Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận cao học bình đẳng giới thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.73 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
1. Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý.....2
1.1. Một số khái niệm cơ bản...................................................................................2
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý......................2
2. Thực trạng phụ nữ tham gia chính trị tại Việt Nam................................................4
3. Một số định hướng giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia chính trị của phụ nữ....8
KẾT LUẬN.........................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................11


1
MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng của mình, các nhà
sáng lập Chủ nghĩa Mác - Lênin đã coi mục tiêu cao nhất của chế độ xã hội mới là
tạo nên những con người mới phát triển, những con người có khả năng sử dụng
một cách tồn diện năng lực để đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Để có
những con người mới ấy vấn đề đặt ra là phải giải phóng giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động thốt khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, mang lại
cuộc sống hạnh phúc tự do cho những người lao động, đặc biệt là cho phụ nữ những người bị áp bức nặng nề nhất trong xã hội. Lênin còn khẳng định: phải
tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia hoạt động chính trị - xã hội. Những quan
điểm có tính chất đột phá của Chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ, tạo
cơ hội cho họ tham gia hoạt động chính - xã hội đã tạo nên những bước tiến
vượt bậc trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở nhiều quốc gia.
Tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng, thấu hiểu nỗi khổ của phụ nữ,
nhìn rõ tiềm năng của phụ nữ nên đã động viên họ tham gia sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích họ tham
gia hoạt động chính trị - xã hội. Nhờ vậy, vai trò của phụ nữ được phát huy. Sự
đóng góp của phụ nữ vào tiến trình cách mạng Việt Nam đã được Đảng và Nhà


nước thừa nhận, đánh giá rất cao.
Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang ngày
càng tạo thời cơ cho phụ nữ phát huy vai trò của mình trong hoạt động chính trị
- xã hội, đồng thời cũng đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa vai trị của họ để phụ nữ
phấn đấu vươn lên. Góp phần nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển đất nước, sự
nghiệp giải phóng phụ nữ.
Tuy nhiên trong thực tế, vai trị của phụ nữ nói chung vẫn cịn nhiều hạn
chế. Cơ hội cho phụ nữ tham gia tích cực vào hoạt động chính trị cịn gặp nhiều
khó khăn. Vấn đề đặt ra là phải làm gì để giúp cho phụ nữ có nhiều điều kiện
tham gia hoạt động chính trị nó và hoạt động chính trị một cách có hiệu quả. Đó
là vấn đề được nhiều người quan tâm. Vì vậy, em đã chọn vấn đề “Thực trạng
phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” làm bài thu hoạch
môn Giới trong lãnh đạo, quản lý.


2
NỘI DUNG
1. Khái niệm và các yếu tố ảnh hưởng đến việc phụ
nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
1.1. Một s khỏi nim c bn
Bình đẳng giới đợc hiểu là bằng nhau, ngang nhau và nh
nhau trên các lĩnh vực cơ bản nh: (1) Quyền con ngời; (2) Quyền
công dân; (3)Tiêu chuẩn công chức; (4) Cơ hội; (5) Sân chơi
bình đẳng giữa các đối tác (nam và nữ)
Bất bình đẳng giới chính là sự phân biệt, đối xử theo
địa vị, quyền lực và uy tín giữa nam và nữ trong các nhóm,
tập thể và xà hội. Sự phân biệt, đối xử với phụ nữ trong xà hội,
bất BĐG trong đào tạo, sử dụng cán bộ.
Qun lý c hiu l s điều hành, lập kế hoạch, tổ chức, nhằm đạt được
mục tiêu của tổ chức một cách có hiệu quả.

