MỤC LỤC
PHÁT HUY NGUỒN LỰC LAO ĐỘNG VÀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TRONG TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ................................2
I. MỞ BÀI........................................................................................................2
II. NỘI DUNG.................................................................................................2
1. Một số khái niệm cơ bản.............................................................................2
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn lực lao động và khoa học,
công nghệ trong tăng trưởng phát triển kinh tế...........................................2
2.1. Nguồn lực lao động và phát triển nguồn lực lao động..........................2
2.2. Nguồn lực khoa học – công nghệ.............................................................2
III. KẾT LUẬN...............................................................................................2
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................2
1
PHÁT HUY NGUỒN LỰC LAO ĐỘNG VÀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TRONG TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. MỞ BÀI
Việt Nam đang tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mợt cách
hết sức mạnh mẽ; tồn cầu hố, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rợng, đã và
đang trở thành xu thế lớn của thời đại. Đây không chỉ là thách thức, mà đó
còn là thời cơ, điều kiện, là cơ hội thuận lợi để cho chúng ta có thể vận
dụng tiến bộ khoa học và cơng nghệ để đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước theo con đường rút ngắn, đi tắt, đón đầu. Để tận dụng có
hiệu quả thời cơ, vượt qua những thách thức đang phải đối mặt, chúng ta
rất cần có nguồn nội lực mạnh, trước hết là nguồn lực con người với bản
lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, trí tuệ cao, có năng lực
nắm bắt và vận dụng có hiệu quả khoa học và cơng nghệ của nhân loại vào
điều kiện cụ thể của nước ta.
Sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam không đơn giản chỉ
là công cuộc xây dựng kinh tế, mà chính là q trình biến đổi sâu sắc, tồn
diện mọi mặt đời sống xã hội nhằm đưa xã hội phát triển lên một giai đoạn
mới về chất. Để đáp ứng yêu cầu đó, phải có nguồn lực con người đủ về số
lượng, phát triển cao về chất lượng với một cơ cấu hợp lý, thật sự là động lực
cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ,
một trong ba khâu đột phá để thực hiện Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững... là “Phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ" [9,tr.32 ]
2
II. NỘI DUNG
1. Một số khái niệm cơ bản:
- Nguồn lực
Theo GS. TS Lê Dung Phong, “ Nguồn lực là tổng hợp các yếu tố vật
chất và phi vật thể tạo nên nền kinh tế của một đất nước và thúc đẩy nó phát
triển”
- Nguồn lực lao động và phát triển nguồn nhân lực
+ Nguồn lực lao động hay lực lượng lao động là một bộ phận của dân
số, trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật đang có việc làm hay
đang tích cực tìm kiếm việc làm
+ Phát triển nguồn lực lao động: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển nguồn nhân lực phải chú ý về cả số lượng và chất lượng.tr55
- Nguồn lực khoa học – cơng nghệ
Có thể hiểu những cách khác nhau, theo cuốn KH, CN Việt Nam 2003
và cuốn “ cẩm nang về đo lường nguồn nhân lực KH, CN của tổ chức Hợp tác
và phát triển kinh tế ( OECD) thì nhân lực khoa học và công nghệ bao gồm
những người đáp ứng đượcmột trong những điều kiện sau đây:
1, Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng làm việc trong một ngành khoa
học, công nghệ;
2, Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng nhưng không làm việc trong một
ngành khoa học, công nghệ;
3, chưa tốt nghiệp đại học và cao đẳng nhưng làm một cơng việc trong
một ngành khoa học, cơng nghệ địi hỏi trình độ tương đương
Đây chính là khái niệm nhân lực KH, CN theo nghĩa rộng. Theo đó, có
thể hiểu nhân lực khoa học, công nghệ bao gồm cả những người đã tốt nghiệp
đại học nhưng không làm việc trong lĩnh vực khoa học, công nghệ.
3
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn lực lao động và
khoa học, công nghệ trong tăng trưởng phát triển kinh tế
2.1. Nguồn lực lao động và phát triển nguồn lực lao động
Trong các nguồn lực huy động vào thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế , nguồn lực lao động đóng vai trị quan trọng mang tính quyết
định đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia. Bởi vì người
lao động trong tổng nguồn lao động luôn là người phát hiện, cải tạo và sáng
tạo ra các nguồn lực khác. Đồng thời với tư cách là nguồn lực đầu vào, nguồn
lao động kết hợp với nguồn lực vật chất khác tham gia vào quá trình sản xuất
- kinh doanh, tạo ra hàng hóa nói riêng, của cải vật chất nói chung.
