Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Customer Satistaction And Customer Loyalty In Vietnamese Mobile Telecommunication Industry.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC – XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

NGHIÊM THỊ LAN OANH

ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐẢNG
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC – XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

NGHIÊM THỊ LAN OANH

ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐẢNG
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2013

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Đăng Tri


Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng
từ năm 2000 đến năm 2013” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Ngô Đăng Tri.
Các số liệu và tài liệu tơi sử dụng trong luận văn là hồn toàn
trung thực.
Hà Nội ngày 21/10/2013
Tác giả luận văn

Nghiêm Thị Lan Oanh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo hết sức nhiệt tình của các thầy cô giáo, bạn bè
trong khoa Lịch sử, đặc biệt là PGS.TS. Ngô Đăng Tri. Nhân đây, tôi xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô và các bạn. Đồng thời xin trân trọng
gửi lời cảm ơn đến Trung tâm lữu trữ UBND tỉnh Hà Nam, Trung tâm lữu trữ
Tỉnh ủy Hà Nam, văn phòng tư liệu khoa Lịch sử, Trung tâm Thư viện Quốc
gia – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện giúp tôi sưu tầm tài liệu trong
quá trình thực hiện đề tài. Mặc dù đã có sự đầu tư nghiên cứu và làm việc trên
cơ sở tư liệu có độ tin cậy cao, nhưng đây là một đề tài hết sức rộng lớn và
phức tạp nên không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tơi rất mong nhận
được sự đóng góp, chỉ bảo của quý thầy cô!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 21/10/2013
Tác giả luận văn


Nghiêm Thị Lan Oanh


QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

Ban Chấp hành

BTV

Ban Thường vụ

CNH – HĐH Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
CNXH

Chủ nghĩa xã hội

Đ/c

Đồng chí

GDP

Tổng thu nhập quốc dân

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc


Nxb

Nhà xuất bản

TCCS

Tổ chức cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TSVM

Trong sạch, vững mạnh

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

UBKT

Ủy ban kiểm tra

VKSND


Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
XÂY DỰNG ĐẢNG TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005................................. 7
1.1. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XVI (12/2000)
và chủ trƣơng xây dựng Đảng .................................................................... 7
1.1.1. Vài nét về công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Nam
trước năm 2000........................................................................................... 7
1.1.2. Chủ trương xây dựng Đảng của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Hà Nam lần thứ XVI (12/2000) ............................................................... 14
1.2. Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ
năm 2000 đến năm 2005 ............................................................................ 18
1.2.1. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về mặt chính trị và tư tưởng .... 18
1.2.2. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về mặt tổ chức ..................... 28
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM ĐẨY MẠNH NHIỆM VỤ
XÂY DỰNG ĐẢNG TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2013............................... 38
2.1. Đảng bộ tỉnh Hà Nam đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng từ
năm 2005 đến năm 2010 ............................................................................ 38
2.1.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Nam về công tác xây dựng Đảng ... 38
2.1.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ............................................................ 40
2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Nam tiếp tục đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng
đảng từ năm 2010 đến năm 2013 .............................................................. 62

2.2.1. Chủ trương đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ
tỉnh Hà Nam ............................................................................................. 62
2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ............................................................ 64


Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ........................... 79
3.1. Nhận xét ............................................................................................... 79
3.1.1. Về ưu điểm ..................................................................................... 79
3.1.2. Về hạn chế ...................................................................................... 87
3.2. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra ............................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 111


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn tám thập kỷ qua, Đảng Cộng Sản Việt Nam ln giữ vai trị là lực
lượng lãnh đạo duy nhất sự nghiệp cách mạng của dân tộc, do đó sự lãnh đạo,
q trình phát triển của Đảng đều có ý nghĩa quyết định đối với thành quả
cách mạng qua các thời kỳ lịch sử. Sự lãnh đạo của Đảng là toàn diện đối với
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đối với mọi tổ chức trong hệ thống chính
trị. Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã
khẳng định: “Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những
ưu khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng” [2, 137].
Nhận thức rõ được vai trị của cơng tác xây dựng Đảng đối với sự
nghiệp đổi mới, ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã hết sức quan tâm và thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ này. Bên
cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác xây dựng Đảng những năm vừa

qua cịn khơng ít hạn chế và tiêu cực: “Cơng tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về CNXH
và con đường đi lên CNXH ở nước ta.Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu
quả của cơng tác tư tưởng cịn hạn chế,... Tình trạng suy thối về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên và
tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp” [4, 173].
Những tiêu cực nảy sinh ngay trong nội bộ Đảng càng trở nên nguy kịch hơn
khi các thế lực thù địch ra sức chống phá cách mạng từ mọi phía bằng chiến
lược “diễn biến hịa bình” mà mục tiêu chính là: phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay. Do đó xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức là nhiệm vụ sống còn, then
chốt trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước hiện nay.
1


