VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THÙY DƯƠNG
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
DƯỚI 18 TUỔI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THÙY DƯƠNG
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
DƯỚI 18 TUỔI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 838.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI
HÀ NỘI, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Học viên thực hiện
Nguyễn Thùy Dương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI
BỊ BUỘC TỘI DƯỚI 18 TUỔI .......................................................................................... 8
1.1. Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi ..................................... 8
1.2. Đặc điểm và vai trò của quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi .............. 13
1.3. Nội dung và các hình thức thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18
tuổi ....................................................................................................................................... 17
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI DƯỚI 18 TUỔI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI .............................................................................................. 233
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền bào chữa của người bị
buộc tội dưới 18 tuổi .......................................................................................................... 233
2.2. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi ................................................................................................................. 377
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ
BUỘC TỘI DƯỚI 18 TUỔI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................ 58
3.1. Yêu cầu và quan điểm về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
trong Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay ........................................................................... 58
3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi ................ 61
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CTN
: Chưa thành niên
NBC
: Người bào chữa
QBC
: Quyền bào chữa
THTT
: Tiến hành tố tụng
TTHS
: Tố tụng hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Số hiệu
Bảng 2.1.
Tên bảng
Trang
Số người dưới 18 tuổi phạm tội bị Viện kiểm sát truy
38
tố từ năm 2013 đến năm 2017
Bảng 2.2.
Thống kê số lượng và tỷ lệ vụ án đưa ra xét xử sơ
38
thẩm có bị cáo là người dưới 18 tuổi từ năm 2013
đến năm 2017
Bảng 2.3.
Thống kê số lượng và tỷ lệ bị cáo là người dưới 18
39
tuổi bị xét xử sơ thẩm từ năm 2013 đến năm 2017
Bảng 2.4.
Thống kê số người dưới 18 tuổi được trợ giúp pháp
lý từ năm 2013 đến năm 2017
42
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là vấn đề luôn được các quốc gia trên thế giới quan
tâm. Để đảm bảo quyền con người trong xã hội nói chung, các bản Hiến pháp
của nước ta đều đã có nhiều điều khoản nhấn mạnh quyền con người, quyền
cơng dân trong đó khơng thể khơng kể đến quyền bào chữa (QBC) và những
bảo đảm cần thiết để quyền đó được thực hiện.
QBC là một trong những quyền cơ bản của công dân. Đây là một nguyên
tắc Hiến định được ghi nhận tại Hiến Pháp năm 2013, đồng thời cũng là
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam. Việc ghi
nhận và thực hiện nguyên tắc này góp phần quan trọng vào việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, giúp cơ quan tiến hành tố tụng
(THTT) giải quyết vụ án khách quan, tồn diện và chính xác, khơng để lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội.
Đất nước ta đang trên đường đổi mới toàn diện với mọi lĩnh vực của đời
sống, trong đó có cơng cuộc cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực
cao, cải cách tư pháp sẽ khắc phục những bất cập, hạn chế của công tác tư
pháp nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, khi
đối tượng bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, đây là lứa tuổi đang phát triển về
tâm sinh lý và nhân cách, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ
cịn nhiều hạn chế vì vậy việc quy định QBC cho họ càng có ý nghĩa to lớn.
Xuất phát từ tư tưởng người dưới 18 tuổi bị buộc tội là đối tượng được
áp dụng đường lối đấu tranh, xử lý và cải tạo đặc thù, luật TTHS bảo vệ các
1
em theo cách riêng của mình. Đó là trao cho các em những quyền tố tụng để
các em tự bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời quy định những điều khoản
đảm bảo cho việc điều tra, truy tố xét xử vụ án hình sự được khách quan, tồn
diện, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội.
Tuy nhiên trong thực tiễn vận dụng vẫn cịn nhiều bất cập, tình trạng
oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn nhiều, chất lượng của hoạt động
tố tụng chưa cao dẫn đến việc giải quyết vụ án chưa đạt hiệu quả, xâm hại
quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, chưa đáp ứng được đòi hỏi
của tiến trình đổi mới tư pháp ở Việt Nam.