Phát triển, sử dụng nguồn lực lao động cần phải hiểu rõ những nhân tố
ảnh hưởng cửa chúng, bao gồm: Nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và nhân tố
ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn lực lao động.
- Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến số lượng nguồn lực lao động, bao gồm
các nhân tố chủ yếu:
+ sự gia tăng quy mô gia tăng dân số và tốc độ gia tăng dân số có liên
quan trực tiếp đến số lượng lao động
+ cơ cấu dân số - lao động ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng lao động
Ngoài ra, số lượng nguồn lao động còn chịu tác động của các nhân tố
khác, chẳng hạn: quy định về độ tuổi lao động của quốc gia, dịch bệnh, chiến
tranh…
- Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động, bao gồm
các nhân tố chủ yếu:
+ do di truyền, các yếu tố về dinh dưỡng;
+ vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn lao động,
+ khả năng rèn luyện sức khỏe…
4
- Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến trình độ học vấn , trình độ chun mơn
kỷ thuật, đạo đức và tác phong của người lao động, chủ yếu phụ thuộc vào
các nhân tố:
+ Giáo dục và đào tạo
+ cơ chế chính sách vĩ mơ của nhà nước,
+ u cầu của thị trường lao động,
+ các nhân tố văn hóa, truyền thống…
Muốn phát triển, sử dụng hiệu quả nguồn lao động cần phải hiểu rõ
những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng trên. Qua đó nhà nước và chủ thể kinh tế
trong xã hội xây dựng, hồn thiện cơ chế, chính sách nhằm điều chỉnh về mặt
số lượng nâng cao chất lượng nguồn lao động
Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển, sử
dụng và tạo việc làm cho người lao động nhằm thúc đẩy tăng trưởng, phát
triển kinh tế cụ thể như sau:
Đại hội VII chỉ ra đường hướng nâng cao chất lượng nguồn lao động
thông qua phát triển giáo dục và đaog tạo, coi giáo dục đóng vai trị then chốt
trong tồn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao dân trí, bồi
dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức và có tay nghề, có
năng lực thành thạo, tự chủ, năng động, sáng tạo có đạo đức cách mạng, nhà
trường đào tạo các thế hệ theo hướng toàn diện và có năng lực chun mơn
sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. [6tr81]
Đại hội VIII: Đặt ra nhiệm vụ cùng với khoa học, công nghệ, giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu,nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt:mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và
phát huy hiệu quả trong giáo dục và đào tạo; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe,
nâng cao thể chất cho nhân dân; đẩy mạnh công tác dân số, kế hoạch hóa gia
5
đình;bảo đảm cơng ăn việc làm cho nhân dân là mục tiêu xã hội hàng đầu. [7
tr99, 107, 114- 116]
Đại hội IX: khẳng định phải hồn thiện cơ chế ,chính sách pháp luật thị
trường lao động; đa dạng hóa các hình thức tìm việc làm, giới thiệu việc làm
và tuyển chọn lao động, phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân
lực, hình thành các giá trị con người mới, giá trị xã hội mới làm cơ sở và động
lực cho đất nước nhanh và bền vững, chăm sóc sức khỏe và bảo vệ nhân dân
Đại hội X: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đápứng yêu cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức.[8.tr94.]
Đại hội XI: Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực là một trong
ba ddootj phát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -2020, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, quản lý giỏi, độ
ngũ cán bộ khoa học cơng nghệ, văn hóa đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao
động lành nghề;gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân luwcjvowis phát triển
ứng dụng khoa học cơng nghệ..Nâng cao chất lượng cơng tác chăm sóc sức
khỏe nhân dân;tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu
nhập.[9 tr 106, 128, 130]
Trong thời gian tới, cần phải phát triển và sử dụng nguồn lực lao động
theo hướng: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Phát triển nguồn nhân lực phải
chú ý về cả số lượng và chất lượng
Về mặt số lượng: Tiếp tục điều chỉnh quy mô dân số hợp lý, làm tốt cơng
tác kế hoạch hóa gia đình
“ng̀n lực con người” bao gờm những người trong độ tuổi (của mợt
q́c gia, mợt địa phương) có khả năng tham gia vào quá trình lao động sản
xuất tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong một giai đoạn lịch sử
nhất định.