Lãnh đạo là sự định hướng, dẫn dắt đường lối; là thúc đẩy, khích lệ và
thuyết phục người khác theo đường lối, mục tiêu nhất định
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản

Trên thực tế, việc đảm bảo cũng như nâng cao hiệu quả phụ nữ tham gia
hoạt động chính trị có rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng tới sự hoạt động của phụ nữ.
Mơi trường chính trị: Đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu.
Bởi nếu mơi trường chính trị thuận lợi thì nó sẽ là một trong các yếu tố tích cực
thúc đẩy việc thực hiện bình đẳng giới nói chung và sự tham gia lãnh đạo, quản
lý của phụ nữ nói riêng. Cịn nếu mơi trường chính trị thiếu thuận lợi thì phụ nữ
khơng thể có điều kiện để tham gia.
Để tạo ra mơi trường chính trị thuận lợi đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần
thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới trong đó có bình đẳng trên lĩnh vực chính trị,
ban hành các chính sách tiến bộ, lập ra và chỉ đạo bộ máy hành động vì sự tiến
bộ của phụ nữ, giúp phụ nữ hoạt động có hiệu quả.
Nhận thức của xã hội về bình đẳng giới: Nhận thức của xã hội về bình
đẳng giới được nâng lên cũng là một yếu tố quan trọng để thực hiện bình đẳng
giới. Thực tế, trong xã hội phong kiến do bị đánh giá thấp nên xã hội phủ nhận


3
vai trò của người phụ nữ trong việc tham gia chính trị nói chung, tham gia lãnh
đạo, quản lý nói riêng. Thậm chí ngay cả bản thân người phụ nữ cũng không
dám vươn lên vượt ra khỏi khuôn khổ của chế độ. Do vậy, chỉ khi xã hội và
cộng đồng nhận thức được vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội, tạo
điều kiện cho cho họ tham gia vào hoạt động xã hội cũng như hoạt động chính
trị thì mới giúp chị em khẳng định được vị trí của mình từ đó đóng góp tài năng,
trí tuệ của mình vào sự phát triển của đất nước. Ngược lại, những định kiến về
giới sẽ là một cản trở lớn trong thực hiện bình đẳng giới nói chung và bình đẳng
trong tham gia chính trị của phụ nữ nói riêng.

Mơi trường kinh tế - xã hội: Lênin từng nói: chính trị “là sự biểu hiện tập
trung nhất của kinh tế”. Cho nên, nếu môi trường kinh tế - xã hội được cải thiện
sẽ có tác động tích cực đến sự tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ. Nhưng để
đạt được điều đó thì một mặt cần có những chính sách đẩy mạnh phát triển kinh
tế - xã hội, chiến lược xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe ,…,cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần cho người dân. Bên cạnh đó cần có những chính sách
hỗ trợ đặc biệt về chăm sóc y tế, chăm sóc trẻ nhỏ…để phụ nữ có điều kiện tham
gia cơng tác xã hội nhiều hơn.
Vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ: Với vai trò tư vấn, giám sát việc thực
hiện chính sách pháp luật, Hội liên hiệp phụ nữ và Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ
của phụ nữ đóng vai trị trực tiếp và quan trọng đảm bảo cho phụ nữ tham gia
vào các hoạt động chính trị. Bởi vì đây là nơi trực tiếp đề ra các chiến lược và kế
hoạch cụ thể trong tham mưu xây dựng, quy hoạch cán bộ nữ.
Bên cạnh những yếu tố trên thì một yếu tố khơng kém phần quan trọng,
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tham chính của phụ nữ đó là: yếu tố gánh nặng
gia đình. Vấn đề là ở chỗ nếu người phụ nữ nhận được sự chia sẻ công việc nhà
từ các thành viên trong gia đình, xóa bỏ quan niệm coi việc nhà là trách nhiệm
của người phụ nữ, là công việc không công thì người phụ nữ sẽ có nhiều cơ hội,
điều kiện để nâng cao năng lực, trình độ để tham gia. Nếu khơng thì họ sẽ chịu
mãi cảnh “nơ lệ” trong gia đình, dẫn đến tính an phận của người phụ nữ.
Nói tóm lại, phụ nữ là một nửa của xã hội lồi người. Muốn phát huy tài
năng, trí tuệ và phẩm chất tốt đẹp của họ cho sự phát triển vững mạnh của nền
chính trị thì người phụ nữ cần được giải phóng về mọi mặt. Nói như Phu-ri-ê:


4
“Trình độ giải phóng phụ nữ là thước đo tự nhiên của sự giải phóng xã hội”. Để
đạt được điều đó mỗi quốc gia cần phải tạo ra được mơi trường chính trị thuận
lợi; Phải nâng cao nhận thức của xã hội về BĐG, tích cực cải thiện đời sống
kinh tế - xã hội; tạo điều kiện để người phụ nữ giảm bớt gánh nặng từ gia đình.

