Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Luận án Tiến sĩ Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi sử dụng tấm lưới nhân tạo 3D ngoài phúc mạc điều trị thoát vị bẹn hai bên người lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 143 trang )


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoát vị bẹn (TVB) là hiện tượng các tạng trong ổ bụng chui qua ống bẹn
hoặc một điểm yếu của thành bụng vùng bẹn, trên dây chằng bẹn ra dưới da hay
xuống bìu. Đây là tình trạng bệnh lý phổ biến xảy ra ở khoảng 1 - 5% dân số nói
chung, trong đó 15 - 20% là thốt vị bẹn hai bên [1], [2]. Hàng năm tại Mỹ có hơn
800.000 ca phẫu thuật TVB được thực hiện, khoảng 15% trường hợp trong đó là
TVB hai bên [2]. Tại Việt Nam, các nghiên cứu gần đây ghi nhận tỷ lệ TVB hai bên
từ 4,4% - 17,9% [3], [4]
Phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị thoát vị bẹn lần đầu được báo cáo bởi Ger
năm 1982 [5]. Từ đó, điều trị TVB đã trải qua những tiến bộ mang tính cách mạng
về kỹ thuật. Trong số các phương pháp phẫu thuật thốt vị bẹn nội soi, phương pháp
tiếp cận hồn toàn ngoài phúc mạc (TEP) và xuyên thành bụng ngoài phúc mạc
(TAPP) là những lựa chọn thay thế được chấp nhận rộng rãi với những điểm vượt
trội hơn mổ mở như giảm đau, giảm tai biến, biến chứng sau mổ, thời gian nằm viện
ngắn, sớm trở lại sinh hoạt bình thường [6], [7].
Bên cạnh những cải tiến về kỹ thuật, sự ra đời và phát triển của lưới nhân tạo
cũng tạo ra những thay đổi mang tính cách mạng trong điều trị thoát vị bẹn. Năm
1955, Francis Usher lần đầu dùng tấm lưới nhân tạo phẳng bằng polypropylene để
điều trị thoát vị bẹn và thoát vị vết mổ. Kể từ đó tấm lưới nhân tạo được ứng dụng
rộng rãi giúp làm giảm tỷ lệ thoát vị bẹn tái phát [8]. Tuy nhiên, một trong những
nhược điểm của tấm lưới nhân tạo phẳng là dễ bị cuộn, di chuyển khỏi vị trí đặt
hoặc tăng tình trạng đau kéo dài sau mổ từ 4 - 6% do phải sử dụng dụng cụ cố định
hoặc khâu [9]. Để hạn chế một cách tối đa tình trạng trên, năm 1999, tác giả W. Bell
(Mỹ) [10] là một trong những người đầu tiên sử dụng tấm lưới nhân tạo 3D với hình
dáng uốn đồng nhất theo cấu trúc giải phẫu của vùng bẹn trong phẫu thuật nội soi
điều trị thốt vị bẹn. Kể từ đó nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy việc sử dụng
tấm lưới nhân tạo 3D trong điều trị bệnh lý TVB là an toàn, hiệu quả cũng như tỷ lệ
đau sau mổ thấp và tỉ lệ tái phát thấp từ 0 – 0,45% [10], [11].




2

Đối với các trường hợp thoát vị bẹn hai bên, cho đến nay vẫn còn nhiều tranh
luận trong vấn đề lựa chọn chiến thuật điều trị (sửa chữa đồng thời hay từng bên
một), phương pháp tiếp cận (mổ mở, phẫu thuật nội soi TEP hay TAPP), lựa chọn
và cố định lưới nhân tạo,… [2], [11], [12], [13]. Nghiên cứu của Markus Gass và
cộng sự [2] trên 6.505 bệnh nhân thoát vị bẹn một bên và 3.048 trường hợp thoát vị
bẹn hai bên được điều trị bằng phẫu thuật nội soi TEP cho thấy khơng có sự khác
biệt đáng kể nào về thời gian nằm viện sau mổ và tỷ lệ chuyển mổ, nhưng giảm chi
phí và số ngày điều trị hơn so với thực hiện phẫu thuật hai lần [2]. Vì vậy, đối với
thốt vị bẹn hai bên, phẫu thuật nội soi đặt lưới hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) là
lựa chọn điều trị an tồn, khả thi, có thể được thực hiện với kết quả tương tự phẫu
thuật thoát vị một bên [2], [14].
Tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi đặt lưới nhân tạo hoàn toàn ngoài phúc mạc
điều trị thoát vị bẹn đã được triển khai ở hầu hết các trung tâm phẫu thuật cho kết
quả tốt. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào phân tích sâu về đặc điểm kỹ thuật
cũng như kết quả điều trị thoát vị bẹn hai bên ở người lớn bằng phẫu thuật nội soi
sử dụng tấm lưới nhân tạo 3D ngoài phúc mạc. Vì vậy, chúng tơi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi sử dụng tấm lưới nhân tạo 3D ngồi
phúc mạc điều trị thốt vị bẹn hai bên người lớn” với hai mục tiêu:
1. Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý của nhóm bệnh nhân thốt vị bên ở người
lớn được điều trị bằng phẫu thuật nội soi ngồi phúc mạc có sử dụng tấm lưới nhân
tạo 3D tại Bệnh viện Thanh Nhàn từ tháng 1/2017 đến tháng 2020.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi đặt tấm lưới nhân tạo 3D điều trị
thoát vị bẹn 2 bên ở người lớn.


3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu, cơ chế bệnh sinh ứng dụng trong phẫu thuật TVB
Bẹn là một vùng được giới hạn bởi xương mu và dây chằng lược ở phía trong,
bó mạch thượng vị dưới và phần dày lên của mạc ngang tại lỗ bẹn sâu ở phía ngồi.
Phía trước là bao đùi, dải chậu mu và dây chằng bẹn ở phía dưới. Cung của cơ
ngang bụng (cung Douglas) ở phía trên. Mạc ngang ở phía sau là thành phần chủ
yếu tạo nên thành sau ống bẹn [15], [16]
1.1.1. Giải phẫu ống bẹn
Ống bẹn là một khe nằm giữa các lớp cân cơ của thành bụng vùng bẹn theo
hướng chếch từ trên xuống dưới, vào trong và ra trước, đi từ lỗ bẹn sâu tới lỗ bẹn
nông, dài khoảng 4 – 6 cm. Ở nam, ống bẹn là đường đi của tinh hồn từ ổ bụng
xuống bìu trong thời kỳ phơi thai. Ở nữ, trong ống bẹn có dây chằng tròn. Ống bẹn
được cấu tạo bởi 4 thành: thành trước, thành sau, thành trên, thành dưới và hai đầu
là lỗ bẹn sâu và lỗ bẹn nơng [16]

Hình 1.1. Ống bẹn cắt dọc
(Nguồn: Jones D.B. và cs. (2013) [17])


4

Hình 1.2. Thiết đồ cắt ngang ống bẹn và các thành phần liên quan
(Nguồn: Drake R.L. và cs. (2015) [16])
- Thành trước: Phần lớn thành trước ống bẹn ở phía trong được tạo nên bởi cân
cơ chéo bụng ngoài và một phần nhỏ phía ngồi là cân cơ chéo bụng trong ở chỗ cơ
này bám vào dây chằng bẹn [15].
- Thành sau: Được tạo nên chủ yếu bởi mạc ngang, một ít thớ của cân cơ ngang
bụng, mơ ngồi phúc mạc và phúc mạc [15], vì thế thành sau ống bẹn rất yếu, do đó

các thốt vị thường xảy ra ở vùng này, trong đó chủ yếu là TVB trực tiếp.
+ Mạc ngang: phía trên trải rộng phủ thành sau ống bẹn đến phía sau cung
của cơ ngang bụng. Phía trong mạc ngang lại hòa lẫn với bao cơ thẳng bụng và bao
cơ ngang bụng hoặc với gân cơ kết hợp. Như vậy, mạc ngang tạo nên thành sau ống
bẹn, sự chống đỡ của thành sau ống bẹn tùy thuộc vào sự trải rộng khác nhau của
mạc ngang khi cung của cơ ngang bụng chạy xuống thấp bám vào xương mu và
đường chậu lược. Mạc ngang thường có độ dày thay đổi, phủ kín vùng trống tạo bởi
cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng, ngang mức thành sau ống bẹn, kéo căng giữa
bờ dưới cơ ngang bụng phía trên, dây chằng Cooper và bao mạch đùi phía dưới và