Bên cạnh đó những quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS)
hiện hành đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã tương đối hồn thiện nhưng
vẫn cịn nhiều vấn đề gây tranh luận, có những quy định chưa chặt chẽ, chưa
đầy đủ, chưa đáp ứng với yêu cầu thực tế nên tạo nhiều kẻ hở cho những vi
phạm, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
Đứng trước những vần đề đó quy định của pháp luật TTHS đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội đặt ra những vấn đề cần phải hồn thiện, vì vậy cần có
những điều chỉnh sửa đổi cho phù hợp, thống nhất hơn nữa trong BLTTHS.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, BLTTHS năm 2015 ra đời với những sửa
đổi, bổ sung hợp lý, quy định một cách cụ thể, thống nhất hơn về thủ tục tố
tụng đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, những năm vừa qua việc áp dụng thủ tục
đặc biệt khi tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với
những vụ án mà người bị buộc tội là đối tượng người dưới 18 tuổi tuy đạt
được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập.
Điều này là do một phần chưa nắm vững và vận dụng chính xác, triệt để quy
định của pháp luật tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án mà người dưới
18 tuổi phạm tội, một phần người THTT lạm quyền, không tôn trọng, coi nhẹ
các quyền lợi của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
2
Từ những lý do trên cho thấy việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề bảo
đảm quyền con người nói chung và QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
trong TTHS nói riêng là vấn đề có ý nghĩa lớn và mang tính cấp thiết. Do đó
tác giả chọn đề tài “Quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm luận
văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Luật Hình sự - Tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi trong TTHS là vấn đề được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, tiếp cận theo những góc độ khác
nhau. Cho đến nay đã có một số cơng trình trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu
đề cập đến đề tài này trong các Giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận hay
đề cập chung khi nghiên cứu vấn đề về QBC đối với người bị buộc tội nói
chung và đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi nói riêng như Luận án “Thực
hiện QBC của bị can, bị cáo trong TTHS” của Hoàng Thị Sơn, Nguyễn Hữu
Thế Trạch với Luận án “QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS
Việt Nam”, Luận án “Bảo đảm quyền có người bào chữa (NBC) của người bị
buộc tội – so sánh giữa luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ” của Lương Thị Mỹ
Quỳnh, Luận án “ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Trần Hưng Bình; sách
chuyên khảo “Đảm bảo quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam”
trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010 do TS. Võ Thị Kim
Oanh chủ biên mà điểm hình là bài viết của TS. Nguyễn Bá Ngừng “Đảm
bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo – Một trong những nguyên tắc quan
trọng góp phần đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự”…; Một số
Giáo trình nổi bật như: Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Cơng an nhân
dân năm 2002, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Nxb Tư pháp Hà Nội năm
2006…; Sách Bình luận khoa học BLTTHS Việt Nam năm 2003 của tác giả
Đinh Văn Quế, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 …
3
Bên cạnh đó có một số bài viết trong các tạp chí, tài liệu hội thảo chuyên
ngành như bài viết của PGS, TS. Nguyễn Thái Phúc “Sự tham gia bắt buộc
của người bào chữa trong tố tụng hình sự” đăng trong tạp chí Khoa học Pháp
lý số 4 năm 2017; bài viết “Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm đảm bảo
quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên” của ThS Nguyễn Hải
Ninh đăng trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2009…
Tất cả các cơng trình nghiên cứu này đã có những đóng góp nhất định về
mặt lý luận và thực tiễn trong việc khái quát về QBC của người bị buộc tội
dưới 18 tuổi, đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm QBC nói
chung. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này nhằm phân tích đánh giá về
QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi với những nét riêng đặc thù xảy ra tại
tỉnh Quảng Ngãi, qua đó đưa ra những giải pháp tăng cường bảo đảm QBC
đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi nhằm nâng cao hiệu quả thực thi cơ chế
bảo đảm QBC cho đối tượng này trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống những vấn đề lý
luận và thực tiễn về QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi trong TTHS Việt
Nam, từ đó đóng góp về mặt khoa học đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ngãi, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật tố tụng Hình sự
Việt Nam về quyền bào chữa nói chung, quyền bào chữa của người bị buộc
tội dưới 18 tuổi nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, trong q trình thực hiện đề tài tác giả đặt ra
cho mình các nhiệm vụ sau đây:
Một là, làm rõ những lý luận về QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
4
Hai là, khảo sát, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về QBC của
người bị buộc tội dưới 18 tuổi và đánh giá thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi từ năm 2013 đến năm 2017.