Chỉ có như vậy mới tạo nên những cơ hội để người phụ nữ nâng cao vai trị
trong gia đình cũng như ngồi xã hội.
2. Thực trạng phụ nữ tham gia chính trị tại Việt Nam
Năm 2010, tỷ lệ đảng viên nữ đạt 32,8%, tăng đáng kể so với năm 2005
khi số nữ đảng viên chỉ chiếm 20,9%. Mặc dù vậy tỷ lệ đảng viên nữ vẫn thấp
hơn nhiều so với đảng viên nam và sẽ dẫn tới tác động là sẽ có ít phụ nữ được đề
bạt, tiến cử vào những chức vụ lãnh đạo quan trọng1.
Cùng với số lượng nữ đảng viên, số lượng phụ nữ tham gia cấp thể hiện
rõ nét thực trạng sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị.
Sự xuất hiện của nữ giới trong Ban Bí thư có gia tăng từ năm 2001, nhưng
xu hướng là giữ nguyên. Đến nhiệm kỳ gần đây phụ nữ mới bắt đầu có mặt
trong Bộ Chính trị (1 nữ ủy viên được bổ nhiệm năm 2011), nhưng cũng hết sức
khiêm tốn là 7%. Sự có mặt của phụ nữ trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khơng có sự gia tăng qua các nhiệm kỳ.
Bảng: Sự tham gia và đại diện của phụ nữ trong Đảng
2001-2005

2006-2011

2011-2016

Số

Tổng

%

Số

Tổng


%

Số

Tổng

%

nữ

số

nữ

nữ

số

nữ

nữ

số

nữ

Tổng bí thư

0


1

0

0

1

0

0

1

0

Ban bí thư

1

9

11

2

10

20


2

10

20

Bộ chính trị

0

15

0

0

15

0

1

14

7

13

150


8.6

13

181

8.13

18

200

9

Ban chấp hành
trung ương

Nguồn: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 2007, Vụ Tổ chức, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam

Số liệu ở Bảng trên cho thấy một thực trạng là ở cấp ủy càng cao, tỷ lệ
phụ nữ giữ trọng trách càng thấp. Tỷ lệ nữ đại diện trong Ban Chấp hành Trung
ương và tỉnh không tăng trong vòng 3 nhiệm kỳ gần đây, ở cấp huyện và xã có


5
tăng nhưng rất ít. Tỷ lệ giữ các vị trí như bí thư, phó bí thư, ủy viên thường vụ
chỉ chiếm khoảng 10% ở mọi cấp. Bên cạnh đó, dù tham gia vào cấp ủy, nhưng
phần lớn các nữ ủy viên chỉ phụ trách các cơng việc hành chính, ít liên quan đến

nhiệm vụ chiến lược.
Tỷ lệ phụ nữ tham gia quốc hội cũng là một tiêu chí về sự tham gia của
phụ nữ vào hệ thống chính trị. Tính đến năm 2009, chỉ có 23 quốc gia trên thế
giới đạt được tỷ lệ phụ nữ tham gia quốc hội chiếm 30% trở lên. Biểu dưới đây
thể hiện tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam qua từng giai đoạn.
Bảng: Phụ nữ Việt Nam trong Quốc hội