5

bao cơ thẳng bụng ở phía trong. Mạc ngang kéo dài mặt sau cơ thẳng bụng phía
dưới đường cung dưới dạng lá mơ tế bào lỏng lẻo. Bó mạch thượng vị dưới chạy
giữa hai lá của mạc ngang. Do vậy khi phẫu tích thành ống bẹn trong phẫu thuật sửa
chữa TVB, đặc biệt là phẫu thuật TEP cần chú ý tránh làm tổn thương ĐM này. Có
nhiều quan điểm khác nhau trong việc mô tả các cấu trúc trợ lực cho mạc ngang đó
là các dây chằng hoặc nằm cùng lớp với mạc ngang hoặc ở các lớp kế cận dính vào
mạc ngang để làm phần mạc ngang ở thành sau ống bẹn thêm vững chắc. Tuy vậy,
tác dụng của các dây chằng này không đáng kể chỉ đề cập đến một số cấu trúc được
nhiều người chấp nhận, các cấu trúc tăng cường của mạc ngang gồm có hai cấu trúc
dọc và một cấu trúc ngang, đó là các cấu trúc dọc là dây chằng gian hố ở bên ngoài
và dây chằng Henlé bên trong.
+ Dây chằng gian hố là chỗ dày lên của mạc ngang ở bờ trong lỗ bẹn sâu, phía trên
dính vào mặt sau cơ ngang bụng, phía dưới dính vào dây chằng bẹn.
+ Dây chằng Henlé là sự mở rộng của cân cơ thẳng bụng để bám lên xương mu.
+ Dải chậu mu là một dải cân từ cung chậu lược đến ngành trên xương mu. Phía
ngồi bám vào xương chậu, mạc cơ thắt lưng chậu và liên tiếp ra ngoài gai chậu
trước trên, từ ngoài đi vào trong tạo nên bờ dưới của lỗ bẹn sâu, đi qua mạch đùi tạo

nên bờ trước của bao mạch đùi, tận cùng ở trong hòa lẫn vào bao cơ thẳng bụng và
dây chằng lược
+ Tam giác bẹn hay tam giác Hesselbach: ở thành sau ống bẹn và coi đó là chỗ yếu
nhất của thành bụng bẹn. Tam giác này được giới hạn bởi phía trên ngồi là bó
mạch thượng vị dưới, phía dưới là dây chằng bẹn và phía trong là bờ ngồi bao cơ
thẳng bụng. Cịn dây chằng bẹn đã chia đôi khoảng trống này, khoảng yếu này đã
được Fruchaud mô tả gọi tên là lỗ cơ lược. Đây là vùng yếu của thành ống bẹn vì
chỉ có mạc ngang, cũng là nơi xảy ra TVB trực tiếp.
Như vậy với quan niệm này, TVB trực tiếp và thốt vị đùi có cùng một cơ
chế, đó là do sự phá vỡ của mạc ngang của hố bẹn trong mà chỉ khác nhau là túi
thoát vị nằm ở trên hay dưới dây chằng bẹn. Sau mạc ngang là lớp mơ mỡ ngồi
phúc mạc, trong lớp này ở vùng bẹn có một ĐM và hai thừng sợi đi qua từ ngoài


6

vào trong là: ĐM thượng vị dưới, dây chằng rốn trong và dây chằng rốn giữa.
Điểm yếu trung tâm của mạc ngang: ở trung tâm của thành sau ống bẹn, giữa
dây chằng gian hố bên ngoài và dây chằng Henlé bên trong, dải chậu mu bên dưới,
là điểm yếu cổ điển của thành sau ống bẹn. Điểm yếu này chỉ được đóng kín bởi lớp
mạc ngang. Thật ra chỗ yếu của vùng bẹn và đùi được giới hạn ở trên là bờ dưới
của cơ ngang bụng (cung cơ ngang bụng), ở trong là bờ ngoài bao cơ thẳng bụng và
ở dưới là dây chằng bẹn và dây chằng bẹn đã chia đôi khoảng trống này. Khoảng
yếu này được Fruchaud mô tả và được gọi là lỗ cân cơ lược, chỉ được bịt bởi mạc
ngang. Thốt vị có thể xảy ra trên dây chằng bẹn gọi là TVB hoặc dưới dây chằng
bẹn gọi là thoát vị đùi
+ Lỗ cân cơ lược: được giới hạn bởi bên ngoài cơ thắt lưng chậu, bên trong phần
cuối của cơ thẳng bụng, bên trên là bờ dưới của cơ chéo bụng trong và cơ ngang
bụng, cấu tạo liềm bẹn, bên dưới là diện lược của ngành trên xương mu. Lỗ cân cơ
lược được phân chia thành hai phần bởi dây chằng bẹn: phần trên là vị trí yếu của

vùng bẹn, là nơi xảy ra TVB và phần dưới là nơi đi qua của cơ thắt lưng chậu, thần
kinh đùi ở bên ngồi và bó mạch đùi ở bên trong, đây là vị trí xảy ra thoát vị đùi
- Thành trên: được tạo nên bởi bờ dưới của cân cơ chéo bụng trong và cơ ngang
bụng. Tại vùng bẹn, cân cơ chéo bụng trong có cấu tạo phần lớn là mơ cơ, mơ cân
rất ít. Ở đây, cơ chéo trong dính khá chặt với cơ ngang bụng bên dưới, trong trường
hợp phần trong cùng của cơ ngang bụng là mơ cơ thì các thớ của hai cơ này đan xen
vào nhau gần như tạo nên một lớp cơ hoạt động như nhau gọi là gân kết hợp [15].
- Thành dưới:
Thành dưới ống bẹn được tạo nên bởi dây chằng bẹn, còn gọi là cung đùi hay
dây chằng Poupart, không phải là cấu trúc biệt lập mà chính là phần dày lên của bờ
dưới cân cơ chéo bụng ngoài. Dây chằng bẹn đi từ gai chậu trước trên đến củ mu,
dài từ 12 đến 14cm và tạo một góc 30-40° so với mặt phẳng nằm ngang, gắn với
dây chằng khuyết và mạc ngang từ thành sau ống bẹn, quặt ngược về phía sau cho
đến cân cơ lược 1-1,5cm dưới dây chằng Cooper tạo nên một màng đóng lại ổ bụng
cho đến đùi.