Ba là, rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại, thiếu sót, vướng mắc
và đề xuất các giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật để bảo đảm QBC cho
người bị buộc tội dưới 18 tuổi trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà đề tài luận văn nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực
trạng, quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và thực trạng thực hiện về
QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam từ trước năm 1988 cho đến nay. Đồng thời, đánh giá tình hình thực tiễn
thi hành QBC đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi từ giai đoạn 2013 - 2017
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận MácLêNin tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về đảm bảo quyền con người để thấy rằng QBC là một quyền cơ
bản, mang tính lịch sử và có sức ảnh hưởng lớn đến hiện thực xã hội. Ngồi ra
việc nghiên cứu cịn dựa trên cơ sở lý luận khoa học của các lĩnh vực có liên
quan như khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự,...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài còn vận dụng một số phương
pháp cụ thể sau đây:
5
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận,
khái quát, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về chế định QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
- Phương pháp phân tích lịch sử, thống kê, so sánh được sử dụng để đánh
giá quá trình phát triển, thực trạng pháp luật về QBC của người bị buộc tội
dưới 18 tuổi từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
- Phương pháp khảo sát, thống kê thu thập số liệu, tài liệu.
- Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về vấn đề QBC
của người bị buộc tội dưới 18 tuổi trong TTHS, góp phần làm sáng tỏ thêm
những vấn đề lý luận về QBC của đối tượng này. Tạo cơ sở cho việc hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi cơ chế bảo đảm QBC của người
bị buộc tội dưới 18 tuổi ở Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc nghiên cứu, đề tài sẽ đánh giá được thực tiễn áp dụng
của quy định của pháp luật TTHS về QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
là cơ sở cho các cơ quan xây dựng pháp luật, hoàn thiện hơn nữa các quy định
của BLTTHS về chế định này. Với những kết quả mà luận văn mang lại có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu trong thực tiễn điều tra, truy
tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu giảng dạy về TTHS.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
các từ viết tắt và bảng thống kê số liệu, nội dung của luận văn được kết cấu
gồm 3 chương:
6
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của người bị buộc
tội dưới 18 tuổi.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa
của người bị buộc tội dưới 18 tuổi và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Khái niệm về quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
1.1.1. Khái niệm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
QBC được quy định khá sớm trong pháp luật nước ta. Hiếp pháp luật
gốc của các đạo luật đã ghi nhận QBC ngay tại bản Hiến pháp đầu tiên. Trong
BLTTHS QBC được tiếp tục phát triển và nâng lên tầm cao mới, không
những QBC được ghi nhận là một nguyên tắc của luật TTHS, mà Bộ luật Tố
tụng Hình sự còn quy định nghĩa vụ của các cơ quan THTT trong việc bảo
đảm cho người bị buộc tội thực hiện QBC của họ.