6
Về chất lượng: chú ý tới mục tiêu kép: nâng cao thể chất cho người lao
động và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đạo đức tác phong cho
người lao động. Trong đó,trước hết là xây dựng và thực thi chiến lược dinh
dưỡng nhằm nâng cao sức khỏe và thể lực cho toàn dân…phát triển nguồn lực
lao động hợp lý, tranh thủ và chớp thời cơ dân số vàng để phát triển bền vững.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển giáo dục đào tạo xây dựng chiến lược và thực thi
chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo gắn với chủ động hội nhập quốc tế.
Tiến hành cải cách toàn diện, tổng thể và nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo, định hướng nghề nghiệp cho học sinh và các bậc phụ huynh; tăng cường
đầu tư cho giáo dục đào tạo hướng đầu tư vào bồi dưỡng và phát triển nhân
tài. Đổi mới triệt để công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng đầu ra của sản
phẩm giáo dục đào tạo, thực hiện tái cơ cấu kinh tế, tạo mở việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động. Thực hiện mở cửu thị trường lao động có kiểm
sốt nhằm tạo sức cạnh tranh nâng cao chất lượng người alo động. Đẩy mạnh
xuất khẩu lao động trên cơ sở phát triển thị trường mới, giữ vững thị trường
truyền thống, chuẩn bị tốt về năng lực,phẩm chất nghề nghiệp cho lực lượng
lao động xuất khẩu…
Tại Đại hội lần thứ XII xác định: “ phát triển giáo dục, đào tạo nhằm
nâng cao dân trí, đạo tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài , gắn với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội,xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học, công
nghệ, chuyển mạnh qua strinhf giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực phẩm chất của người học đi đôi với hành, lý luận
gắn liền với thực tiễn” [10.tr114, 115]
Một trong những đặc điểm lớn nhất, bao trùm nhất nói lên thực chất của
quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và quy định nội dung chủ yếu
của quá trình đó là nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản,
7
từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, “lực lượng sản xuất rất thấp”
[1tr8]
Trong cấu trúc của lực lượng sản xuất, người lao động luôn luôn giữ vai
trị quan trọng và có ý nghĩa quyết định. C. Mác từng viết rằng: "Trong tất cả
những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân
giai cấp cách mạng". Còn V.I. Lênin cho rằng: “Lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [13, tr430]
So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, hiện tại Việt Nam có
nguồn nhân lực tương đối dồi dào, số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh
và chiếm tỷ lệ cao trong dân số cả nước. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên
ước tính đến 1/1/2014 là 53,65 triệu người, tăng 864,3 nghìn người so với
cùng thời điểm năm trước. Trong đó lực lượng lao động trong độ tuổi lao
động ước 47,49 triệu người, tăng 409,2 nghìn ngườii.Việt Nam là nước đơng
dân thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực.Tính đến ngày 1/4/2009, dân
số của nước ta có 85.789.573 người, con số đó hiện nay là hơn 90 triệuii. Cơ
cấu dân số vàng xuất hiện ở nước ta từ năm 2010 và kết thúc khoảng năm
2040, đây là khoảng thời gian tương đối dài để chúng ta phát huy lợi thế về
nguồn lực lao động nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Tuy có thế mạnh về số lượng, nhưng Việt Nam đang vấp phải lực cản
lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Trong tổng số hơn 90 triệu người thì số
người sống ở nông thôn chiếm khoảng 73%. Trong số gần 22 triệu người
trong độ tuổi lao động sống ở nơng thơn trên phạm vi cả nước, có đến hơn 20
triệu người chưa qua đào tạo và khơng có chứng chỉ chun mơn. Người có