7

Ở đoạn trong của dây chằng bẹn, ngoài những sợi bám vào củ mu cịn có
những sợi chạy vịng ra phía sau đến bám vào đường lược xương mu gọi là dây
chằng khuyết. Dây chằng khuyết tiếp tục đi ra phía ngồi tới lồi chậu mu, ở đây nó
hồ lẫn với cân cơ lược và lớp chu cốt mạc của xương mu tạo nên một dây chằng
rất chắc gọi là dây chằng lược hay còn gọi là dây chằng Cooper.
- Lỗ bẹn nông: là lỗ nằm ở giữa hai cột trụ ngoài và cột trụ trong của cân cơ
chéo bụng ngồi. Lỗ bẹn nơng nằm ngay dưới da, sát phía trên củ mu, qua lỗ bẹn
nơng có thừng tinh đi từ ống bẹn xuống bìu. Qua ngón tay đội da bìu lên ta có thể
khám được lỗ bẹn nơng [15].
- Lỗ bẹn sâu: đối chiếu lên thành bụng trước, lỗ bẹn sâu nằm ở trên trung điểm
của nếp bẹn khoảng 1,5-2 cm. Lỗ bẹn sâu là chỗ lõm của mạc ngang, nơi các thành

phần của thừng tinh quy tụ lại để chui vào ống bẹn
Lỗ bẹn sâu có cơ ngang bụng và cơ chéo bụng trong bao vịng phía trên và
phía ngồi, phía dưới có dải chậu mu, phía trong là bó mạch thượng vị dưới và dây
chằng gian hố. Ở lỗ bẹn sâu, các thành phần của thừng tinh sẽ hội tụ lại để đi vào ống
bẹn. Qua lỗ bẹn sâu tương ứng với hố bẹn ngoài, là trường hợp TVB gián tiếp đi qua,
khối thoát vị sa ra ngoài từ hố bẹn ngoài, qua lỗ bẹn sâu và nằm trong ống bẹn, trong
thừng tinh, về bản chất là tồn tại ống phúc tinh mạc gọi là TVB gián tiếp.
1.1.2. Giải phẫu thành bụng vùng bẹn và ứng dụng trong phẫu thuật TEP
1.1.2.1. Cấu tạo
Thành bụng vùng bẹn gồm các lớp: Da, lớp mỡ dưới da, lớp mạc nông, mạc
của cân cơ chéo bụng ngoài, cân và cơ chéo bụng trong, cân và cơ ngang bụng, mạc
ngang, lớp mỡ trước PM và cuối cùng là PM thành [15], [16]
Cơ chéo bụng ngoài: Bờ dưới của cơ tạo nên dây chằng bẹn, phía trên –
ngồi bám vào gai chậu trước trên và bên dưới – trong bám vào củ mu [18].
Cơ chéo bụng trong: Ở vùng bẹn, các thớ cơ chéo bụng trong và cơ ngang
bụng phối hợp tạo nên liềm bẹn (gân kết hợp), bám vào mào lược xương mu [18],
[16]. Trong PT điều trị TVB, Bassini khâu gân kết hợp với cung đùi để phục hồi
thành bụng, Shouldice khâu gân kết hợp với cân cơ chéo ngoài [19], [20].


8

Cơ ngang bụng: Hầu hết các sợi cơ chạy ngang, hướng xuống dưới và uốn cong
vào phía trong tạo thành một cung bao lấy ống bẹn [21]. Cơ ngang bụng có cấu tạo đặc
biệt là nhiều cân và ít sợi cơ hơn cơ chéo bụng trong và cơ chéo bụng ngoài [16]
1.1.2.2. Các cấu trúc trong khoang trước phúc mạc
Khoang ngoài phúc mạc chứa tổ chức mỡ, hạch lympho, nhiều mạch máu,
thần kinh, ống dẫn tinh và một số cấu trúc cơ mạc [16], [18]
Để thực hiện PTNS điều trị TVB, đặc biệt là TEP với đường tiếp cận hoàn
toàn ngoài phúc mạc, tránh các tai biến, biến chứng do tổn thương các cấu trúc vùng

này, đặc biệt là thần kinh và mạch máu, đòi hỏi phẫu thuật viên phải có sự hiểu biết
về giải phẫu khoang trước phúc mạc [16], [18]
- Các mạch máu vùng bẹn và trong khoang trước phúc mạc
+ Động mạch, tĩnh mạch chậu ngoài: ĐM chậu ngoài tách ra từ ĐM chậu
chung, nằm trên rãnh giữa chậu hông lớn và chậu hông bé, đi dọc theo bờ trong của
các cơ thắt lưng xuống dưới dây chằng bẹn đổi tên thành ĐM đùi. Tĩnh mạch chậu
ngoài tiếp theo tĩnh mạch đùi ở dưới dây chằng bẹn, thu nhận máu từ chi dưới, rồi
hợp lưu với tĩnh mạch chậu trong ở ngang mức khớp cùng chậu tạo thành tĩnh mạch
chậu chung [18], [21].
+ Động mạch, tĩnh mạch thượng vị dưới: xuất phát từ bó mạch chậu ngồi
gần với bao đùi và đi theo hướng lên trên giữa mạc ngang và phúc mạc ở bờ trong
của lỗ bẹn sâu. Đây là mốc giải phẫu quan trọng bắt buộc phải xác định trong phẫu
thuật TVB [18], [21].
+ Động mạch, tĩnh mạch mũ chậu sâu: ĐM mũ chậu sâu tách ra từ ĐM chậu
ngồi đi ra phía ngồi, lúc đầu đi ở dưới mạc lược và dải chậu mu. Nhánh xuống
của ĐM này đi theo hướng thẳng đứng, ngay trong gai chậu trước trên giữa cơ
ngang bụng và cơ chéo trong; có hai tĩnh mạch cùng tên đi kèm ĐM và đổ vào tĩnh
mạch chậu ngồi [18], [21].
+ Bó mạch thừng tinh: có hai ĐM tinh hồn xuất phát từ ĐM chủ bụng ở
ngang mức đốt sống thắt lưng 2. Từ nguyên ủy, ĐM chạy chếch xuống dưới, ra sau
phúc mạc thành, trên cơ thắt lưng và bắt chéo phía trước thần kinh sinh dục đùi,


9

niệu quản và phần dưới ĐM chậu ngoài. Tới lỗ bẹn sâu, ĐM chui vào thừng tinh
cùng các thành phần khác của thừng tinh qua ống bẹn xuống bìu. Tĩnh mạch tinh
hoàn đi kèm với ĐM. Ở trong thừng tinh, tĩnh mạch tạo thành đám rối hình dây
cuốn. Tĩnh mạch tinh hoàn phải đổ vào tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch tinh hoàn trái
đổ vào tĩnh mạch thận trái [18], [21].

+ Động mạch bịt: tách ra từ ĐM chậu trong đi theo lỗ bịt và cấp máu cho cơ
khép đùi và khớp chậu – đùi
+ Vòng nối tĩnh mạch sâu vùng bẹn: gồm tĩnh mạch thượng vị dưới, tĩnh
mạch chậu mu, tĩnh mạch thẳng, tĩnh mạch sau mu và nhánh nối giữa tĩnh mạch
thẳng với tĩnh mạch thượng vị dưới.
+ Ống dẫn tinh: dài khoảng 30 cm, đường kính 2 – 3mm, liên tiếp với ống
mào tinh ở đuôi mào tinh rồi quặt ngược lên trên ra trước, chạy vào thừng tinh ở lỗ
bẹn sâu. Ở đây, các thành phần của thừng tinh phân tán: ống dẫn tinh chạy cong lên
trên mặt ngoài ĐM thượng vị dưới, rồi chạy lên trên ở phía trước ĐM chậu ngồi
khoảng 2,5cm và bắt chéo bó mạch chậu ngồi vào trong chậu hơng bé nằm giữa
thành chậu hông và phúc mạc thành [18], [21].
- Các nhánh thần kinh trong khoang trước phúc mạc
+ Thần kinh bì đùi ngồi: bắt nguồn từ rễ thần kinh thắt lưng 2 và thắt lưng 3,
nó đi ngang qua cơ chậu theo hướng chếch lên gai chậu trước trên, sau đó đi dưới
dây chằng bẹn và chi phối da mặt ngoài của đùi [18], [16].
+ Thần kinh sinh dục đùi: bắt nguồn từ rễ thần kinh thắt lưng 1 và 2, đi ở sau
phúc mạc ở mặt trước cơ thắt lưng và chia hai nhánh [18], [16].
Nhánh sinh dục: đi theo hướng của của các mạch máu chậu và dải
chậu mu, sau đó đi vào ống bẹn ở phía ngoài của mạch máu thượng vị dưới.
Ở nam giới, nhánh thần kinh này đi qua ống bẹn đến lỗ bẹn nơng và chi
phối cho bìu và cơ bìu.
Nhánh đùi: đi dọc theo cơ thắt lưng chậu vào vùng đùi, những sợi tận
cùng của nó xuyên qua cân đùi đến vùng da trước trên của đùi, có thể bị tổn
thương khi mổ nội soi [15], [16].