Nguồn: Website Hội LHPN Việt Nam
Tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội của Việt Nam tăng theo từng khóa, từ khóa I
chỉ có 3%, đến khóa XIII đã có 24,4%, thuộc nhóm cao của thế giới (xếp thứ
9/135)  và cao nhất châu Á.
Một trong những lý do khiến tỷ lệ đại diện nữ trong quốc hội các nước thấp
là số lượng các nữ ứng viên được lựa chọn hoặc đề cử trong bầu cử thấp. Theo số
liệu của Liên minh Quốc hội, năm 2011, trong số 260 ứng viên nữ, chỉ 122 người
trúng cử (47%), trong khi đó tỷ lệ trúng cử của các ứng viên nam là 67%1.
Đáng chú ý,  trong nhiệm kỳ 2011-2016 có hai trong bốn Phó Chủ tịch
Quốc hội là nữ. Tuy vậy, trong Ủy ban thường vụ, chỉ có 2 trong số 12 thành


6
viên là nữ. Trong số 9 ủy ban của Quốc hội, chỉ có 1 ủy ban có chủ tịch là nữ,
tuy nhiên, số lượng phó chủ tịch có tăng nhẹ so với các nhiệm kỳ trước.
Vai trị và vị trí của các nữ đại biểu trong Quốc hội chủ yếu tập trung vào
một số lĩnh vực như các vấn đề xã hội (42%), văn hóa, giáo dục, thiếu niên nhi
đồng (35%) và khá mờ nhạt ở những lĩnh vực khác như ngoại giao (16%), kinh
tế (15%), tư pháp (10%), quốc phòng, an ninh (5%).
Tỷ lệ đại biểu Quốc hội là một con số minh chứng cho vị trí của người phụ
nữ trong Quốc hội nhưng nó chưa thể hiện được hết vai trò của họ trong hệ thống
cơ quan này. Bởi bên cạnh các thành viên chủ chốt của Quốc hội là các chủ tịch,
phó chủ tịch thì Quốc hội Việt Nam còn được phân chia thành các hội đồng và ủy

ban khác nhau để xem xét các đạo luật, sáng kiến pháp lý, văn bản luật và các báo
cáo của Quốc hội trên từng lĩnh vực. Là thành viên của một ủy ban hay hội đồng,
các đại biểu sẽ có cơ hội tác động tới các quyết định trong từng lĩnh vực cụ thể.
Hơn nữa, trong số thành viên của các ủy ban và hội đồng, những thành viên
chuyên trách cũng có nhiều cơ hội tác động tới quá trình ra quyết sách hơn so với
các thành viên kiêm nhiệm. Do vậy, tỷ lệ phụ nữ được bầu làm các thành viên
chuyên trách của các ủy ban, hội đồng trong quốc hội sẽ minh chứng rõ nét và
chính xác hơn về quyền lực thực sự của họ trong tổ chức này.
Có một điểm đáng chú ý nữa trong phân tích cơ cấu nữ đại biểu Quốc hội
là những năm gần đây trình độ học vấn của các nữ đại biểu khơng ngừng được
nâng cao, góp phần tích cực và có hiệu quả vào việc khẳng định vị trí của họ
trong Quốc hội nói riêng và trong tồn xã hội nói chung1..
Đánh giá chung về trình độ học vấn của nữ đại biểu Quốc hội, Trung
ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cho biết: Tuy tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội
khoá XII chưa đạt so với chỉ tiêu đề ra nhưng chất lượng đã cao hơn so với các
khóa trước. Cụ thể, đã có 91,34% đại biểu có trình độ đại học trở lên (khố XI
có 88,98%), trong đó, trên đại học là 32,28%, đại học là 59,06% và chỉ có
8,66% đại biểu có trình độ dưới đại học.Việc tham gia xây dựng luật pháp, chính
sách và đóng góp ý kiến, tọa đàm với cử tri của các nữ đại biểu Quốc hội ngày
càng có chất lượng(11).