Để hiểu khái niệm “quyền bào chữa”, trước hết phải hiểu khái niệm
“bào chữa” là gì, theo Từ điển Tiếng việt “Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng
cứ để bênh vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước
Tịa án hoặc cho một việc làm đang bị lên án”. [86, tr 38]
Đến nay, mặc dù đã được Hiến pháp, BLTTHS và các văn bản hướng
dẫn thi hành đã quy định khá đầy đủ về QBC cho người người bị buộc tội.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý thì khái niệm QBC cịn có nhiều
quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng “ QBC là tất cả các quyền mà pháp luật
qui định để chống lại sự buộc tội” [43, tr 49]. Quan điểm này chưa đúng và
chưa đầy đủ về nội dung của QBC trong luật TTHS Việt Nam vì trong luật
khơng có chỗ nào quy định cho phép ai đó có quyền “chống lại” sự buộc tội.
Quan niệm thứ hai cho rằng “ Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền
tố tụng tạo khả năng cho bị can, bị cáo bào chữa về hành vi do mình thực
hiện đã bị buộc tội và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác” [88, tr 71]
8
Quan điểm thứ ba PGS, TS Hoàng Thị Minh Sơn cho rằng “QBC của
bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có
thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm cho họ”
Quan điểm thứ tư theo PGS, TS. Phạm Hồng Hải cho rằng: “Quyền bào
chữa trong TTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp
luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan tiến
hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong
vụ án hình sự” [15, tr 29.30]
Như vậy, khái niệm QBC đã được hiểu rất khác nhau. Theo tác giả, tất
cả các quan điểm về QBC nói trên mặc dù đã phần nào mô tả được nội dung,
bản chất, đặc biệt là chủ thể của quyền này nhưng đều chưa hoàn toàn chính
xác bởi nếu cho rằng QBC chỉ thuộc về bị can, bị cáo như quan điểm thứ hai
và thứ ba thì q hẹp về phạm vi chủ thể, khơng chỉ bị can, bị cáo phải đối
diện với tội danh mà các cơ quan THTT truy tố mà người bị bắt, bị tạm giữ
cũng phải đối diện với khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự bản thân họ đã
bị hạn chế về quyền tự do của công dân trong một thời gian, và đối diện với
nguy cơ bị buộc tội. BLTTHS năm 2015 qui định “Người bị bắt, bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa”. Trong Hiến pháp năm 2013 tại Khoản 4 Điều 31 quy định: “Người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa,
nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa”. Theo các quy định này, QBC thuộc
về người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo và nội dung quyền
này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội nhằm
chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) cho
người bị buộc tội.
9
Hoạt động buộc tội được thực hiện thông qua quyết định có tính chất
buộc tội chính thức như quyết định khởi tố, truy tố hoặc chủ thể buộc tội áp
dụng một số biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, khám xét trước khi khởi
tố trên cơ sở phán đoán chủ quan của cơ quan có thẩm quyền. Do đó, hoạt
động bào chữa trong TTHS không chỉ hướng đến xác định sự vơ tội, giảm nhẹ
TNHS mà cịn là sự phản biện trước những biện pháp cưỡng chế của chủ thể
buộc tội để bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội do vậy tơi cho rằng ngồi
những chủ thể như người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp cũng là người bị buộc tội. Giữ người trong trường
hợp khẩn cấp dù với thời hạn tối đa là 12 giờ, nhưng xét dưới góc độ lý luận
thì họ cũng là người bị buộc tội. Theo điểm g, khoản 1 Điều 58 BLTTHS năm
2015 thì người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người bào chữa.
Và còn một đối tượng nữa cũng là chủ thể của QBC đó là người bị kết
án. Người bị kết án cũng là người bị buộc tội vì để kết án một người nào đó,
cơ quan THTT phải trải qua khâu buộc tội, khi một ai đó bị kết án bằng một
bản án có hiệu lực pháp luật thì khả năng bản án này có nguy cơ mắc phải sai
lầm là điều khó tránh khỏi dẫn tới kết án ai đó có thể oan, sai, nên việc duy
trì, cơng nhận và cho thực thi QBC của người bị kết án là cần thiết. Pháp luật
TTHS cũng cho phép người bị kết án được quyền “thơng báo cho người có
quyền kháng nghị” biết những sai sót trong bản án đã có hiệu lực để ra kháng
nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm (Điều 374 BLTTHS năm 2015), hoặc kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm (Điều 399 BLTTHS năm 2015) đây chính là một
cách quy định gián tiếp QBC cho người bị kết án.