Hà Nam, mảnh đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng, có bề dày
lịch sử trên 120 năm, với diện tích 859,5 km2, dân số 846.653 người (theo
thống kê năm 2013). Hà Nam nằm ở phía Tây Nam châu thổ sông Hồng, vào
khoảng 20,41 độ vĩ bắc; 105,31 độ kinh đơng. Phía Bắc tiếp giáp với Hà Tây,
phía Nam giáp Nam Định, phía Đơng giáp Thái Bình và Hưng n, phía Tây
Nam giáp Ninh Bình, phía Tây giáp Hịa Bình. Từ lâu Hà Nam đã được mệnh
danh là cửa ngõ phía Nam của thủ đơ Hà Nội, thuộc vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ, nằm trên huyết mạch giao thông Bắc – Nam với hệ thống đường bộ,
đường sắt, đường thủy hết sức thuận lợi, cùng với cầu Yên Lệnh nối đôi bờ
sông Hồng, tạo cho Hà Nam lợi thế mới để mở rộng giao lưu hợp tác với các
tỉnh Đơng Bắc và ra cảng biển Hải Phịng. Trung tâm tỉnh lỵ là Thành phố
Phủ Lý - thành phố anh hùng, nơi hội tụ của ba con sông: sông Đáy, sông
Châu, sông Nhuệ. Hà Nam được coi là mảnh đất trung tâm - địa - kinh tế văn hoá của khu vực đồng bằng sông Hồng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân Hà Nam đã đoàn kết một
lòng, hăng say xây dựng đời sống mới, đẩy mạnh CNH – HĐH, phấn đấu đưa
Hà Nam trở thành một tỉnh giàu mạnh, góp phần xây dựng đất nước ngày
càng to đẹp hơn. Sau hơn mười năm tái lập (1997), Hà Nam đã đạt được
nhiều thành tựu trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Những
thành công trên là kết quả của nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó khơng
thể khơng kể đến những tác động tích cực từ việc Đảng bộ tỉnh ln chú trọng
thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt: chính trị, tư
tưởng, tổ chức và coi đây là nhiệm vụ then chốt trong mọi thời kỳ. Tuy nhiên,
trong giai đoạn hiện nay, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh vẫn còn
tồn tại một số vấn đề nổi cộm như: tệ quan liêu, tham nhũng, một số đảng
viên giảm sút ý chí, kém tổ chức kỷ luật; tổ chức cơ sở Đảng nhiều nơi yếu
kém, phương thức lãnh đạo còn chậm đổi mới,…
Những việc đã làm được và chưa làm được của nhân dân Hà Nam trong
việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội những năm đầu của thế kỷ XXI
2


cũng gắn liền với kết quả của việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng ở địa
phương. Nghiên cứu quá trình Đảng bộ Hà Nam thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng từ năm 2000 đến năm 2013 trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức
sẽ rút ra nhiều bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn cho Đảng bộ tỉnh
trong công tác xây dựng Đảng trong thời gian sắp tới. Đó chính là những lý
do chúng tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện nhiệm vụ xây
dựng Đảng từ năm 2000 đến năm 2013” làm đề tài luận văn chuyên ngành
Lịch sử Đảng của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn tƣ liệu
Xây dựng Đảng là một vấn đề rộng lớn, phức tạp và có ý nghĩa then
chốt trong cơng cuộc xây dựng CNXH của nước ta. Chính vì vậy, đã có
khơng ít những cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong phạm vi, giới hạn

nghiên cứu của đề tài, xin nêu ra một vài cơng trình tiêu biểu sau:
Về sách: Tác giả Lê Đức Thọ với tác phẩm: Những nhiệm vụ cấp bách
của cơng tác xây dựng Đảng; Hồng Tùng: Đổi mới tư duy lý luận về công
tác xây dựng Đảng; Lê Quang Thưởng: Một số vấn đề xây dựng Đảng về tổ
chức trong giai đoạn hiện nay; Nguyễn Văn Vinh – Nguyễn Đức Thịnh: Xây
dựng Đảng vững mạnh trong thời kỳ đổi mới đất nước,…
Các bài viết trên Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí Cộng sản như: bài
“Đảng cầm quyền và đạo đức, phong cách của cán bộ, đảng viên” của tác giả
Nguyễn Xuân Tảo; “Tự phê bình và phê bình ở các tổ chức cơ sở Đảng hiện
nay” của tác giả Trần Thông; GS. Trần Nhâm với tác phẩm “Phòng chống
tham nhũng – nhiệm vụ cấp bách của cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng”,…
Ngồi ra, chúng tơi cịn tham khảo một số luận văn thạc sỹ có cùng đề tài để
làm phong phú, sâu sắc cho bài viết. Tiêu biểu là luận văn “Đảng bộ Hà Tây
thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng thời kỳ 1991-2000” của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Huyền; “Công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ huyện Yên Khánh
(Ninh Bình) từ năm 1996 đến năm 2010” của học viên Nguyễn Thị Hoa, Ngô

3


Thị Lan Hương với luận văn “Đảng bộ huyện Sóc Sơn thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng từ năm 1996 đến năm 2010”…
Những cuốn sách lý luận chung về công tác xây dựng Đảng của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các Nghị quyết, báo cáo tổng
kết về công tác xây dựng Đảng của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam qua
các kỳ Đại hội là nguồn tư liệu cơ sở khi nghiên cứu đề tài này.
Các Nghị quyết, văn kiện Đại hội, các báo cáo cuối năm của Đảng bộ
tỉnh Hà Nam đặc biệt từ năm 2000 đến năm 2013 và 2 cuốn “Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Nam Hà” tập 1 (1930-1954), “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Nam” tập 2
(1975-2005) là nguồn tư liệu chủ yếu để chúng tôi nghiên cứu đề tài này.