7
Sự tham gia của phụ nữ vào các cơ quan dân cử cấp tỉnh, huyện, xã cũng
là một đặc trưng đáng lưu ý. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, quy mô và mức độ
tham gia quản lý của phụ nữ Việt Nam trong hệ thống các cơ quan này vẫn cịn
hạn chế, khơng liên tục và ổn định.
Phụ nữ trong HĐND các cấp
1994 - 2004


2004 - 2011

2011 - 2016

Cấp tỉnh

22,33%

23,80%

25,17%

Cấp huyện

20,12%

22,94%

24,62%

Cấp xã

16,10%

19,53%

21,71%

Nguồn: Website của Hội LHPN Việt Nam
Theo đánh giá chung, tỷ lệ nữ trong Hội đồng nhân dân các cấp tăng

không đáng kể. Ngược lại với số lượng phụ nữ tham gia ở các cấp uỷ, tỷ lệ phụ
nữ lãnh đạo ở Hội đồng nhân dân càng xuống cấp dưới càng thấp và thấp nhất ở
cấp xã, phường.
Tỷ lệ nữ giới làm chủ tịch xã, huyện, tỉnh đều rất thấp, tỷ lệ làm phó chủ
tịch các cấp có cao hơn so với tỷ lệ làm chủ tịch nhưng nếu so với nam giới thì
vẫn hết sức chênh lệch. Điều này cho thấy một sự bất bình đẳng nghiêm trọng
giữa nam và nữ, khoảng cách giới về quyền lực tồn tại rất xa. Sự tham gia của
phụ nữ trong quản lý nhà nước ở các cấp còn thấp. Việc đề bạt, bố trí và sử dụng
cán bộ nữ cịn nhiều bất cập ở tất cả các cấp và vị trí lãnh đạo. Tỷ lệ nữ tham gia
quản lý nhà nước đã thấp lại chủ yếu đảm nhận vị trí cấp  phó, thừa hành, giúp
cho cấp trưởng là nam giới1.
Nhiệm kỳ 2017 – 2022 phụ nữ trong các cơ quan Bộ, ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ: Bộ trưởng có 01/22 chiếm 4,5%; Thứ trưởng có 09/99 chiếm
9,1%; Vụ trưởng có 169/2641 chiếm 5,1%; Vụ phó có 498/2641 chiếm 15,1%.
(Nguồn: Tổng hợp Website của Chính phủ và các Bộ, cq ngang Bộ (2017))
Trong tương quan so sánh với thế giới, tính đến cuối năm 2011, Việt Nam
xếp thứ 43 về sự tham gia và đại diện nữ trong hệ thống chính trị, giảm so với vị
trí thứ 36 vào năm 2010 và 33 năm 2008, 31 năm 2007, 25 năm 2006 và 23 năm
2005. Việt Nam xếp thứ 7 trong khu vực châu Á Thái Bình Dương1.


8
Tóm lại: Hiện nay phụ nữ tham gia chính trị ở Việt Nam bên cạnh những
thành tựu đạt được còn tồn tại khơng ít những bất cập như: Tỷ lệ nữ giới trong
các cấp uỷ Đảng chưa đạt chỉ tiêu; Tỷ lệ nữ trong Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp chưa đạt chỉ tiêu Quốc tế và Quốc gia đặt ra; Có sự tăng nhẹ nhưng
ổn định đại diện nữ giới trong các cơ quan dân cử địa phương; Có nhiều nữ giới
nắm các vị trí lãnh đạo cấp thấp hơn và càng ở cấp cao, càng ít sự đại diện của
nữ giới…
3. Một số định hướng giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia chính