Như vậy, từ những phân tích trên và kế thừa các quan điểm của các
nghiên cứu được tham khảo, tác giả xin đưa ra khái niệm QBC trong TTHS
như sau: “QBC trong TTHS là tổng hợp các quyền tố tụng hình sự của người
10
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
người bị kết án được pháp luật quy định cho họ nhằm đưa ra các chứng cứ
chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp khác của họ trước sự buộc tội của cơ quan THTT”.
1.1.2. Khái niệm người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Ở Việt Nam thuật ngữ “người chưa thành niên” được quy định nhiều
trong các văn bản khác nhau, Điều 68 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về
áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên (CTN) phạm tội
nêu rõ “người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự theo những quy định của chương này, đồng thời theo
những quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với những quy định
của Chương này”. Điều 90 Bộ luật Hình sự năm 2015 “Người từ đủ 14 đến
dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của
Chương này; theo những quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này
không trái với quy định của Chương này”. Điều 20 và 21 Bộ luật Dân sự
2015 quy định “ Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên; “Người
chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Điều 161 Luật Lao động năm
2013 quy định: “người lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”.
Như vậy hệ thống pháp luật nước ta có sự thống nhất về khái niệm người
CTN. Để nhằm hoàn thiện cơ chế tố tụng bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của người CTN, khắc phục những bất cập trong thực tiễn xử lý các vụ án
có người CTN, phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em, đồng bộ với
luật Trẻ em, BLTTHS năm 2015 đã sử dụng thuật ngữ pháp lý “người dưới 18
tuổi” để thay đổi cho thuật ngữ hiện dùng là “người CTN”. Như vậy trong thời
điểm hiện nay việc sửa đổi tên này là phù hợp tránh có nhiều cách hiểu khác
nhau và khơng thống nhất trong q trình áp dụng pháp luật.
11
Người bị buộc tội là khái niệm mới của luật TTHS Việt Nam. Để làm
rõ khái niệm này thì phải xuất phát từ khái niệm sự “buộc tội” theo đó sự
buộc tội chỉ xuất hiện khi một người bị cáo buộc là đã thực hiện một hành vi
mà Bộ luật hình sự coi là tội phạm. Sự buộc tội được coi là hình thành từ thời
điểm một người được thơng báo chính thức bởi cơ quan có thẩm quyền về
những chứng cứ cho rằng người đó đã thực hiện hành vi phạm tội và kể từ
thời điểm đó một người bị coi là người bị buộc tội trong vụ án hình sự. Sự
buộc tội kéo dài trong suốt quá trình chứng minh hành vi của người bị cáo
buộc có tội hay khơng có tội và kết thúc bằng một quyết định hoặc bản án có
hiệu lực pháp luật của cơ quan THTT.
Để thống nhất trong hoạt động tố tụng cũng như phù hợp với các quy
định của Công ước quốc tế, luật pháp của các nước tiến tiến trên thế giới,
điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 quy định “Người bị buộc tội gồm
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Người bị buộc tội là người
dưới 18 tuổi trong pháp luật TTHS Việt Nam được hiểu là người đang ở độ
tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi tại thời điểm họ bị cơ quan có thẩm quyền khởi
tố hình sự vì có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi có dấu hiệu
tội phạm theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm người bị buộc tội dưới
18 tuổi như sau: “Người bị buộc tội dưới 18 tuổi là người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bị kết án có độ
tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi”
1.1.3. Khái niệm quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Pháp luật luôn coi người dưới 18 tuổi là đối tượng đặc biệt cần được
bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng ngày mà ngay cả khi các họ là chủ thể
của hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
Luật hình sự bảo vệ người dưới 18 tuổi phạm tội và cũng quy định một chế tài
12
riêng để xử lý phù hợp nhằm thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam. BLTTHS Việt Nam năm 2015 ghi
nhận các quyền cũng như việc bảo đảm quyền tố tụng của người bị buộc tội
dưới 18 tuổi.