10

+ Thần kinh đùi: hợp bởi nhánh sau của ngành trước các dây thần kinh thắt
lưng II, III và IV. Thần kinh này đi từ trên xuống dưới, lúc đầu đi giữa 2 bó của cơ

thắt lưng to, rồi dọc theo bờ ngoài cơ này chui dưới dây chằng bẹn trong bao cơ thắt
lưng chậu xuống đùi, chi phối vận động cho các cơ mặt trước đùi và cảm giác cho
da mặt trước trong của đùi [18], [16].
- Dây chằng Cooper (dây chằng lược): do sự hòa lẫn lớp chu cốt mạc của mào
lược từ các thớ tụ lại của mạc ngang và dải chậu mu, là một cấu trúc giải phẫu rất
chắc, quan trọng để ứng dụng điều trị TVB. Khi khâu cân cơ ngang bụng vào dây
chằng Cooper sẽ đóng kín được cả tam giác bẹn và ống đùi, điều trị được cả TVB
và TV đùi [11], [59].
- Dải chậu mu, cơ ngang bụng (Đã trình bày ở trên)
1.1.2.3. Các tam giác vùng bẹn
Đây là các vùng có nhiều cấu trúc thần kinh và mạch máu đi qua, nếu khơng xác
định rõ có thể bị tổn thương trong lúc phẫu thuật dẫn đến tai biến (tổn thương mạch,
thần kinh) hoặc cố định lưới vào thần kinh gây đau mạn tính sau mổ
- Tam giác tử (Doom Triangle): cạnh ngoài là mạch máu tinh hoàn, cạnh trong là
ống dẫn tinh, cạnh dưới là nếp phúc mạc. Hai cạnh trong và ngoài gặp nhau ở lỗ bẹn
sâu. Bên trong tam giác này là bó mạch chậu ngồi, tĩnh mạch mũ chậu sâu, nhánh
sinh dục của thần kinh sinh dục đùi và thần kinh đùi (nằm ở sâu)
- Tam giác đau (Pain Triangle): Nằm kề phía ngồi tam giác tử, được giới hạn
cạnh ngoài là dải chậu mu, cạnh trong là mạch máu tinh hồn. Trong tam giác đau
có nhiều thần kinh như: thần kinh bì đùi ngồi, thần kinh bì đùi trước, nhánh đùi của
thần kinh sinh dục đùi và thần kinh đùi. Vì vậy tránh đốt điện, khâu hoặc dùng
protack bắn vào vùng này
1.2. Tình hình nghiên cứu về đặc điểm bệnh lý TVB hai bên
1.2.1. Dịch tễ học
Tỷ lệ mắc thực sự mà TVB bên được phát hiện có sự khác biệt rất lớn giữa
các nghiên cứu, điều này được giải thích bởi thực tế lâm sàng thấy có những BN
được phẫu thuật TVB 1 bên, sau đó nhiều năm lại quay lại bệnh viện với TVB bên


11


đối diện, tổn thương này có thể là nguyên phát hoặc do bỏ sót khơng được phát hiện
tại thời điểm phẫu thuật lần đầu. Vấn đề này đã được xem xét kỹ lưỡng trong phẫu
thuật nhi khoa trong hơn nửa thế kỷ, và mặc dù sinh lý bệnh có vẻ khác nhau, nó có
thể giống với những gì xảy ra ở người lớn. Tỷ lệ TVB hai bên ở trẻ sơ sinh là
khoảng 15% và có thể tăng lên đến 40% ở trẻ sinh non. Tỷ lệ trẻ em được phẫu
thuật TVB bên trong lần phẫu thuật thứ hai có thể lên đến 34% [22], [23]
Các báo cáo về TVB hai bên ở người lớn chủ yếu là nam giới rất khác nhau.
Akin báo cáo chỉ có 5% và el-Quaderi là 6,2% tỷ lệ TVB hai bên ở nhóm dân số
khỏe mạnh. Tại Bệnh viện General de Mexico từ 259 hồ sơ lâm sàng về phẫu thuật
TVB, 57 BN (22%) bị thoát vị hai bên. Chụp cắt lớp phát hiện từ 20 đến 30%
trường hợp TVB hai bên, và loạt phẫu thuật mở báo cáo TVB hai bên với tần suất
thay đổi từ 12 đến 25% (Trích dẫn theo [22]). Như được trình bày trong bảng 1.1, tỷ
lệ TVB hai bên được trong phẫu thuật nội soi được báo cáo thường xuyên hơn nhiều
so với phẫu thuật mở và có thể lên đến 60% [22]
Bảng 1. 1. Tỷ lệ TVB hai bên theo các nghiên cứu (Trích dẫn theo [22])
Cỡ mẫu

Phương pháp

Tỷ lệ

nghiên cứu

phát hiện

TVB hai bên

el-Qaderi


1722

Dịch tễ học

5%

Akin

27408

Dịch tễ học

6,2%

Weber

259

Dịch tễ học

22%

Ekberg

313

Mổ mở

20 – 29%


Abramson

459

Mổ mở

39%

Rutkow

696000

Mổ mở

25,2%

Weber

300

PTNS

36%

Phillips

379

PTNS


64%

McKernan

269

PTNS

36%

Sayad

724

PTNS

32,2%

Tác giả

1.2.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh


12

Đến nay, hầu hết các tác giả đều cho rằng có nhiều nguyên nhân và cơ chế
độc lập hay phối hợp với nhau gây ra tình trạng TVB một bên hoặc hai bên ở người
lớn. Một số nhóm nguyên nhân và cơ chế chính thường được đề cập bao gồm:
- Còn ống phúc tinh mạc ở người lớn:
Còn ống phúc tinh mạc cũng là nguyên nhân quan trọng của TVB gián tiếp,

tuy nhiên nếu chỉ điều trị bằng cách buộc cao cổ túi thốt vị như ở trẻ em thì sẽ dẫn
đến một tỉ lệ tái phát thoát vị cao ở người trung niên cao tuổi. Điều này chứng tỏ
ngoài việc cịn ống phúc tinh mạc bẩm sinh, cịn có thêm một số yếu tố khác nữa để
tạo ra TVB ở người trưởng thành [24]
Theo Stranne, TVB gián tiếp là kiểu thoát vị thường gặp nhất, bao thoát vị đi
cùng với thừng tinh ở phía ngồi của bó mạch thượng vị dưới. Giả thuyết túi của
Rusell cho rằng nguyên nhân là do còn tồn tại ống phúc tinh mạc, nghĩa là ống phúc
tinh mạc khơng đóng kín trong thời kỳ bào thai sau khi tinh hồn di chuyển xuống
bìu. Sau đó, sự tăng áp lực ổ bụng kéo dài liên tục tác động thêm vào chỗ yếu của lỗ
bẹn sâu, cuối cùng các tạng trong ổ bụng bị đẩy lồi qua lỗ bẹn sâu vào ống phúc
tinh mạc không được đóng kín gây ra TVB gián tiếp [25]

Hình 1.3. TVB gián tiếp
(Nguồn: Drake R.L. và cs. (2015) [16])
Tuy nhiên, quan niệm bắt buộc phải có sự tồn tại ống phúc tinh mạc bẩm