Tất cả những cơng trình nói trên đều đề cập đến các vấn đề chính yếu,
cốt lõi của cơng tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, tiếp cận ở những góc độ, khía
cạnh khác nhau, nên mỗi tác giả có những ý kiến riêng của mình. Đây chính
là những tư liệu mang tính chất nền tảng, cơ sở để phục vụ đề tài nghiên cứu.
Tính đến thời điểm thực hiện luận văn, chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống và toàn diện về việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng
của Đảng bộ tỉnh Hà Nam từ năm 2000 đến năm 2013.
Chính vì vậy, chúng tơi thực hiện đề tài với mong muốn sẽ đưa ra một
cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về vấn đề Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện
nhiệm vụ xây dựng Đảng trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Xa hơn nữa,
chúng tôi hi vọng với việc thực hiện đề tài sẽ góp phần bổ sung thêm một góc
nhỏ cho bức tranh toàn cảnh của Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá
trình xây dựng và trưởng thành từ năm 2000 đến năm 2013.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài là tìm hiểu sự nhận thức, các chủ trương,
biện pháp, kết quả tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng của Đảng bộ
tỉnh Hà Nam từ năm 2000 đến năm 2013 từ đó làm rõ lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà
Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI đặc biệt là trong lĩnh vực xây
dựng Đảng.
4


Luận văn có 3 nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Thu thập và xử lý nguồn tư liệu về đề tài để phục vụ cho mục đích
nghiên cứu.
- Trình bày q trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện nhiệm vụ xây
dựng Đảng từ năm 2000 đến năm 2013
- Rút ra những nhận xét về thành tựu, hạn chế và một số kinh nghiệm
trong quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ
năm 2000 đến năm 2013.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu chủ yếu là quá trình nhận thức, các chủ
trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Hà Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng ở địa phương từ năm 2000 đến năm 2013, những thành tựu và
hạn chế của Đảng bộ tỉnh trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trên
cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nguyên nhân của những thành tựu
cũng như các hạn chế, đó là những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn
đối với công tác xây dựng Đảng ở Hà Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Những chủ trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Hà Nam trong việc
thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của công tác xây dựng Đảng ở địa phương từ
năm 2000 đến năm 2013 là phạm vi nghiên cứu của đề tài.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Những chủ trương, đường lối
của Đảng về công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay là
cơ sở chính, cung cấp quan điểm chỉ đạo cho chúng tôi nghiên cứu đề tài này.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu
5


khoa học lịch sử nói chung, của chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam nói riêng. Cụ thể: phương pháp lịch sử, phương pháp logic và các nhóm
phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung những tư liệu cụ thể để làm rõ hơn lịch sử
phát triển của Đảng bộ tỉnh Hà Nam từ năm 2000 đến năm 2013

Những bài học kinh nghiệm mà luận văn rút ra từ việc Đảng bộ tỉnh Hà
Nam thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2000 đến năm 2013 sẽ có ý
nghĩa thực tiễn đối với việc nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác xây dựng
Đảng ở Hà Nam trong thời gian tới, và cũng có thể là những bài học kinh
nghiệm có tính chất tham khảo cho các địa phương khác khi thực hiện nhiệm
vụ này.
Luận văn cịn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy các mơn học có liên quan.
7. Bố cục
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ
năm 2000 đến năm 2005
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Hà Nam đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng
từ năm 2005 đến năm 2013
Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm

6


Chƣơng 1:
ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
XÂY DỰNG ĐẢNG TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XVI (12/2000)
và chủ trƣơng xây dựng Đảng
1.1.1. Vài nét về công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh Hà Nam
trước năm 2000
Tỉnh Hà Nam được tái lập
Ngày 20/10/1890, tỉnh Hà Nam chính thức được thành lập. Đất đai tỉnh
Hà Nam gồm đất phủ Liêm Bình, 17 xã của huyện Vụ Bản, Thượng Nguyên

(thuộc tỉnh Nam Định), 2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên Nghiệp thuộc huyện Phú
Xuyên, tỉnh Hà Nội (cho nhập vào huyện Duy Tiên) và 2 huyện cũ là Duy
Tiên, Kim Bảng của phủ Lý Nhân.
Trải qua hơn một trăm năm (kể từ ngày thành lập), địa danh và địa giới
hành chính của tỉnh đã có nhiều thay đổi qua các thời kỳ. Trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp, tỉnh thuộc liên khu III. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc
chỉ đạo kháng chiến của hai tỉnh Nam Định và Hà Nam, tháng 5/1953, Trung
ương quyết định cắt các huyện phía Bắc tỉnh Nam Định gồm Ý Yên, Vụ Bản,
Mỹ Lộc và 7 xã phía Bắc Nghĩa Hưng nhập vào tỉnh Hà Nam; chuyển châu
Lạc Thuỷ về tỉnh Hoà Bình. Tháng 4/1956, sau giảm tơ và cải cách ruộng đất,
3 huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và 7 xã của Nghĩa Hưng sát nhập trở lại tỉnh
Nam Định. Năm 1956, tỉnh Hà Nam và Nam Định sát nhập thành tỉnh Nam
Hà. Đầu năm 1976, Nam Hà sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam
Ninh. Năm 1992, tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình lại chia tách như cũ. Ngày
06/11/1996, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã ra Nghị quyết chia tỉnh
Nam Hà thành hai tỉnh Hà Nam và Nam Định. Ngày 01/01/1997, tỉnh Hà
Nam được tái lập, gồm các huyện Thanh Liêm, Bình Lục, Lý Nhân, Duy
Tiên, Kim Bảng và thị xã Phủ Lý.

