉnh do can, đau
nửa bên đầu do đởm. Đau sau gáy thuộc bàng quang vv…
Ngồi ra, người ta cịn đo thơng số điện sinh vật của
các tỉnh huyệt (huyệt tận cùng đầu chi của các kinh) hay
nguyên huyệt (huyệt chính của một đường kinh) bằng máy
dò kinh lạc để đánh giá được tình trạng hư thực của khí
huyết (huyết tay trái, khí tay phải) hoặc tình trạng hư thực

của tạng phủ, so với số liệu trung bình hoặc so 2 bên cơ thể
với nhau vv…


4. Về chữa bệnh:
Học thuyết kinh lạc được ứng dụng nhiều nhất vào
phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu xoa bóp và
thuốc.
Châm cứu và xoa bóp đã thành một phương pháp
chữa bệnh độc đáo đạt nhiều thành tựu to lớn.
Học thuyết kinh lạc chỉ đạo việc qui tác dụng của
thuốc tương ứng với tạng, phủ hay đường kinh nào đó gọi
là sự qui kinh của thuốc: Thí dụ
Quế chi vào phế nên chữa ho cảm mạo.
Ma hoàng vào phế nên chữa ho hen, vào bàng
quang nên có tác dụng lợi niệu


12 ĐƯỜNG KINH CHÍNH
2 MẠCH: NHÂM – ĐỐC


1. KHÁI NIỆM VỀ HUYỆT
Theo sách Linh khu thiên Cửu châm thập nhị nguyên:
“Huyệt là nơi thần khí hoạt động vào - ra; nó được phân bố
khắp phần ngồi cơ thể”.
Có thể định nghĩa huyệt là nơi khí của tạng phủ, của
kinh lạc, của cân cơ xương khớp tụ lại, tỏa ra ở phần ngồi
cơ thể. Nói cách khác, huyệt là nơi tập trung cơ năng hoạt
động của mỗi một tạng phủ, kinh lạc…., nằm ở một vị trí cố

định nào đó trên cơ thể con người. Việc kích thích tại những
huyệt vị này (bằng châm - cứu hay day bấm huyệt) có thể
làm những vị trí khác hay bộ phận của một nội tạng nào đó
có sự phản ứng nhằm đạt được kết quả điều trị mong muốn


2. TÁC DỤNG CỦA HUYỆT VỊ CHÂM CỨU THEO ĐÔNG Y

2.1. Tác dụng sinh lý:
Huyệt có quan hệ chặt chẽ với kinh mạch và tạng
phủ mà nó phụ thuộc. Ví dụ huyệt thái uyên thuộc kinh Phế
có quan hệ mật thiết:
- Với kinh Phế.
- Với các tổ chức có đường kinh Phế đi qua.
- Với các chức năng sinh lý của tạng Phế.


2.2. Tác dụng bệnh lý:
Theo YHCT, huyệt cũng là cửa ngõ xâm lấn của các
nguyên nhân gây bệnh từ bên ngồi. Khi sức đề kháng của
cơ thể (chính khí) bị suy giảm thì các ngun nhân bên
ngồi (YHCT gọi là tà khí) dễ xâm lấn vào cơ thể qua các
cửa ngõ này để gây bệnh.
Mặt khác, bệnh của các tạng phủ kinh lạc cũng được
phản ánh ra ở huyệt: hoặc đau nhức tự nhiên, hoặc ấn vào
đau, hoặc màu sắc ở huyệt thay đổi (trắng nhợt, đỏ thẫm),
hoặc hình thái thay đổi (bong biểu bì, mụn nhỏ hoặc sờ
cứng bên dưới huyệt).



2.3. Tác dụng chẩn đoán:
Dựa vào những thay đổi ở huyệt đã nêu trên (đau
nhức, đổi màu sắc, co cứng...) ta có thêm tư liệu giúp chẩn
đốn nhất là chẩn đốn vị trí bệnh (ví dụ huyệt Tâm du đau
hoặc ấn đau làm ta nghĩ đến bệnh ở Tâm).
Những biểu hiện bất thường ở huyệt thường chỉ có
giá trị gợi ý cho chẩn đốn. Để có được chẩn đốn xác định
cần dựa vào tồn bộ phương pháp chẩn đốn của YHCT


2.4. Tác dụng phòng bệnh:
Huyệt còn là nơi tiếp nhận các kích thích khác nhau.
Tác động lên huyệt với một lượng kích thích thích hợp có
thể làm điều hịa được những rối loạn bệnh lý, tái lập lại
hoạt động sinh lý bình thường của cơ thể.
Tác dụng điều trị này của huyệt tùy thuộc vào mối
liên hệ giữa huyệt và kinh lạc tạng phủ, ví dụ: Phế du (bối
du huyệt của Phế) có tác dụng đối với chứng khó thở, ho…;
Túc tam lý (hợp huyệt của kinh Vị) có tác dụng đối với
chứng đau bụng


3. PHÂN LOẠI HUYỆT
Căn cứ vào học thuyết Kinh lạc, có thể chia huyệt
làm 3 loại chính:
3.1. Huyệt nằm trên đường kinh (huyệt của kinh - kinh
huyệt):

Tải bản FULL (34 trang): />Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net


Huyệt của kinh là những huyệt trên 12 kinh chính và
2 mạch Nhâm, Đốc.
Tất cả các huyệt vị châm cứu đều có những tác
dụng chung trong sinh lý và bệnh lý như đã nêu ở trên. Tuy
nhiên, có những huyệt có vai trị quan trọng hơn những
huyệt khác trong điều trị và chẩn đoán.


Tải bản FULL (34 trang): />Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net

* Huyệt nguyên:
- Thường được người thầy thuốc châm cứu xem là “huyệt
đại diện” của đường kinh. Mỗi kinh chính có 1 huyệt nguyên.
- Vị trí các huyệt nguyên thường nằm ở cổ tay, cổ chân
hoặc gần đó.
- Do tính đại diện của nguyên huyệt mà chúng thường được
dùng để chẩn đoán và điều trị những bệnh hư, thực của
tạng, phủ, kinh lạc tương ứng.


* Huyệt lạc:
Huyệt lạc là nơi khởi đầu của lạc ngang giúp nối liền
giữa kinh dương và kinh âm tương ứng, thể hiện được quy
luật âm dương, mối quan hệ trong ngồi, quan hệ biểu lý.
Mỗi kinh chính và 2 mạch Nhâm, Đốc có 1 huyệt lạc. Ngồi
ra do tính chất quan trọng của hệ thống Tỳ mà có thêm đại
lạc của Tỳ. Tổng cộng có 15 huyệt lạc.
Do đặc điểm giúp nối liền 2 kinh có quan hệ biểu lý
mà huyệt lạc thường được dùng để điều trị bệnh của kinh
có huyệt đó, đồng thời điều trị cả bệnh của kinh có quan hệ

biểu lý với nó.

4237983



×