13

sinh dẫn đến sự phát triển TVB trên lâm sàng sau đó khơng được thừa nhận và rất
có khả năng nguyên nhân gây ra TVB gián tiếp là do nhiều yếu tố bao gồm: Sự suy
yếu của cơ chế màng trập, do tổn thương cơ chéo bụng ngoài hoặc do khiếm khuyết
của tổ chức liên kết vùng bẹn [24]
- Sự suy yếu của lớp cân cơ – mạc ngang của thành bụng vùng bẹn
Các nghiên cứu thấy rằng TVB trực tiếp là do mắc phải và tỷ lệ mắc bệnh
tăng theo lứa tuổi. Thoát vị này đẩy lồi trực tiếp qua mạc ngang, phía trong mạch
máu thượng vị dưới. Nguyên nhân gây TVB trực tiếp, về kinh điển, được cho là có
sự kết hợp của tăng áp lực ổ bụng và sự suy yếu tương đối của mạc ngang ở thành
sau ống bẹn [24], [25]
Các yếu tố làm yếu cơ thành bụng: Suy dinh dưỡng, sinh đẻ nhiều, chấn

thương thành bụng, mơ thành bụng lão hố ở người cao tuổi [24], [25]

Hình 1.4. TVB trực tiếp
(Nguồn: Drake R.L. và cs. (2015) [16])
- Theo cơ chế màng trập của cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng
Cơ chế màng trập của cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng ở người bình
thường khi hoạt động sẽ như một bức rèm che phủ phần sau ống bẹn và lỗ bẹn sâu


14

giúp chống lại sự tăng áp lực trong ổ bụng, do đó ngăn ngừa thốt vị. Do sự phát
triển khơng đầy đủ ở phần thấp của cơ chéo bụng trong và cơ ngang bụng, nên khi
hai cơ này cùng co, cung cơ ngang bụng không xuống sát dây chằng bẹn và dải
chậu mu (cung cơ ngang bụng đóng cao hơn bình thường), để trống một vùng yếu ở
thành sau ống bẹn, thêm vào đó sự tăng góc giữa bao cơ thẳng bụng và đai chậu gây
ra TVB [24], [25]
- Sự tăng áp lực ổ bụng
Ở người, sự lặp đi lặp lại, ngày này qua ngày khác các hoạt động gắng sức
như: đại tiện, động tác cúi, mang vác, ho và các hoạt động khác... làm cho các tạng
trong ổ bụng tác động vào thành bụng vùng bẹn với một lực nhỏ, lặp đi lặp lại.
Chính sự tác động này làm yếu dần các thành phần tại vùng bẹn và sàn chậu, có thể
gây ra TVB [24], [25]
Các nguyên nhân làm tăng áp lực ổ bụng khác như: Cổ trướng, mang thai,
khối u lớn trong bụng, ho mãn tính (viêm phế quản mãn tính), rặn tiểu (do phì đại
tiền liệt tuyến), táo bón, … [24], [25]
1.2.3. Chẩn đốn
Lâm sàng
Hầu hết BN TVB khơng có triệu chứng gì cho đến khi phát hiện ra một khối
phồng ở vùng bẹn xuất hiện tự nhiên hoặc khi nâng vật nặng, khi rặn,... Một số BN

mơ tả là có cảm giác co kéo hoặc bị đau lan xuống bìu, nhất là đối với TVB gián
tiếp. Nhìn chung TVB trực tiếp ít gây nên triệu chứng hơn TVB gián tiếp và cũng ít
bị kẹt hay nghẹt hơn. Theo Phan Đình Tuấn Dũng [4] có 91% BN vào viện vì xuất
hiện khối phồng vùng bẹn cịn 9% có khối phồng kèm theo cảm giác đau vùng bẹn.
Triệu chứng đặc hiệu của TVB là nhìn hay sờ thấy khối phồng vùng bẹn 2
bên khi BN đứng hoặc ho, rặn. Ngược lại khi nằm hoặc khi dùng tay đẩy vào thì
khối phồng này lại biến mất [26]. Mặc dù vậy khi thăm khám cần đánh giá cả 2 bên
lỗ bẹn do 15 - 20% BN có TVB hai bên [1], [2].
Trong trường hợp TV nhỏ có thể khó nhận thấy. Khi đó có thể dùng ngón tay
đội da bìu để sờ lỗ bẹn nông, nếu lỗ bẹn nông quá nhỏ khơng thể đưa ngón tay vào


15

ống bẹn thì rất khó xác định khối trồi ra cảm nhận khi ho hay rặn có thực sự là khối
TV hay không. Ngược lại, nếu lỗ bẹn nông quá rộng cũng khơng tự nó khẳng định
là có TV, cần phải sờ thấy một khối đang chạy xuống lòng ống bẹn khi ho hoặc rặn
thì mới chắc chắn là có TVB [26]
Sự phân biệt TVB trực tiếp và gián tiếp có thể dễ dàng nhưng đơi khi rất khó.
Tuy nhiên mỗi loại TV cũng có biểu hiện đặc trưng. Sau khi đẩy khối TVB lên hết,
có thể phân biệt TVB trực tiếp và TVB gián tiếp bằng 3 nghiệm pháp sau [26]
+ Nghiệm pháp nhìn hướng phát triển: bảo BN ho, rặn. TVB gián tiếp xuất
hiện theo hướng chếch từ trên xuống và từ ngoài vào trong. TVB trực tiếp xuất hiện
theo hướng từ trong bụng thẳng về phía trước.
+ Nghiệm pháp chạm ngón (Thủ thuật Zeiman): dùng ngón trỏ cho vào lỗ bẹn
nông và đi vào một phần ống bẹn (mặt lịng ngón hướng về phía bụng) bảo BN ho,
rặn: TVB trực tiếp cho cảm giác chạm ở lòng ngón, cịn TVB gián tiếp sẽ chạm ở
đầu ngón.
+ Nghiệm pháp chặn lỗ bẹn sâu: dùng ngón cái chặn ở vị trí ước lượng của lỗ bẹn
sâu (trên trung điểm của nếp bẹn khoảng 1,5 – 2 cm) sau đó bảo BN ho, rặn. TVB gián

tiếp có thể khơng xuất hiện lại, còn TVB trực tiếp vẫn xuất hiện lại như trước.
Tuy nhiên, nghiên cứu của O’Rourke A. và cs cho thấy nếu chỉ dựa trên khám
lâm sàng, chỉ 49% bệnh nhân có biểu hiện thốt vị bẹn hai bên. Trong khi đó, kiểm
tra bằng nội soi (tại thời điểm phẫu thuật), 71% BN được phát hiện thoát vị bẹn hai
bên. Sự khác biệt giữa hai phương pháp chẩn đoán là 22% (P < 0.001), đại diện cho
tỷ lệ bệnh nhân bị thoát vị hai bên (được xác định bằng nội soi) mà không được phát
hiện chỉ bằng khám lâm sàng [27]. Như vậy việc thăm khám lâm sàng ở các BN
TVB cần phải tỉ mỉ, tránh bỏ sót tổn thương dẫn đến sai chiến thuật điều trị
Cận lâm sàng
- Siêu âm: Khối TV nằm trong ống bẹn, trường hợp TVB có thể xác định
được các thành phần trong túi thoát vị như ruột, mạc nối,…
- Chụp CLVT ổ bụng: Cho thấy hình ảnh TV rõ hơn, ngồi ra phương pháp
này cịn giúp chẩn đốn trong những trường hợp vùng bẹn có các tổn thương khác.


16

1.2.4. Phân loại TVB
Có nhiều cách phân loại TVB:
- Theo nguyên nhân: TVB bẩm sinh/ TVB mắc phải
- Theo bên thoát vị: Bên phải/ bên trái/ hai bên
- Theo vị trí giải phẫu [28], [29]
+ TVB trực tiếp: Thốt vị hình thành từ thành sau của ống bẹn, tạng chui qua
vùng ở giữa lỗ bẹn sâu và bó mạch thượng vị dưới (tam giác Hesselbach).
+ TVB gián tiếp: Thoái vị chui vào lỗ bẹn sâu, đi cùng thừng tinh qua lỗ bẹn
nơng xuống bìu.
+ TVB hỗn hợp: Thốt vị chiếm hết cả hai hố bẹn.
- Theo Nyhus [30], [31]:
+ Loại I: TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu bình thường, sàn bẹn bình thường.
+ Loại II: TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu rộng và biến dạng, sàn bẹn bình thường.