bằng sơ cấp, cơng nhân kỹ thuật chỉ chiếm 1,26%, trung cấp 0,87%, đại học cao đẳng là 0,22%. Những chỉ số này cho thấy chất lượng nguồn nhân lực ở
nơng thơn nước ta cịn rất thấp. Cho dù tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010
8
đạt 40% tổng số lao động đang làm việc, nhưng chủ yếu là các lĩnh vực khác
ngồi nơng nghiệp.[14]
Khơng chỉ đối với giai cấp nông dân, ngay cả giai cấp công nhân nước ta
số lượng không ngừng được tăng lên, nhưng chất lượng cịn thấp
Khơng chỉ đối với giai cấp nông dân, ngay cả giai cấp công nhân nước ta
sau gần 30 năm đổi mới số lượng công nhân không ngừng tăng lên, chiếm
khoảng 13,5% dân số cả nước và 26,4% lực lượng lao động xã hội, nhưng
nhìn chung giai cấp công nhân Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về
số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong
công nghiệp và kỷ luật lao động cịn hạn chế; đa phần cơng nhân từ nơng thơn
chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống [4tr.45]
Nhìn chung, giai cấp cơng nhân Việt Nam vẫn "chưa đáp ứng được yêu
cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề
nghiệp của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế;
thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân
lành nghề; tác phong cơng nghiệp và kỷ luật lao động cịn nhiều hạn chế; đa
phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống". Theo
số liệu của Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực - Bộ Giáo
dục và Đào tạo, cơng nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở nước ta chiếm
khoảng 3,3% đội ngũ cơng nhân nói chung,
Về đội ngũ trí thức. Đảng ta quan niệm “Trí thức là những người lao
động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chun mơn nhất định, có
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những
sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”[ 8tr82]
9
So với trước đây, đội ngũ trí thức Việt Nam không ngừng tăng lên cả về
số lượng lẫn chất lượng. Chẳng hạn, khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, số người có trình độ đại học trở lên của
nước ta là khoảng 700.000 người, trong đó trên dưới 7.000 người có học hàm,
học vị sau đại học.[17tr 52] Gần 20 năm sau, đội ngũ trí thức Việt Nam đã lớn
mạnh không ngừng, nhất là về sớ lượng. Tính đến năm 2009, đội ngũ trí thức
Việt Nam có khoảng 2,5 triệu người, chiếm 2,15% dân số
Tuy số lượng trí thứcViệt Nam tăng nhanh, nhưng nhìn chung chất
lượng chưa tương xứng. Tỷ lệ tốt nghiệp đại học, tỷ lệ có học vị tiến sĩ trên
triệu dân của nước ta cao hơn tất cả các nước có thu nhập bình qn theo đầu
người tương đương, nhưng chất lượng và sự cống hiến của đội ngũ này nhìn
chung chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển. Số lượng nghiên cứu khoa học
đạt chuẩn quốc tế của Việt Nam chưa nhiều. Đơn đăng ký sáng chế quốc tế
cịn ít.
Theo TS. Phạm Văn Tân, Phó chủ tịch Hội đồng đăng bạ kỹ sư Việt
Nam, mặc dù chúng ta có khoảng 500.000 kỹ sư hành nghề chun mơn
nhưng chỉ có 108 kỹ sư đủ tiêu chuẩn kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN mà thôi
Gần đây nhân sự kiện Tổ chức phát triển và hợp tác quốc tế (OECD)
công bố kết quả đánh giá học sinh quốc tế (PISA) 2012, theo đó Việt Nam
xếp hạng 17 trong tổng số 65 quốc gia, vùng lãnh thổ, vượt xa học sinh Anh,
Mỹ, tác giả Lê Thanh Phong có bài “ Đừng quá say sưa với chiếc bánh
PISA” đăng ở trang 1 và trang 2 Báo Lao động ( ngày 6-12-2013), tác giả bài
báo cho rằng, “hiện nay Việt Nam khơng có phát minh, sáng chế có giá trị,
khơng tạo ra được cơng nghệ hiện đại phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế,
ngành công nghiệp Việt Nam không làm ra được chiếc rađio cạnh tranh với
hàng Trung Quốc.