7


Ngay sau khi tái lập, phát huy truyền thống lịch sử của cha ông, trong
những năm qua Đảng bộ, quân và dân Hà Nam ln đồn kết một lịng, nỗ lực
khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản
xuất, phát triển kinh tế xã hội. Đảng bộ và nhân dân Hà Nam luôn thực hiện
thắng lợi mọi nhiệm vụ, đóng góp vào thành công của hai cuộc kháng chiến
và trong thời kỳ đổi mới thực hiện cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước. Với những đóng góp đó, Đảng bộ qn và dân Hà Nam cùng 6/6
huyện, thành phố vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh

hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác.
Sau 32 năm hợp nhất với tỉnh Nam Định và Ninh Bình, tỉnh Hà Nam
được tái lập là sự kiện chính trị quan trọng đối với Đảng bộ, quân và dân
trong tỉnh, mở ra thời kỳ phát triển mới của tỉnh Hà Nam.
Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trước
năm 2000
Bước vào xây dựng tỉnh mới tái lập, Hà Nam có một số thuận lợi cơ
bản. Về vị trí địa lý, Hà Nam nằm ở phía Nam thủ đơ Hà Nội, có trục đường
giao thông Bắc – Nam chạy qua, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, mở
rộng giao lưu, hợp tác với các vùng, các trung tâm kinh tế lớn của đất nước.
Sau mười năm đổi mới, đời sống vật chất tinh thần của các tầng lớp nhân dân
trong tỉnh đã được nâng lên, tình hình an ninh chính trị được giữ vững là
những thuận lợi để Hà Nam cùng với cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH – HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Bên cạnh những thuận lợi, tỉnh cịn nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất
là khi tách tỉnh, lực lượng cán bộ từ tỉnh Nam Hà chuyển về vừa thiếu về số
lượng, vừa mất cân đối về cơ cấu. So với tổng số cán bộ từng khu vực ở tỉnh
Nam Hà cũ, số cán bộ chuyển về Hà Nam chiếm tỷ lệ rất thấp: cán bộ chuyên
môn nghiệp vụ và khoa học kĩ thuật ở khu vực quản lý nhà nước ở các sở,
ngành có 180 người, chiếm 17,81%; khu vực sự nghiệp có 330 người, chiếm
8


23,12%; khu vực hành chính sự nghiệp có 510 người. Nhiều cơ quan, ban
ngành, đồn thể khơng đủ người làm việc, khơng có cán bộ chủ chốt, đội ngũ
cán bộ khơng có tính kế thừa. Các cơ quan của tỉnh chưa có cơng sở, phải đi
th mượn địa điểm làm việc. Đời sống, sinh hoạt của đội ngũ cán bộ, cơng
nhân, viên chức mới chuyển về gặp nhiều khó khăn, chưa có nhà ở.
Nhận thức rõ những thuận lợi, khó khăn của tỉnh mới tái lập, kế thừa và

phát huy thành quả 32 năm hợp nhất với Nam Định và Ninh Bình, trong cơng
tác lãnh đạo, chỉ đạo BCH lâm thời Đảng bộ tỉnh chú trọng khơi dậy truyền
thống cách mạng, niềm tự hào quê hương, ý thức trách nhiệm trước yêu cầu
phát triển, tập trung khai thác tiềm năng, thế mạnh, khắc phục khó khăn, phấn
đấu xây dựng tỉnh phát triển, đáp ứng niềm mong mỏi của nhân dân.
Đảng bộ đã tập trung khắc phục một số khó khăn chủ yếu của tỉnh mới
chia tách, nhanh chóng ổn định tổ chức bộ máy cán bộ Đảng, chính quyền,
đồn thể trong tỉnh sớm đi vào hoạt động bình thường. Ngày 12/01/1997, Ban
Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh đã ra Nghị quyết số 01-NQ/TU về Những
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Nghị quyết đã chỉ ra những thuận lợi và khó
khăn khi chia tách tỉnh và nhấn mạnh: “Trong giai đoạn lịch sử này, BCH lâm
thời Đảng bộ tỉnh không được chủ quan, nóng vội đồng thời cũng khơng bi
quan, ngại khó, phải đồn kết một lịng, đồng tâm hiệp sức, sáng tạo trong tư
duy, mạnh dạn trong tổ chức thực hiện để làm tốt những nhiệm vụ mà Đảng
bộ và nhân dân giao phó” [60, 297]. Nghị quyết đề ra 11 nhiệm vụ trọng tâm
bao gồm các lĩnh vực: phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng
và chuẩn bị điều kiện cho Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh. Trong đó có 2
nhiệm vụ được đưa lên hàng đầu: “Thứ nhất: Đẩy mạnh các hoạt động sản
xuất nông nghiệp như tu bổ đê kè, làm thủy lợi nội đồng, …phấn đấu giành
vụ chiêm xuân thắng lợi với năng suất và tổng sản lượng cao nhất. Thứ hai:
Phải giải quyết cơ bản nhu cầu về trụ sở làm việc của các cơ quan tỉnh và nơi
ăn ở cho cán bộ công chức mới chuyển về, nhằm ổn định đời sống, tạo điều
kiện cho cán bộ, công chức yên tâm công tác” [60, 297].
9