+ Loại III chia làm 3 loại:
IIIA: Mọi TVB trực tiếp.
IIIB: TVB gián tiếp, lỗ bẹn sâu giãn rộng và biến dạng, sàn bẹn bị phá
hủy hoặc TV hỗn hợp.
IIIC: Thoát vị đùi.
+ Loại IV: Mọi TVB tái phát.
Phân loại TVB hai bên được điều trị bằng PTNS TEP, nghiên cứu của Masato
Ota (2021) ghi nhận 52,8% lỗ TV gián tiếp, 32,8% TV trực tiếp, 14% TV hỗn hợp
và 8,8% TVB tái phát sau PT TAPP lần trước [32]
1.3. Phẫu thuật điều trị TVB hai bên
1.3.1. Lịch sử
Một trong những báo cáo đầu tiên về điều trị thoát vị hai bên được thực hiện
bởi Cheatle năm 1962, ông đã thực hiện phẫu thuật thông qua một đường rạch theo
đường trắng dưới rốn mà không vào khoang phúc mạc, vén cân cơ thành bụng sang
để bộc lộ vùng bẹn hai bên [22]. Sau đó, ơng mơ tả kỹ thuật với đường mổ ngang
Pfannenstiel, để kiểm tra cả hai bên ngay cả ở những bệnh nhân được chẩn đoán


17

thoát vị một bên và để xử lý cả hai bên nếu phát hiện thoát vị bên đối diện trong mổ
[22]. Tuy nhiên, rất ít phẫu thuật viên áp dụng kỹ thuật này vì họ coi nó là q phức
tạp tại thời điểm đó [22].
Đến năm 1965, nhóm tác giả Rives ở Reims và Stoppa ở Amiens nhận thức
được tầm quan trọng của việc tăng cường thành sau của vùng bẹn, vì họ cho rằng sự
suy yếu của thành sau ống bẹn là nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển của thốt
vị. Do đó, họ bắt đầu sử dụng một vật liệu nhân tạo Dacron đặt giữa mạc ngang và
phúc mạc, sử dụng cả hai phương pháp tiếp cận trước phúc mạc và vùng trước lỗ
bẹn. Lưới được đặt sao cho nó vượt quá lỗ bẹn sâu theo mọi hướng để phân phối áp
lực và ngăn ngừa tái phát [22]. Trong bài báo của mình, tác giả này đặc biệt đề cập

đến những bệnh nhân có nhiều dị tật thoát vị và sự thuận tiện để đánh giá tất cả các
vị trí có thể thốt vị thơng qua phương pháp tiếp cận của họ. Cần lưu ý rằng họ đặc
biệt quan tâm đến khả năng thoát vị hai bên [22].
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu lập luận rằng việc phẫu thuật TVB hai bên
nên được thực hiện theo trình tự từng bên. Lý giải cho điều này các tác giả cho rằng
sức căng đáng kể của cân cơ khi phục hồi thành bụng bằng mô tự thân trong phẫu
thuật thoát vị hai bên đồng thời là yếu tố chính dẫn tới sự tái phát cao khi phẫu thuật
2 bên cùng lúc, do vậy họ muốn trì hỗn việc xử lý túi thoát vị thứ hai [22], [33].
Thời gian giữa hai lần phẫu thuật có thể thay đổi từ vài ngày đến vài tháng, tùy
thuộc vào các yếu tố như cân nặng, tuổi, kích thước của khối thốt vị thứ hai và các
yếu tố khác [34].
Đến năm 1984, Lichtenstein lần đầu tiên được thực hiện kỹ thuật phục hồi
thành bụng bằng lưới nhân tạo [35]. Kể từ đó, kỹ thuật này được áp dụng rộng rãi
trong phẫu thuật điều trị TVB hai bên do khi sử dụng lưới nhân tạo không tạo ra lực
căng tại đường khâu như sử dụng mơ tự thân, qua đó giảm tỷ lệ tái phát [35].
Năm 1987 đánh dấu kỷ nguyên ra đời của phẫu thuật nội soi (PTNS), đặt nền
móng cho phẫu thuật ít xâm lấn. Kể từ đó, cùng với sự phát triển của các loại lưới
nhân tạo, nhiều kỹ thuật phẫu thuật nội soi điều trị TVB cũng dần được áp dụng với
kết quả khả quan kể cả với các trường hợp TVB hai bên hoặc tái phát [36]. Hai


18

phương pháp tiếp cận nội soi để đặt lưới được ứng dụng rộng rãi cho đến ngày nay là
qua xuyên thành bụng ngoài phúc mạc (Trans-abdominal preperitoneal - TAPP) và
hoàn toàn ngoài phúc mạc (Total extraperitoneal - TEP). Bên cạnh tính thẩm mỹ, một
ưu điểm nổi bật trong cách tiếp cận nội soi là có thể phát hiện và xử lý đồng thời túi
thoát vị bên đối diện (bao gồm những trường hợp khám lâm sàng trước mổ không
phát hiện được) [22]. Tác giả Sayad P. [37] và Koehler R.H. [38] báo cáo về tỷ lệ
phát hiện và xử lý thêm lỗ bên đối diện trong PTNS TVB lần lượt là 11% và 13%.

Từ đó đến nay, nhiều nghiên cứu cho rằng phẫu thuật nội soi (TEP hoặc TAPP)
đặt lưới nhân tạo là phương pháp lý tưởng để điều trị TVB hai bên. Các ưu điểm được
nhấn mạnh bao gồm việc xử lý túi thoát vị 2 bên trong cùng 1 phẫu thuật với một thời
gian gây mê duy nhất, tránh nguy cơ khối thoát vị để lâu dẫn tới biến chứng nghẹt và
tắc ruột có thể xảy ra khi phẫu thuật từng bên một [14], [22], [33], [39]
1.3.2. Các phương pháp phẫu thuật
1.3.1.1.

Phục hồi thành bụng bằng mô tự thân

- Chỉ định [40]
+ Tất cả các loại TVB một bên hoặc hai bên, ở mọi lứa tuổi
+ Nyhus I/ II/ III/ IV. TVB nghẹt, PTNS thất bại
- Chống chỉ định [40]
+ BN có khiếm khuyết cơ hoặc cân cơ thành bụng vùng bẹn bên thoát vị do
chấn thương hoặc bẩm sinh (chống chỉ định tương đối)
+ BN có rối loạn đông máu, phân độ ASA > IV.
+ BN đang bị nhiễm khuẩn tại chỗ hoặc toàn thân
- Các phương pháp phẫu thuật
Phương pháp Bassini [29]:
+ Được Edoardo Bassini thực hiện lần đầu vào năm 1884
+ Nguyên tắc: Khâu phục hồi lỗ bẹn sâu (cơ chéo trong, cơ ngang bụng, lá
trên của mạc ngang được khâu đồng thời vào lá dưới của mạc ngang và dây chằng
bẹn bằng chỉ không tiêu, các mối chỉ khâu rời), chuyển vị thừng tinh (khi đóng lại
thừng tinh đường khâu bắt đầu từ củ mu đi lên đến quá vị trí ĐM thượng vị dưới