10
Về giá trị đổi mới, sáng tạo, chúng ta đang là quốc gia có thứ hạng trung
bình trên bảng xếp hạng tồn cầu do Tổ chức Sở hữu trí tuệ tồn cầu (WIPO)
thuộc Liên hợp quốc cơng bố năm 2012, đứng thứ 76/141 quốc gia”
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập thế giới, khi mà kinh tế tri thức
đang đóng vai trị quan trọng đối với tiến bộ xã hội, khi mà lợi thế cạnh tranh
thuộc về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao thì vai trị của tri
thức khoa học và đội ngũ trí thức – với tư cách là những bộ phận hợp thành
của lực lượng sản xuất- càng trở nên quan trọng. Tại Hội nghị lần thứ bảy,
khóa X, Đảng ta xác định: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo
đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[5,tr90]
Sáng tạo của trí thức chủ yếu là sáng tạo tri thức khoa học - lĩnh vực hoạt
động nghiên cứu nhằm mục đích phát hiện, sáng tạo ra những tri thức mới về
tự nhiên, xã hội và tư duy trên cơ sở phản ánh quy luật vận động của thế giới
hiện thự – lực lượng sản xuất trực tiếp trong thời đại ngày nay.
Nhiều ý kiến cho rằng, C. Mác và Ph. Ăngghen tiên đoán khoa học sẽ trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, ý kiến này rất đáng trân trọng. Nhưng theo
nghiên cứu của chúng tôi, hai nhà kinh điển mác xít khơng phải chỉ dự đốn
mà các ơng đã nói rằng khoa học (tri thức khoa học) là lực lượng sản xuất
trực tiếp rồi. Ta có thể dẫn ra đây một số luận điểm của các ông có liên quan
đến vấn đề này. C. Mác viết: "Có một lực lượng sản xuất khác mà tư bản có
được khơng mất khoản chi phí nào, - đó là sức mạnh của khoa học.
… Nhưng vì để có thể được sử dụng trong quá trình sản xuất trực tiếp,
bản thân những lực lượng ấy cần đến một bản thể do lao động tạo ra, nghĩa là
tồn tại dưới dạng lao động vật hóa" Hoặc “Thiên nhiên khơng chế tạo ra máy
móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo, máy sợi con dọc di động v.v. Tất
11
cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người, là vật liệu tự nhiên
đã được chuyển hóa thành những cơ quan của ý chí con người chế ngự giới tự
nhiên… Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ
biến (Wissen knowledge) đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của quá trình
sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ
biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy”; hay
là: "Tư bản có tính chất sản xuất… với tính cách là một lực lượng thu hút và
chiếm hữu các sức sản xuất của lao động xã hội… và lực lượng sản xuất xã
hội chung, như khoa học chẳng hạn". Hoặc: "Những lực lượng sản xuất, nhất
là những phát minh, đã đạt được ở một địa phương có mất đi hay khơng đới
với sự phát triển sau này, điều đó chỉ phụ thuộc vào sự mở rộng của giao tiếp
thôi"v.v.
2.2. Nguồn lực khoa học – công nghệ
- Tiềm lực về khoa học – công nghệ Việt Nam
Trong nhiều năm qua, vốn đầu tư khoa học và cơng nghệ chiếm 2% tổng
chi phí ngân sách nhà nước, tương đương 0,5% GDP hiện nay con số này
khoảng 9 nghìn tỷ. Những năm gần đây đầu tư của tồn xã hội cho khoa học
và cơng nghệ gần 1% GDP; nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển cơng
nghệ có trên 62 nghìn người, trong đó nhân lực trình độ cao đẳng, đại học trở
lên khoảng 50 nghìn người, với 5 nghìn tiến sỹ, 11 nghìn thạc sỹ. Số cán bộ
nghiên cứu và phát triển đạt 7 người / vạn dân
Hạ tầng cho cơ sở khoa học công nghệ: Nhà nước đầu tư xây dựng 17
phịng thí nghiệm trọng điểm quốc gia thuộc các lĩnh vực trọng điểm ưu tiên,
ba khu vực công nghệ caoquoocs gia ở 3mieenf và 12 khu nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao,trieenr khai hơn 500 cơ quan thông tin khoa học, công
nghệ ở Trung ương và địa phương. Thị trường khoa học công nghệ bước đầu
12
được hình thành. Mơi trường pháp lý cho sự vận hành thị trường ngày càng
hồn thiện
- Trình độ khoa học, cơng nghệ Việt Nam: Máy móc thiết bị của các
doanh nghiệp Việt Nam lạc hậu, chỉ có khoảng 20% thiết bị mới, 60% doanh
nghiệp đầu tư thiết bị đã qua sử dụng, trên 22% thiết bị dây chuyền không
đồng bộ, 25% thiết bị cần đại tu , chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp nghiêm
túc thực hiện việc đánh giá tác động môi trường.