Sau một thời gian chuẩn bị, thực hiện sự chỉ đạo của TW Đảng, từ ngày
02 đến ngày 05/7/1998, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XV đã
được tiến hành tại nhà Văn hóa trung tâm tỉnh. Dự đại hội có 258 đại biểu
chính thức đại diện cho 33.988 đảng viên toàn Đảng bộ. Đại hội đã đề ra các

chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, chủ trương xây dựng Đảng của tỉnh.
Đại hội nhấn mạnh: “Công tác xây dựng Đảng phải được thực sự coi trọng là
nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển của tỉnh trong
những năm tới” [61, 77]. Trọng tâm của công tác xây dựng Đảng trong thời
kỳ này đó là: “Tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết TW 6 lần 2 (khoá
VIII) Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng
hiện nay. Đây là Nghị quyết quan trọng gắn liền với cuộc vận động xây dựng
và chỉnh đốn Đảng, nhằm xây dựng Đảng mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Thực hiện Nghị quyết phải đảm bảo phương châm đồn kết, tự phê bình
và phê bình có hiệu quả, thấu tình đạt lý, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ, tạo niềm tin trong nhân dân với Đảng. Trong đó đặc
biệt chú trọng đến việc sửa chữa khuyết điểm, tăng cường đoàn kết, thống
nhất, tạo ra những chuyển biến tích cực, cụ thể, thiết thực trong tổ chức thực
hiện nhiệm vụ chính trị” [60, 358]; “Vấn đề giữ nguyên tắc, kỷ cương của
Đảng và đoàn kết nội bộ phải được đặc biệt coi trọng” [61, 77].
Trên cơ sở quán triệt nội dung văn kiện, các chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1996-2000) đề ra và dựa
trên việc phân tích thực trạng kinh tế - xã hội của tỉnh, Đại hội Đảng bộ tỉnh
Hà Nam lần thứ XV (7/1998) và các Hội nghị tiếp theo đã cho ra đời những
Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư… về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh từ năm
1998-2000. Thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa VII) về Đổi mới quản lý trong
các hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã, các ngành, các cấp của tỉnh đã nghiên
cứu đánh giá thực trạng 156 hợp tác xã nơng nghiệp trong tồn tỉnh. Trên cơ
sở đó, BCH Đảng bộ tỉnh ra Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 14/11/1998 về
Chuyển đổi và đổi mới tổ chức quản lý các hợp tác xã nông nghiệp theo Luật
10


Hợp tác xã. Thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/02/1988 của Bộ Chính
trị (khóa VIII), về việc Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ngày

16/10/1998, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị 03-CT/TU và tổ chức hội
nghị cán bộ chủ chốt trong tỉnh để quán triệt các văn bản của TW và của Tỉnh
ủy về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết, chủ trương của Đại hội đảng bộ tỉnh,
công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ này đã có sự chuyển biến rõ rệt trên tất
cả các mặt.
Trong phát triển kinh tế, nhận thức đầy đủ vị trí, vai trị sản xuất
nông nghiệp của tỉnh thuần nông, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo
sản xuất nông nghiệp, nhằm tạo ra sự ổn định trong đời sống nhân dân. Giá
trị tổng sản lượng nông nghiệp đạt 1.067,6 tỷ đồng, tăng 10,7% so với năm
1996 [61, 27].
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, thương mại,
dịch vụ, điện lực, bưu điện bước đầu đạt được một số kết quả, tạo tiền đề phát
triển trong những năm tiếp theo. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1997 đạt
315,8 tỷ đồng, tăng 9,2 % so với năm 1996 [61, 29].
Hoạt động văn hóa – xã hội có bước chuyển biến tích cực, đời sống của
nhân dân từng bước được cải thiện; quốc phòng, an ninh được giữ vững, các
ngành trong khối nội chính có nhiều hoạt động tích cực.
Trong cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, các cấp ủy Đảng luôn coi
trọng việc quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, phát huy truyền thống
cách mạng của đảng bộ, của quê hương, để nâng cao nhận thức trách nhiệm,
rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Đặc biệt làm tốt đợt
tuyên truyền bầu cử Quốc hội khóa X và bầu bổ sung đại biểu HĐND tỉnh
nhiệm kỳ 1994-1999. Đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, nhằm cung cấp
những thơng tin có định hướng cho cán bộ và nhân dân. Bản tin Thông báo
nội bộ được phát hành ngay trong tháng đầu khi tỉnh mới đi vào hoạt động,
duy trì và từng bước nâng cao chất lượng phục vụ cho sinh hoạt chi bộ hàng
11