trị của phụ nữ
 Phụ nữ muốn thăng tiến, muốn được nhìn nhận thì phải làm việc rất nỗ
lực và phải vượt qua nhiều thách thức hơn so với nam giới. Trở ngại chủ quan
có thể đến từ chính bản thân phụ nữ, khi họ khơng vượt qua được áp lực từ
chính mình. Các trở ngại khách quan phổ biến khác có thể bao gồm những rào
cản từ thể chế, chính sách, định kiến xã hội và áp lực xã hội. Trên cơ sở nhận
định như vậy, một số định hướng giải pháp có thể được đưa ra nhằm khắc phục
những rào cản khách quan và chủ quan, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia ngày
càng sâu rộng vào các hoạt động xã hội nói chung và vào cơng tác lãnh đạo,
quản lý trong hệ thống chính trị nói riêng.
Trên bình diện chung, cịn thiếu những chính sách cán bộ mang tính đồng
bộ, một số chính sách về cán bộ nữ trước đây chỉ nặng về huy động và khai thác
sự đóng góp của phụ nữ, thiếu những chính sách cụ thể trong chiến lược xây
dựng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ nữ, cũng như thiếu
chính sách giúp giảm gánh nặng gia đình cho phụ nữ (16). Do vậy, cần rà sốt,
hồn thiện chính sách đối với phụ nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng.
Những rào cản tiếp theo đối với phụ nữ làm quản lý xuất phát từ định kiến
xã hội. Để từng bước khắc phục rào cản này, cần tiếp tục nâng cao nhận thức,
quan điểm về bình đẳng giới và cơng tác cán bộ nữ trong các cấp ủy đảng, chính
quyền, các đồn thể và quần chúng nhân dân, tạo mơi trường thuận lợi, sự ủng
hộ chung đối với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ làm quản lý, lãnh đạo.
Bắt nguồn từ những định kiến xã hội, phụ nữ cũng mang trong mình
những định kiến về chính bản thân họ, có xu hướng đánh giá thấp chính bản
thân mình. Phụ nữ dường như không sẵn sàng tự đề cao bản thân, hoặc thể hiện


9
các hành vi quả quyết, hay sẵn sàng chấp nhận rủi ro cần thiết dành cho các
chức vụ lãnh đạo. Bên cạnh đó, gánh nặng gia đình cũng là một trong những rào
cản lớn khiến cho nhiều phụ nữ ít có điều kiện phấn đấu hay khơng dám làm

quản lý. Mặc dù cơng cuộc giải phóng phụ nữ đã mở ra nhiều cơ hội cho phụ nữ,
nhưng rất nhiều phụ nữ vẫn nhận ra rằng mình phải là người hy sinh để có thể
cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình. Tuy nhiên, đối với phụ nữ, khó khăn bắt
đầu từ gia đình, nhưng thuận lợi cũng có thể bắt đầu từ đây. Nếu được bố mẹ,
chồng con ủng hộ và tạo điều kiện, người nữ cán bộ quản lý sẽ vượt qua được
các trở ngại và giải quyết tốt các nhiệm vụ quản lý.  Do vậy, các giải pháp nhằm
tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào công tác lãnh đạo, quản lý, cần hướng
tới việc giúp phụ nữ khắc phục, vượt qua tâm lý mặc cảm, tự ti, mạnh dạn phát
huy thế mạnh cũng như giúp họ nhận được sự đồng thuận từ gia đình để bớt đi
gánh nặng tâm lý, nhận được sự chia sẻ để bớt đi gánh nặng việc nhà.
Thái độ của thủ trưởng cơ quan đóng vai trị chủ chốt đối với sự tiến bộ
của phụ nữ. Cuối cùng, họ là người quyết định có tuân thủ các văn bản pháp lý,
nghị định của trung ương không. Các công sở của Việt Nam có tính cấp bậc cao
và thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm về phát ngơn và chương trình của đơn vị.
Thái độ của họ đối với bình đẳng giới quyết định tn thủ và thực thi các chính
sách bình đẳng giới. Thủ trưởng đơn vị tích cực giải quyết các vấn đề nhân sự
nữ thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với phát triển nhân lực của đơn vị nói chung
và lãnh đạo nữ nói riêng. Sự tích cực của thủ trưởng đơn vị thể hiện qua khả
năng đạt được các chỉ tiêu giới trong hoàn cảnh cụ thể của cơ quan, các biện
pháp công bằng và khách quan đánh giá cán bộ và có các kế hoạch tương lai và
quan tâm đến giới trong bồi dưỡng và phát triển nhân sự. Các nhân tố thể chế và
quan niệm hình thành mơi trường hỗ trợ các cơ quan của chính phủ và nhà tài
trợ trong hoạt động nâng cao vai trò lãnh đạo của phụ nữ. Dựa trên các nhân tố
này và thực trạng hiện tại về tỷ lệ đại diện nữ và khung pháp lý hỗ trợ, phần
dưới đây đưa ra một số khuyến nghị cho thời gian tới.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng xây dựng và
phát triển các chính sách, chương trình nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và bảo
đảm quyền cho phụ nữ. Tuy nhiên, trong những năm tới đòi hỏi, các chính sách
cần tập trung: Xem xét xóa bỏ các thực tiễn phân biệt đối xử, yêu cầu phụ nữ