Những năm qua thực hiện nghị quyết trung ương 2 khóa VIII và các nội
dung phát triển khoa học công nghệ trong các nghị quyết Đại hội IX, X, XI
khoa học, cơng nghệ nước ta có bước đáng kể,đạt được nhiều thành tựu quan
trọng như: quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ từng bước được đổi mới,
hiệu quả hơn, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ có nhiều đóng góp
quan trọng phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; hợp tác quốc tế về khoa
học, công nghệ được đẩy mạnh và ngày càng chủ động. tuy nhiên khoa học,
công nghệ nước ta chưa trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đội
ngũ cán bộ khoa học, cơng nghệ có gia tăng số lượng, nhưng chất lượng
kém…
- Chính sách ối với nguồn lực khoa học – cơng nghệ
Phát triển năng lực cơng nghệ có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho
những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, đảm bảo đồng bộ về cơ sở vật
chất nguồn nhân lực. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế tổ chức, hoạt động khoa học,
cơng nghệ xem đó là khâu đột phá để thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả
của khoa học công nghệ, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng phát triển đồng bộ
khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỷ thuật và công nghệ. Hướng
khoa học xã hội vào nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận dự báo
hướng phát triển, cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách
13
phát triển đất nước. Hướng khoa học công nghệ vào phục vụ chương trình , kế
hoạt phát triển kinh tế - xã hội , đặc biệt là lĩnh vực then chốt, mũi nhọn.
Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa
học, công nghệ, xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước
hết là công nghệ thông tin, công nghệ tự hóa…xây dựng và triển khai lộ trình
phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020.
Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp theo nghĩa nó là nguyên
nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất; khoa học ngày càng được áp
dụng rộng rãi trong sản xuất; khoa học thâm nhập vào các yếu tố của quá
trình sản xuất; khoa học tạo ra vật liệu mới v.v.
Ý thức được vai trị to lớn của trí tuệ, của tri thức khoa học, Đảng và
Nhà nước ta đã có những chủ trương nhằm phát triển khoa học, biến khoa học
thành lực lượng sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển. Một trong những cột
mốc quan trọng đánh dấu chủ trương, đường lối phát triển khoa học, giáo dục
– đào tạo của Đảng ta đó là Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII;
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước v.v.
Tại Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII,
Đảng ta đã có nghị quyết "Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và
cơng nghệ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm
2000". Nghị quyết này là sự kế thừa, bổ sung và phát triển Nghị quyết 26 của
Bộ Chính trị (khóa VI), Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung
ương bảy (khóa VII) trước đây.
Tại Hội nghị lần này, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo:
"Cùng với giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
14
là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc
lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học công nghệ". [3tr 59]
Tại Đại hội lần thứ XI (1-2011) Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Phát triển
khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển
nhanh và bền vững… Hướng trọng tâm hoạt động khoa học, công nghệ vào
phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển theo chiều sâu góp phần
tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế" [9, tr132]
Gần đây, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6, khóa
XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW)
Về phát triển khoa học và cơng nghệ phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế. Nghị quyết khẳng định: “Trong q trình thực hiện cơng cuộc
đổi mới, mặc dù điều kiện đất nước cịn nhiều khó khăn, nhưng nhờ có sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ các nhà khoa
học, sự cố gắng của các doanh nghiệp và nhân dân, khoa học và công nghệ
nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận
cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; góp phần xây dựng hệ thống quan điểm phát triển đất
nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia
và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam. Khoa
học tự nhiên đã có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở cho
việc hình thành một số lĩnh vực khoa học và cơng nghệ đa ngành mới, góp
phần nâng cao trình độ và năng lực của khoa học cơ bản. Khoa học kỹ thuật
15
và cơng nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng
hàng hóa và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền
kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới”.