tháng. Số lượng phát hành hàng tháng tăng từ 2.200 cuốn năm 1997, lên
2.650 cuốn năm 2000 [60, 361]. Hoàn thành biên soạn cuốn Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Hà Nam giai đoạn 1927-1975. Tính đến hết tháng 8/1999, các huyện, thị
ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh đã hoàn thành việc tổ chức học tập, nghiên cứu
Nghị quyết đến cán bộ chủ chốt và toàn thể đảng viên cơ sở. Kết quả nổi bật
của cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng đã góp phần củng cố tổ chức
cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Trong 3 năm (1998-2000), đã bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ cho gần 39.000 lượt cán bộ, đảng viên, tuyên truyền viên, duy trì
theo quy chế của cấp ủy. Do làm tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng nên
đại đa số cán bộ, đảng viên trong đảng bộ có lập trường chính trị vững vàng,
kiên định mục tiêu, lý tưởng XHCN, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
khơng có biểu hiện hồi nghi, mơ hồ về chính trị, khơng có tư tưởng đa
ngun, đa đảng.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của cơng tác tổ chức, cán bộ, Tỉnh
ủy rất coi trọng củng cố, kiện toàn bộ máy cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính
trị. Ngay khi tỉnh được tái lập, Ban Thường vụ Tỉnh ủy lâm thời đã ra Chỉ thị
số 01 –CT/TU, ngày 06/01/1997 về việc ổn định tổ chức cán bộ đảm bảo hoạt
động của các cơ quan Đảng, đoàn thể trong thời gian trước mắt nhằm khắc
phục tình trạng tổ chức cán bộ khi chia tách vừa yếu vừa thiếu. Chỉ thị số 01
được triển khai hết sức khẩn trương, đến tháng 9/1997, tồn tỉnh đã nhanh
chóng bố trí sắp xếp ổn định 56 đầu mối các cơ quan trực thuộc. Đề bạt bổ
nhiệm 91 đ/c lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể; điều động 39 đ/c huyện
ủy viên các huyện tăng cường cho tỉnh.Tỉnh ủy đã thực hiện nghiêm túc việc
tinh giản bộ máy các cơ quan Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7
(khóa VIII).
Các cấp ủy đã quan tâm hơn đến công tác quy hoạch cán bộ, gắn với
cơng tác rà sốt chính trị nội bộ. Làm tốt công tác nhân sự bầu HĐND các cấp
tháng 11/1999 và công tác nhân sự Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội
12



Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị
quyết Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII). Đến năm 2000, tình hình cán bộ và bộ
máy đã được kiện toàn. Hầu hết tổ chức Đảng cấp trên cơ sở và 90% số tổ
chức đảng cơ sở đã xây dựng, bổ sung quy chế làm việc, đảm bảo đúng
nguyên tắc và Điều lệ Đảng.
Công tác kết nạp Đảng viên mới được quan tâm, từ năm 1997 đến
năm 2000, toàn Đảng bộ mở gần 100 lớp cho 6.500 quần chúng ưu tú học
tập, tìm hiểu về Đảng. Đã kết nạp được trên 3000 đảng viên; trong đó 47%
là đồn viên, 51,6% có trình độ trung cấp và đại học. Năm 2000, thực hiện
Chỉ thị số 51 CT/TW của Bộ Chính trị Về phát triển đảng viên nhân dịp kỷ
niệm 70 năm ngày thành lập Đảng, đã kết nạp được 994 đảng viên, cao nhất
so với những năm trước đó, nâng số đảng viên trong tồn đảng bộ lên 35.858
đồng chí [60, 363].
Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được nâng lên. Số tổ chức
cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh ngày càng tăng, từ 77% năm 1998 lên
82,28% năm 2000, vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra. Chỉ còn 5 tổ chức cơ sở đảng
yếu kém, chiếm 1,26%. Bình quân trong 3 năm (1998-2000), số đảng viên đủ
tư cách đạt 78,7%, số đủ tư cách nhưng còn hạn chế từng mặt là 19,9%, số
đảng viên vi phạm và không đủ tư cách còn 1,4% [60, 363].
Hoạt động của Ủy ban kiểm tra các cấp có nhiều tiến bộ, đạt hiệu quả
tốt. Ủy ban kiểm tra các cấp đã phối hợp kiểm tra 164 tổ chức Đảng và 1.761
đảng viên về việc chấp hành nguyên tắc tổ chức sinh hoạt và thực hiện nghị
quyết, chỉ thị của Đảng. Đã xử lý kỷ luật 11 tổ chức đảng và 857 đảng viên,
có 37% là cấp ủy viên các cấp, khai trừ khỏi đảng 119 trường hợp [60, 364].
Trong năm 1997, Ủy ban kiểm tra đã tiến hành kiểm tra 859 đảng viên,
83 tổ chức cơ sở đảng có dấu hiệu vi phạm, phát hiện 248 đảng viên, chiếm
28,8% và 28 tổ chức cơ sở đảng, chiếm 33,7% vi phạm kỷ luật đảng. Đã xử lý
kỷ luật 206 đảng viên, trong đó bị kỷ luật, khiển trách 57, cảnh cáo 91, cách

chức 28, khai trừ 30, đưa ra khỏi đảng bằng các hình thức cho rút, xóa tên 99.
13