19

thì phải chừa chỗ cho thừng tinh đi ra), đóng lại ống bẹn (thành bẹn phía trước

được đóng bằng cách khâu hai mép trên và dưới của cân cơ chéo lớn lại với
nhau). Từ đó phương pháp Bassini được áp dụng rộng rãi. Đến nay phương pháp
này vẫn là một lựa chọn đối với các trường hợp mổ mở điều trị TVB.
Phương pháp McVay – Lotheissen [29]
Năm 1898, Lotheissen lần đầu tiên dùng kỹ thuật khâu dây chằng Cooper với
gân kết hợp để điều trị một trường hợp TV đùi tái phát.
Năm 1942, McVay dựa trên khảo sát về giải phẫu vùng bẹn đã kết luận rằng:
cân cơ ngang bụng phải được khâu vào dây chằng Cooper, vốn là vị trí bám bình
thường của mạc ngang, chứ khơng phải khâu vào dây chằng bẹn. Các bước tiến
hành PT còn lại cũng giống như phương pháp Bassini. Sau khi tái tạo thành sau ống
bẹn, thừng tinh được đặt nằm giữa cân cơ chéo bụng ngoài và gân kết hợp
Phương pháp Shouldice [29]
Năm 1945, Shouldice mô tả kỹ thuật phục hồi sàn bẹn bốn lớp bằng các mũi
khâu liên tục: lớp trong cùng khâu dải chậu mu với mặt sau của bao cơ thẳng bụng
và mặt dưới của mạc ngang; lớp thứ hai, khâu dây chằng bẹn với bờ dưới của cân
cơ ngang bụng; lớp thứ ba và tư: khâu cân cơ ngang bụng với mặt trong của cân cơ
chéo ngoài, song song và ngay trên dây chằng bẹn
- Ưu, nhược điểm của phương pháp sử dụng mô tự thân
+ Ưu điểm: Chỉ định rộng rãi, dễ thực hiện, khơng có các biến chứng do lưới
nhân tạo gây ra (nhiễm khuẩn, đào thải lưới, …), chi phí thấp.
+ Nhược điểm: Hai cân từ vị trí xa nhau được khâu vào nhau, gây căng
đường khâu làm BN đau nhiều, hậu phẫu kéo dài, và chậm phục hồi sinh hoạt cá
nhân sau mổ. Hơn nữa, các lớp khâu tạo hình bị căng, dẫn đến thiếu máu nuôi
dưỡng, sẹo lành không tốt, nguy cơ tái phát cao (Shouldice 6,1%, Bassini 8,6%,
McVay 11,2%). Các kỹ thuật này thường gặp khó khăn trong trường hợp TVB hai
bên có cấu trúc tại chỗ bị suy yếu, khiếm khuyết và mơ bị lão hóa biến đổi [41]
1.3.1.2.

Phục hồi thành bụng bằng vật liệu nhân tạo


a. Mổ mở đặt lưới nhân tạo theo Lichtenstein [40]


20

- Năm 1984, Lichtenstein lần đầu tiên được thực hiện kỹ thuật phục hồi
thành bụng bằng lưới nhân tạo. Theo quan điểm của tác giả, các phương pháp dùng
mô tự thân do phải kéo hai mô, cân từ hai vị trí vốn xa nhau lại gần để khâu vào với
nhau nên tất yếu dẫn đến việc gây căng đường khâu, đặc biệt đối với thoát vị bẹn
hai bên. Sự căng giãn đường khâu tạo hình sẽ gây nên tình trạng: BN đau nhiều sau
mổ, chậm hồi phục sinh hoạt cá nhân sau mổ, nằm viện lâu, chậm trở lại lao động
bình thường, thiếu máu ni ở lớp khâu tạo hình khiến sẹo lành khơng tốt có thể
dẫn đến thốt vị tái phát.
- Chỉ định [35]
+ Tất cả các loại TVB một bên hoặc hai bên, ở mọi lứa tuổi
+ Nyhus I/ II/ III/ IV. TVB nghẹt, PTNS thất bại
- Chống chỉ định [35]
+ Bệnh nhân có dị ứng với vật liệu nhân tạo (lưới nhân tạo)
+ Bệnh nhân có rối loạn đông máu, phân độ ASA > IV.
+ Bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn tại chỗ hoặc toàn thân
- Nguyên tắc phẫu thuật: thành sau ống bẹn được che phủ bằng tấm lưới nhân
tạo polypropylene đặt dọc theo chiều ống bẹn từ ngoài vào trong. Khâu lưới vào
những cân chắc xung quanh. Khâu góc dưới trong của lưới vào củ mu, khâu dây
chằng bẹn với bờ dưới của lưới, khâu gân cơ kết hợp và bao cơ thẳng bụng hoặc cân
cơ chéo bụng trong với bờ trên của lưới bằng chỉ prolene 2/0. Đầu ngoài của tấm
lưới được xẻ dọc thành hai vạt tạo nên một rãnh để thừng tinh đi qua và khâu lại 2 –
3 mũi để ôm sát thừng tinh tại lỗ bẹn sâu [40]
b. PTNS đặt lưới nhân tạo: PTNS điều trị TVB nói chung, trong đó có TVB hai
bên bắt đầu từ việc sử dụng stapler đóng kín lỗ bẹn sâu, cho đến phương pháp dùng
nút chặn, rồi đặt lưới nhân tạo trong ổ bụng (Intraperitoneal onlay mesh – IPOM) và

hiện nay còn hai phương pháp đang được ứng dụng phổ biến là [42], [43]:
- PTNS xuyên thành bụng ngoài phúc mạc (TAPP)
Chỉ định [44]


21

+ TVB ở người lớn, một bên hoặc hai bên
+ Nyhus I/ II/ III/ IV. Thoát vị trực tiếp, gián tiếp hay hỗn hợp
+ TVB tái phát. Phẫu thuật nội soi TEP thất bại
Chống chỉ định [44]
+ TVB nghẹt có hoại tử ruột, mạc nối
+ Bệnh nhân khơng có khả năng chịu được gây mê tồn thân hoặc bơm khí
CO2 vào khoang phúc mạc.
+ Bệnh nhân có rối loạn đơng máu, phân độ ASA > III.
+ Bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn tại chỗ hoặc tồn thân
+ Bệnh nhân có nguy cơ dị ứng, nhiễm khuẩn lưới nhân tạo
Các bước kỹ thuật [45], [36]:
+ Đặt trocar: trocar 10 mm đặt tại rốn xuyên vào ổ bụng, 2 trocar 5 mm đặt
2 bên bờ ngoài cơ thẳng bụng, cách đường ngang rốn từ 4 – 5 cm về phía xương mu.
Optic nội soi: sử dụng loại kính 00 hoặc nghiêng 300.
+ Bộc lộ phúc mạc xung quanh túi thoát vị bằng móc điện hoặc kéo
+ Bộc lộ thừng tinh và túi TV: Bóc tách túi TV ra khỏi ống dẫn tinh và tĩnh
mạch thừng tinh, kéo túi TV vào trong ổ bụng (đối với TV trực tiếp) hoặc thắt - cắt
túi TV (đối với TV gián tiếp hay hỗn hợp).
+ Đặt và cố định lưới: Lưới nhân tạo được đưa qua trocar 10 mm vào
khoang PM, được trải phẳng, che phủ toàn bộ sàn bẹn và cố định vào các vị trí: dây
chằng Cooper, dải chậu mu, cơ thẳng bụng bằng protack, khâu cố định hoặc sử
dụng keo fibrin.
+ Đóng phúc mạc: Bằng chỉ khơng tiêu 3/0 hoặc protack.