Tại Đại hội lần thứ XII (1-2016) Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Phát triển
mạnh mẽ khoa học và công nghệ làm cho khoa học, công nghệ thực sự là
quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế ; đảm bảo mội trường, bảo đảm quốc phòng an
ninh; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được
ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các
cấp” [10,tr119, 120]
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, khoa học – công nghệ ở nước ta
thời gian qua cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Hội nghị Trung ương sáu khóa
XI đánh giá: “hoạt động khoa học và cơng nghệ nhìn chung cịn trầm lắng,
chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Việc huy động
nguồn lực của xã hội vào hoạt động khoa học và công nghệ chưa được chú
trọng; đầu tư cho khoa học và cơng nghệ cịn thấp, hiệu quả sử dụng chưa
cao. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và cơng nghệ cịn
nhiều bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ chậm được
đổi mới. Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ chưa
gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; cơ chế tài chính cịn chưa hợp lý.
Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa gắn kết chặt chẽ kết
quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và
quản lý. Hợp tác quốc tế về khoa học và cơng nghệ cịn thiếu định hướng
chiến lược, hiệu quả thấp.”
So với khu vực và thế giới, Việt Nam vẫn cịn q ít các nhà khoa học
đỉnh cao; chưa có nhiều phát minh, sáng chế có giá trị và tiếng vang lớn trên
16
thế giới; chưa tạo ra được công nghệ hiện đại góp phần đẩy nhanh tiến độ
phát triển của lực lượng sản xuất, để đưa trình độ lực lượng sản xuất nước ta
thoát ra khỏi tình trạng “ rất thấp”, không đờng đều như hiện nay.
Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ toàn cầu (WIPO) thuộc Liên hợp quốc, năm
2012 Việt Nam đứng thứ 76/141 quốc gia về giá trị đổi mới, sáng tạo. Bộ
Khoa học – Công nghệ cho biết, Việt Nam có 18 phịng thí nghiệm trọng
điểm, đầu tư năm 2001 trị giá hơn 1.200 tỷ đồng nhưng chưa có được thành
tựu khoa học lớn nào. Giai đoạn 2002-2007 Singapore có hơn 2.500 đơn đăng
ký sáng chế quốc tế, Philipin có 116 đơn, Thái Lan có 53 đơn, Việt Nam chỉ
có 26 đơn
Nghiên cứu thực trạng ng̀n lực lao động và khoa học – công nghệ
trong tăng trưởng kinh tế nước ta hiện nay, chúng ta thấy có mấy vấn đề lớn
đặt ra sau đây:
Một, mâu thuẫn giữa sự phát triển nhanh về số lượng nhưng lại hạn chế
về chất lượng nguồn nhân lực. Thực tiễn chỉ cho chúng ta thấy rằng trong
nhiều trường hợp nguồn lực con người với số lượng đông nhưng chất lượng
thấp lại trở thành lực cản đối với sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung, lực
lượng sản xuất nói riêng.
Trong tổng số hơn 50,35 triệu người từ 15 tuổi trở lên đang làm việc của
cả nước, chỉ có gần 7,8 triệu người đã được đào tạo, chiếm 15,4% , còn lại
84,6% số người đang làm việc chưa được đào tạo. Ngoài ra sự chênh lệch về
tỷ lệ lao động làm việc đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn rất lớn
(30,9% và 9%). Điểm cho năng lực cạnh tranh tổng hợp về nguồn nhân lực
Việt Nam nhìn chung cịn thấp (chưa đạt tới 4 điểm, chỉ đạt 3,79/10)
Hai, vấn đề quản lý nhà nước về nguồn lực con người. Tuy đạt được
những kết quả nhất định trong lĩnh vực quản lý nhà nước về nguồn nhân lực
nhưng thời gian qua vấn đề này vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém. Điều đó biểu
17
hiện trong dự báo về nhu cầu biến động về cung-cầu nhân lực trên thị trường
lao động (theo Báo Lao động, ngày 15/12/2012, có tới 63% sinh viên thất
nghiệp sau khi ra trường. Còn Báo Lao động ra ngày 27/12/2012 cho biết,
trong 3 năm 2009-2011 số thí sinh đăng ký vào các ngành kinh tế chiếm 41%
tổng hồ sơ…Dự báo năm 2013 hơn 10.000 sinh viên ngành tài chính- ngân
hàng sẽ thất nghiệp hoặc làm trái ngành. Báo dantri.com.vn ngày 18-3-2013
đưa tin, tính đến ngày 20-2-2013 toàn tỉnh Thanh Hóa có 24.956 sinh viên đã
tốt nghiệp nhưng chưa có việc làm, trong số đó có 45 người có trình độ trên
đại học và 5.674 người tốt nghiệp đại học); trong tổ chức xây dựng, thực hiện
các chương trình quốc gia về việc làm, di dân xây dựng các vùng kinh tế mới,
hay chính sách tiền lương, bảo hiểm; các chính sách về lao động, việc làm;
thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về lao động, xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật v.v.