Xử lý khiển trách 02 Ban Thường vụ Đảng ủy xã, 01 Ban Thường vụ Đảng ủy
phường, 01 chi ủy chi bộ cơ sở [61, 41].
Sau khi tái lập tỉnh (1997), Đảng bộ tỉnh Hà Nam đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ xây dựng đảng trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế: vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng ở một số
nơi, nhất là cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; năng lực lãnh đạo kinh tế
cịn hạn chế; tình trạng phát tán đơn, thư mạo danh, nặc danh với động cơ xấu
có lúc diễn ra nghiêm trọng nhưng chưa được ngăn chặn kịp thời; đặc biệt
nghiêm trọng là có cán bộ, đảng viên ở cương vị lãnh đạo cố ý làm trái
nguyên tắc, để cho chủ nghĩa cá nhân chi phối, gây chia rẽ bè phái, tham
nhũng, quan liêu, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
1.1.2. Chủ trương xây dựng Đảng của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Hà Nam lần thứ XVI (12/2000)
Bước sang thế kỷ XXI – thế kỷ của sự hội nhập quốc tế và xu thế tồn
cầu hóa; khoa học cơng nghệ thơng tin phát triển mạnh tạo ra khơng ít thời cơ
và cả những thách thức to lớn. Nhưng với niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo
của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Hà Nam quyết tâm tranh thủ thời cơ và vận
hội, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, vững bước trên con đường xây dựng
CNXH của cả nước. Nắm vững tinh thần Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng với mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện để
xây dựng nước ta thành một nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, đến năm 2020 cơ bản là một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, Đảng bộ đã chủ trương phát huy nội lực, tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh CNH – HĐH, xây dựng tỉnh Hà Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Nhiệm vụ quan trọng mà Đảng bộ nhấn mạnh trong các kỳ họp Đại hội “củng
cố và đổi mới công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then

chốt trong mọi thời kỳ”.
Đại hội đại biểu tỉnh Hà Nam lần thứ XVI được tiến hành vào tháng 12
năm 2000 - thời điểm đất nước ta giành được những thành tựu hết sức to lớn
14


trong công cuộc đổi mới. Cuộc vận động, xây dựng chỉnh đốn Đảng đã thu
được những kết quả bước đầu quan trọng. Đảng bộ và nhân dân Hà Nam đã đi
qua chặng đường 4 năm kể từ khi tái lập tỉnh. Đại hội được diễn ra trong
khơng khí phấn khởi khi nhân dân tỉnh vừa tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 110
năm ngày thành lập tỉnh và 70 năm tiếng trống Bồ Đề. Những sự kiện trọng
đại và đầy ý nghĩa đó chính là động lực tinh thần quan trọng giúp Đảng bộ và
nhân dân trong tỉnh thêm quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ đặt ra.
Đại hội đã đề ra các chủ trương phát triển kinh tế xã hội, chủ trương xây
dựng Đảng. Nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, Đảng viên được
Đảng bộ đặt lên hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng ở địa phương thời kỳ
này: “Thường xuyên làm tốt công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ
đảng viên về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi
mới của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Nâng cao chất lượng giảng dạy của trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi
dưỡng chính trị các huyện, thị, thực hiện nghiêm túc Quy định 54 của Bộ
Chính trị (khóa VIII) về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng. Kịp thời
nắm bắt dư luận xã hội và làm tốt công tác thông tin có định hướng, đảm bảo
quyền được thơng báo tin cho cán bộ đảng viên và nhân dân” [62, 73].
Trong nhiệm vụ xây dựng Đảng về mặt tổ chức, Đảng bộ chủ trương:
“Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII), khắc
phục sự chồng chéo, bao biện trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành” [62, 74].
Đảng bộ đặc biệt nhấn mạnh vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức
cơ sở đảng nhất là những cơ sở yếu kém, để từ đó cần khảo sát tình hình, thực

trạng cơ sở đảng, làm rõ nguyên nhân yếu kém để có chủ trương, biện pháp
giải quyết có hiệu quả. Đảng bộ chủ trương: “Nâng cao chất lượng lãnh đạo
toàn diện của cấp ủy và tổ chức đảng. Đổi mới phong cách lãnh đạo, nghiêm
túc thực hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ, tăng cường trách nhiệm lãnh đạo
tập thể, cá nhân phụ trách. Gắn chế độ trách nhiệm cá nhân, tập thể với công
15


tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật…Tiếp tục thực hiện Cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo hạt nhân của tổ chức đảng
và vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên. Củng cố, tăng cường đồn kết
thống nhất trong đảng, kiên quyết khơng để tái diễn khuyết điểm mất đoàn
kết. Nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh” [62, 75].
Cùng với chủ trương nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng, Đảng bộ Hà Nam coi việc nâng cao chất lượng, làm trong sạch đội ngũ
cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng từ năm
2000 đến năm 2005: “Nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ,
đảng viên trong việc thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị, chủ trương, chính sách
của Đảng; pháp luật của Nhà nước; đấu tranh với những tư tưởng, quan điểm
sai trái; chống chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, tư tưởng thực
dụng, cục bộ, bè phái, gây mất đoàn kết, vi phạm phẩm chất, đạo đức của cán
bộ đảng viên. Thực hiện nói và làm theo Nghị quyết của Đảng, nêu cao tinh
thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân”. Mỗi cán bộ, Đảng viên phải ra
sức thực hiện tốt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một đảng
cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân” ;“Duy trì nề nếp sinh hoạt, quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng
viên gắn với việc kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực
hiện tốt việc phân công đảng viên phụ trách các hộ quần chúng, giữ mối quan