+ Đóng lại vết mổ chân trocar.
Ưu, nhược điểm
+ Ưu điểm: trường mổ rộng, nhận định mốc giải phẫu rõ ràng, chỉ định mổ
rộng rãi ngay cả thốt vị nghẹt, TVB bìu lớn.
+ Nhược điểm: nguy cơ dính sau mổ, tổn thương tạng và TV qua lỗ trocar.
- PTNS hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP)


22

Chỉ định [46]
+ TVB ở người lớn, một bên hoặc hai bên
+ Nyhus I/ II/ III/ IV. Thoát vị trực tiếp, gián tiếp hay hỗn hợp. TVB tái phát
Chống chỉ định [46]
+ TVB nghẹt có hoại tử ruột, mạc nối
+ Bệnh nhân khơng có khả năng chịu được gây mê tồn thân hoặc bơm khí
CO2 vào khoang ngồi phúc mạc
+ Bệnh nhân có rối loạn đơng máu, phân độ ASA > III.
+ Bệnh nhân đang bị nhiễm khuẩn tại chỗ hoặc tồn thân
+ Bệnh nhân có nguy cơ dị ứng, nhiễm khuẩn lưới nhân tạo
Các bước kỹ thuật [45], [36]:
+ Tạo khoang trống trước phúc mạc: Rạch da theo chiều ngang, từ bên cạnh
đường trắng giữa dưới rốn 1 cm lệch về bên TV, chiều dài vết mổ khoảng 1,5 cm.
Đặt trocar 10 mm vào khoảng trống giữa cơ và lá sau cân cơ thẳng bụng bằng tay,
bóc tách bằng khí hoặc sử dụng bóng chun dụng.
Đặt chế độ bơm CO2 với áp lực từ 10 - 12 mmHg và tốc độ bơm khoảng 3
lít/phút để khí bóc tách khoang ngoài PM một cách từ từ, đưa optic nội soi qua
trocar để quan sát phẫu trường. Đặt 2 trocar 5 mm tại vùng hạ vị và hố chậu cùng
bên thoát vị.
+ Nhận định và xử lý túi thoát vị:

+ Đặt lưới nhân tạo chất liệu polypropylene được cuộn lại đưa qua trocar 10
mm vào trong ổ bụng, che phủ toàn bộ lỗ cơ lược chồng lên thừng tinh. Lưới được cố
định bằng protack vào dây chằng lược, cơ ngang bụng, dải chậu mu.
+ Đóng vết mổ: Rút các trocar và đóng vết mổ bằng chỉ nylon 3-0.
Ưu, nhược điểm
+ Ưu điểm: không đi vào ổ bụng nên tránh được các nguy cơ như: dính ruột,
tổn thương tạng và thốt vị qua lỗ trocar.
+ Nhược điểm: trường mổ nhỏ hẹp, khó thao tác. Một số trường hợp phải
chuyển đổi sang phương pháp TAPP hoặc mổ mở do thủng phúc mạc làm khí CO 2


23

tràn vào ổ bụng quá nhiều, gây xẹp trường mổ. Đường cong huấn luyện của phương
pháp TEP tương đối dài [36].
1.3.3. Các vật liệu nhân tạo ứng dụng trong phẫu thuật TVB
Lịch sử phát triển
Năm 1890, Theodor Billroth gợi ý rằng cách lý tưởng để sửa chữa thoát vị
bẹn là sử dụng vật liệu nhân tạo để đóng lỗ thốt vị. Trong thời gian đó, một số vật
liệu nhân tạo đan bằng nhiều sợi vải cotton và lụa đã được sử dụng, nhưng tất cả
đều thất bại do nhiễm khuẩn, thải loại mảnh ghép và tái phát (trích dẫn theo [47]).
Các phẫu thuật viên cảm thấy chán nản do gần như các loại chỉ khâu bằng vải
cotton và lụa đều bị thải loại sau mổ, dẫn đến tình trạng nhiễm trùng tái đi tái lại.
Đến năm 1955, Tiến sĩ Francis Usher tập trung sự chú ý của mình vào các
vật liệu có thể giải quyết các vấn đề hiện có. Các loại vật chỉ nhân tạo Nylon, Orlon,
Dacron và Teflon đã được nghiên cứu và quan sát thấy có nhiều khuyết điểm như:
phản ứng dị vật, nhiễm khuẩn, độ cứng, phân mảnh, giảm độ bền khi co kéo [48],
[49]. Tất cả những điều này đã ngăn cản việc chấp nhận các vật liệu cao phân tử.
Sau khi đọc một bài báo về vật liệu polyolefin mới (Marlex), cho thấy những đặc
tính đáng chú ý, Usher bắt đầu phát triển lưới nhân tạo Marlex [48], [49]. Chúng

được tạo ra với các mắt lưới lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp với mô
xung quanh và giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn. Sự phát triển của mô qua các mắt lưới của
nó là điểm khác biệt chính khi so sánh với các vật liệu trước đây. Sau một vài ngày
phẫu thuật đặt lưới, hoạt động của nguyên bào sợi được nhận thấy là tăng lên, nhiều
collagen được tạo ra mà không có tế bào khổng lồ, và tồn bộ thành bụng vùng bẹn
đã trở nên chắc chắn hơn [50]. Mặc dù có nhiều ưu điểm của lưới polyethylene dệt,
Usher vẫn tiếp tục tìm kiếm các vật liệu tốt hơn. Ơng sớm nhận ra rằng
polypropylene dệt kim có nhiều ưu điểm hơn: nó có thể được hấp vơ trùng, có
đường viền chắc chắn cùng với khả năng kéo giãn hai chiều và có thể được kết hợp
nhanh chóng. Cuối cùng, vào năm 1958, Usher cơng bố kỹ thuật phẫu thuật của
mình bằng cách sử dụng lưới polypropylene, và 30 năm sau, kỹ thuật Lichtenstein
(ngày nay được gọi là kỹ thuật đặt lưới "không căng - tension-free") đã được phổ


24

biến để sửa chữa thoát vị bẹn [50]. Các tác giả cho rằng lưới nhân tạo lý tưởng phải
có thể được giữ tại chỗ bằng chỉ khâu ngoại vi, chống sự co kéo do tăng áp lực ổ
bụng (ho hoặc vận động mạnh) mà khơng bị trượt khỏi vị trí đặt, đặc biệt là trong
giai đoạn đầu sau phẫu thuật, và phải thúc đẩy phản ứng liên kết với mô xung quanh
với phản ứng viêm tối thiểu [47].
Năm 1998, Pajotin P. cho rằng một tấm lưới phẳng có thể khơng phải là cấu
hình lý tưởng để điều trị TVB nội soi [51]. Để hạn chế một cách tối đa nhất tình
trạng di chuyển của tấm lưới nhân tạo phẳng, một tấm lưới nhân tạo 3D với hình
dáng uốn cong đồng nhất theo cấu trúc giải phẫu của vùng bẹn ra đời.
Năm 1999, tác giả W. Bell (Mỹ) [10] là một trong những người đầu tiên sử
dụng lưới nhân tạo 3D (3D Max, Davol) trong điều trị bệnh lý TVB bằng PTNS, kết
quả nghiên cứu trên 186 BN cho thấy với việc không sử dụng dụng cụ cố định tấm
lưới nhân tạo đã làm giảm tỷ lệ đau sau mổ xuống mức thấp nhất, BN có thời gian
hồi phục sau mổ sớm và khơng có trường hợp nào tái phát được ghi nhận. Một số

nghiên cứu tiếp theo của các tác giả Alberto Meyer, Iqbal Saleem với việc sử dụng
tấm lưới nhân tạo 3D trong điều trị bệnh lý TVB bằng PTNS cho thấy tính an tồn,
hiệu quả cũng như tỷ lệ đau sau mổ thấp và tỉ lệ tái phát thấp [52], [53]
1.4. Ứng dụng PTNS hoàn toàn ngoài phúc mạc (TEP) đặt tấm lưới nhân tạo
3D điều trị TVB hai bên
1.4.1. Vai trò của lưới nhân tạo 3D
Sự ra đời và phát triển của các loại vật liệu lưới nhân tạo sinh học đã trở
thành một thành phần không thể thiếu góp phần nâng cao hiệu quả của phẫu thuật
điều trị thoát vị bẹn, giúp giảm tỷ lệ tái phát [54]. Việc lựa chọn loại lưới nhân tạo
thường phụ thuộc vào sở thích của phẫu thuật viên và yếu tố chi phí. Tuy nhiên các
tác giả cho rằng việc lựa chọn vật liệu nhân tạo để phục hồi thành bụng và kỹ thuật
phù hợp là những yếu tố đóng vai trò quan trọng quyết định kết quả phẫu thuật [48]
Ngoài ra, các tác giả cho rằng lưới polypropylene phẳng có thể bị co lại,
cuộn lại tùy mức độ và hình thành sẹo xơ cứng trong quá trình theo dõi lâu dài, có
thể dẫn đến tái phát [55]. Trong một đánh giá có hệ thống về những bệnh nhân đã


×