Như vậy “QBC của người bị buộc tội dưới 18 tuổi là tổng hợp các
quyền tố tụng hình sự của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bị kết án từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, tự
mình hoặc thơng qua người bào chữa của mình, đưa ra các chứng cứ chứng
minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
khác trước sự buộc tội của cơ quan THTT”.
1.2. Đặc điểm và vai trò của quyền bào chữa của người bị buộc tội
dưới 18 tuổi
1.2.1. Đặc điểm quyền bào chữa của người bị buộc tội dưới 18 tuổi
Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quyền trẻ
em. Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc xây
dựng và hồn thiện pháp luật, làm hài hịa giữa hệ thống chính sách, pháp luật
của quốc gia với các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em nói chung và
bảo vệ người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật nói riêng để phù hợp yêu cầu
bảo đảm cao hơn quyền con người của đối tượng này.
Xuất phát từ đặc điểm của người dưới 18 tuổi mà pháp luật nước ta đã
quy định nguyên tắc khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội khác với người
thành niên nhằm bảo đảm “tính đặc biệt” của nhóm đối tượng này. Các quy
định trong pháp luật nước ta đề cao việc giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi
phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh trở thành cơng dân có ích cho
xã hội là mục đích chủ yếu. Mọi biện pháp áp dụng đối với người dưới 18
tuổi phạm tội được quy định trong pháp luật nước ta đảm bảo phù hợp với
hoàn cảnh và tương xứng với tính chất và mức độ vi phạm của họ. Việc buộc
13
người dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình là nhằm mục
đích để các em nhận thức sâu sắc rằng hành vi phạm tội của các em đã vi
phạm các chuẩn mực và quy tắc của nhà nước, của xã hội. Tuy nhiên, biện
pháp xử lý đối với người dưới 18 tuổi được xem xét không chỉ đơn thuần dựa
vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi cũng như hậu quả do hành
vi đó gây ra, mà cịn tính đến hồn cảnh riêng của các em, bởi vì mục đích
của hình phạt và việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi không
phải chỉ là để trừng phạt người vi phạm, mà còn nhằm hỗ trợ người vi phạm
phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Việc xét xử người dưới 18 tuổi chỉ đặt ra
trong những trường hợp thật cần thiết, nếu có phải áp dụng hình phạt đối với
các em thì cũng lấy mục đích giáo dục, cải tạo là chủ yếu, khơng để hình ảnh
của pháp luật tồn tại trong tâm trí các em quá sợ hãi hoặc quá khắt khe, dễ
gây ra sự bất mãn, lòng thù hận.
BLTTHS 2015 thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo
đảm quyền con người, quyền công dân, thống nhất với tư tưởng chủ đạo trong
Công ước quốc tế về quyền trẻ em, kế thừa và phát triển BLTTHS năm 2003,
đã có nhiều quy định mới về trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết vụ án đối với
người dưới 18 tuổi theo hướng quy định cho họ được thực hiện nhiều quyền
năng tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Một trong những sửa đổi bổ sung quan trọng đó là Bộ luật đã quy định
bổ sung xác định rõ việc bảo đảm QBC. Quy định nêu trên đã xác định rõ hơn
cơ chế thực hiện QBC của người dưới 18 tuổi, từ đó tạo hành lang pháp lý
bảo đảm việc thực hiện các thủ tục bào chữa nói riêng cũng như các trình tự
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án nói chung, góp phần bảo vệ một cách
có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi bị buộc tội.
Trong hoạt động TTHS, QBC là quyền quan trọng nhất của người vi
phạm pháp luật hình sự. Đây là tổng hợp các quyền TTHS do người bị buộc
14