10
nghỉ hưu năm năm sớm hơn nam giới, ở độ tuổi đỉnh cao và hiệu quả nhất trong
sự nghiệp của họ. Sửa đổi luật lao động để đảm bảo nam và nữ nghỉ hưu ở tuổi
tối đa và tối thiểu như nhau. Xem xét xóa bỏ giới hạn tuổi đối với phụ nữ trong
tuyển dụng, bổ nhiệm và đề cử thamgia tập huấn, bồi dưỡng. Quan trọng hơn, áp
dụng các biện pháp kỷ luật nghiêm khắc nếu không đạt được các chỉ tiêu. Áp
dụng hệ thống thưởng để ghi nhận những cơ quan có thực tiễn tuyển dụng và
nhân sự tiến bộ, dẫn đến tăng tỷ lệ nữ phó vụ trưởng và vụ trưởng. Tiến hành
các chương trình tập huấn và hướng dẫn cho phụ nữ ở cấp thấp, để chuẩn bị
thăng tiến và hoạt động hiệu quả ở các vị trí cao cấp hơn. Tiến hành nghiên cứu
và bước đầu thảo luận giới thiệu nghỉ thai sản của bố mẹ hoặc của bố, để chứng
tỏ chính phủ ủng hộ nam giới đóng vai trị lớn hơn trong chăm sóc trẻ và hỗ trợ
vợ theo đuổi sự nghiệp.

KẾT LUẬN
Việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý là biểu hiện cao nhất, đầy đủ nhất
quyền bình đẳng giới của phụ nữ. Việc tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào
các vị trí lãnh đạo, quản lý khơng chỉ là một tiêu chí quan trọng của bình đẳng
giới mà cịn là động lực thúc đẩy mức độ bình đẳng giới. Khi người phụ nữ ở vị
trí lãnh đạo, quản lý, việc ban hành các chính sách và tổ chức thực hiện các
chính sách có lồng ghép vấn đề bình đẳng giới sẽ thuận lợi hơn.
Những phân tích nêu trên cho thấy xu hướng chung của phụ nữ làm lãnh
đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay là có sự gia tăng không đồng đều và khá
chậm. Hiện nay, thông qua việc tham gia lãnh đạo, quản lý, phụ nữ đã có nhiều
đóng góp to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, tỷ lệ này không đồng đều ở các lĩnh vực
và bị hạn chế về số lượng, thậm chí, ở nhiều cơ quan, tổ chức, phụ nữ lãnh đạo,
quản lý ít có thực quyền. So với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, số
lượng nữ ở các cương vị quản lý như vậy chưa tương xứng với vai trò, vị trí và
những đóng góp của họ trong các hoạt động phát triển. Sự thiếu hụt cán bộ nữ

trên một số lĩnh vực quan trọng làm cho việc hoạch định kế hoạch, chính sách
thiếu tiếng nói đại diện của phụ nữ, dẫn đến thực hiện bình đẳng giới về mọi mặt
chưa đạt kết quả mong muốn. Vì vậy, trong những năm tới đòi hỏi Đảng và Nhà


11
nước ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên nhằm nâng cao hiệu quả
việc bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của UNDP: Sự tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo và
quản lý ở Việt Nam, 2012.
2. Bài giảng môn Giới trong lãnh đạo, quản lý, Trung tâm Nghiên cứu
giới và lãnh đạo nữ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Website của Hội LHPN Việt Nam.



×