hệ với chi bộ, chi ủy cơ sở và nhân dân nơi cư trú” [62, 75].
Đối với công tác bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ, Đảng bộ chủ
trương: “Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cơ sở
xã, phường, thị trấn”; “Thực hiện việc luân chuyển cán bộ theo yêu cầu nâng
cao năng lực lãnh đạo tồn diện”. Về cơng tác phát triển đảng viên mới, Đảng
bộ nhấn mạnh: “làm tốt công tác tạo nguồn, bồi dưỡng kết nạp đảng viên”;
“Cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức, sinh
16


hoạt Đảng, thực hiện nghiêm túc Quy định 55 của Bộ chính trị (khóa VIII) về
những điều đảng viên khơng được làm” [62, 74].
Về nguyên tắc lãnh đạo cán bộ phải thực hiện tốt nguyên tắc: “Đảng
lãnh đạo công tác cán bộ, thực hiện việc phân công, quản lý cán bộ theo
đúng quy định của Bộ Chính trị. Cơng tác tuyển dụng, đề bạt, khen thưởng,
đánh giá, nhận xét cán bộ thực hiện nghiêm túc theo quy chế, quy định, quy
trình thống nhất, chặt chẽ”. Về việc bố trí, sử dụng cán bộ: “đúng người,
đúng việc, đáp ứng nhiệm vụ được giao. Làm tốt cơng tác bảo vệ chính trị
nội bộ” [62, 74].
Để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng trong những năm đầu tiên
của thế kỷ XXI, Đảng bộ Hà Nam đặc biệt nhấn mạnh công tác kiểm tra:
“Các cấp ủy, tổ chức đảng phải chủ động kiểm tra và phân công các ban tham
mưu tổ chức tốt việc kiểm tra theo Điều lệ đảng, kiểm tra việc thực hiện các
Nghị quyết, Chỉ thị, chủ trương của Đảng, của cấp ủy cấp trên và cấp mình.
Đề cao trách nhiệm kiểm tra, thanh tra của cấp trên đối với cấp dưới và người
đứng đầu, đảm bảo tính chủ động, kịp thời, chính xác. Chú trọng sơ kết, tổng
kết các chuyên đề để nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả công tác kiểm
tra, thanh tra. Kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng với giám sát,
thanh tra của Nhà nước, của nhân dân, của các cơ quan thông tin đại chúng và
dư luận xã hội. Kịp thời động viên các đơn vị giải quyết tốt những vấn đề bức

xúc, quần chúng đang quan tâm,…” [62, 76]. Để thực hiện cơng tác kiểm tra
một cách có hiệu quả, Đảng bộ chủ trương: “Mở rộng dân chủ, thực hiện
nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình, thường xun và định kỳ lấy ý
kiến đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên”.
Đó là những chủ trương lớn và chủ yếu nhất của Đảng bộ Hà Nam
trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ năm 2000 đến năm 2005.
Đây được coi là kim chỉ nam cho mọi hành động của các cấp ủy, các ban
ngành và toàn thể nhân dân Hà Nam.

17


1.2. Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng từ
năm 2000 đến năm 2005
1.2.1. Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về mặt chính trị và tư tưởng
Về mặt chính trị
Với chức năng của một Đảng bộ địa phương thì nhiệm vụ xây dựng
Đảng về mặt chính trị chủ yếu của Đảng bộ Hà Nam là nghiên cứu các chủ
trương, đường lối kinh tế, chính trị, xã hội của Trung ương và cụ thể hóa
thành những chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội sao cho phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Từ đó lãnh đạo hệ thống chính trị, nhân
dân trong tỉnh thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đề ra.
Trên cơ sở quán triệt nội dung Văn kiện mà Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII đề ra và dựa trên việc phân tích thực trạng kinh tế xã hội toàn tỉnh
(1997-2000), Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XVI (12/2000) và các Hội
nghị tiếp theo đã cho ra đời những Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh những năm 2000-2005. Về kinh tế, nhiệm vụ xuyên suốt thời kỳ này
là: “Ra sức phát huy nội lực, đi đôi với tranh thủ thu hút, khai thác tốt các
nguồn lực bên ngoài để đầu tư phát triển, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nông thôn”. [62, 55].

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã đề ra các chỉ tiêu từ
năm 2000 đến năm 2005 cơ bản như sau: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP)
tăng bình quân 9%/năm; thu nhập bình quân đầu người năm 2005 đạt 4,5-5
triệu đồng. Cơ cấu kinh tế đến năm 2005 là một cơ cấu kinh tế hợp lý trong
đó: nơng nghiệp chiếm 32%, cơng nghiệp – xây dựng chiếm 34%, dịch vụ
chiếm 34%; giá trị sản xuất nông nghiệp (bao gồm cả nông lâm nghiệp, thủy
sản) tăng bình quân 3,5 %/năm; tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên đến năm 2005
đạt 1,1%-1,2%; tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2005 còn dưới 7%,… [62, 57].
Về nông nghiệp, quán triệt Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 10/11/1998
về Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nơng thơn của Bộ Chính trị (khóa
VIII); Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về Đẩy mạnh CNH – HĐH nông
18


×