Ba,về đào tạo nguồn lực con người. Chúng ta biết rằng, để chuyển nhân
lực thành vốn nhân lực nhằm mang lại lợi ích trước mắt cũng như lâu dài,
đảm bảo sự phát triển bền vững cần phải thông qua quá trình đào tạo. Đào tạo
và đào tạo lại để không ngừng nâng cao trình độ, tay nghề là yêu cầu khách
quan của thị trường sức lao động hiện đại, từ người công nhân cho đến kỹ sư,
từ người trực tiếp sản xuất cho đến nhà quản lý đều phải được cập nhật kiến
thức, thông tin liên quan đến nghề nghiệp. Thông qua đào tạo mà chất lượng
nguồn lực con người được nâng cao.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng mà lĩnh vực giáo dục và đào tạo
nước ta đạt được, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
hiện vẫn còn không ít vấn đề cần phải giải quyết. Hội nghị Trung ương tám
khóa XI của Đảng có đánh giá “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn
thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp …đào tạo
còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành…Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều
18
yếu kém”.Ngoài ra đào tạo của chúng ta nhiều khi không bám sát thị trường
sức lao động, điều này đã gây ra nhiều lãng phí cho xã hội. Trong số khoảng
16.000 công nhân của Công ty TNHH điện tử Poster Đà Nẵng có đến cả ngàn
người có bằng kỹ sư, cử nhân, có người có 2 bằng cử nhân, nhiều cặp vợ
chồng cử nhân cũng làm công nhân tại công ty này. Thậm chí nhiều người có
bằng cử nhân nhưng chỉ khai nhận trình độ lớp 9, lớp 12 để công ty không sợ
bị “ nhảy việc”[15.] Có thể nói rằng những yếu kém, bất cập trên đây đã và
đang góp phần làm giảm sút chất lượng nguồn lực con người – với tư cách là
yếu tố quyết định trong lực lượng sản xuất nước ta hiện nay.
Để thực hiện một trong năm bài học kinh nghiệm được Đại hội lần thứ
XI rút ra là “ Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời với xây dựng, hoàn
thiện quan hệ sản xuất, củng cố và tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa”
[9, tr21], một trong những nhiệm vụ trước mắt là phải giải quyết tốt các mâu
thuẫn trên đây để một mặt vừa phát huy nhân tố con người, phát huy vai trò
nguồn lực con người trong lực lượng sản xuất, mặt khác thông qua việc phát
triển lực lượng sản xuất để củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay có như vậy mới góp phần thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đồng thời với việc xác định những phương hướng chính, những
nhiệm vụ chủ yếu nhằm thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào
tạo và phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, văn kiện đặc biệt chú trọng
nhiệm vụ, giải phát gắn kết giáo dục,đào tạo và khoa học – công nghệ với
phát triển nguồn nhân lực,nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ
hiệu quả đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa , đổi mới mơ hình tăng
trưởng cơ cấu lại kinh tế, thực hiện 3 đột phát chiến lược.
19
III. KẾT LUẬN
Sau 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, sau 20
năm nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực, tốc độ
tăng trưởng nhanh và tương đối bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt,
đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát
triển có thu nhập trung bình (năm 2013 tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu
người đạt gần 2.000USD, con số này năm 2010 là 1.168 USD).
Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại;
của kinh tế tri thức; của quá trình CNH gắn liền với HĐH, vai trò của
nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên to lớn. Việt Nam có tiến hành
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH hay không; có “tham gia vào mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu được hay không... điều đó phụ thuộc một
phần rất lớn vào khâu đột phá chiến lược: “Phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;... gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Đồng
thời “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức... nâng cao
năng lực khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên
cứu ứng dụng”
Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học
và cơng nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan
trọng, góp phần tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát
triển. Chính vì xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số
lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến
lên ngang tầm với trình độ trí thức trong khu vực và trên thế giới là một trong
những nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
.
20